- 12 -
Tác giả: Jenny Nimmo
Billy luôn luôn ăn tối một mình trong phòng. Khi ăn xong, nó sẽ mang khay xuống nhà bếp và ở đó nó sẽ rửa hết chén dĩa của cả nhà, trong khi gia đình de Grey ngồi bên bàn, tính toán tài khoản.
Vào đêm mà Billy hy vọng sẽ trốn thoát, nó để ý thấy mụ Florence có một chồng mẫu đơn ở trước mặt. Mụ lướt nhanh những tờ giấy, liếm ngón tay cái và mỉm cười đầy thỏa mãn.
Những xấp giấy ghi lời thề, Billy nghĩ. Nó nhận ra cần phải làm sao để huy được những lời thề của chính nó, để có thể thoát khỏi gia đình de Grey mãi mãi, thoát thật sự. Nhưng những lời thề được cất giữ ở đâu? Nó cần phải tìm ra.
Billy lau khô chiếc dĩa cuối cùng và xếp vào tủ đựng đồ sứ.
“Chúc mẹ ngủ ngon! Chúc ba ngủ ngon,” nó nói.
Nó nhận thấy nó không tài nào gọi hai người ấy bằng tên được, như họ yêu cầu.
“Cám ơn vì cho con ăn bữa tối ngon,” nó thêm.
“Ăn gì?” Mụ Florence hỏi, không hề ngước lên.
“Một chiếc bánh mì kẹp,” Billy nói.
“Kẹp gì?” Lão Usher hỏi.
Billy cần phải nghĩ thiệt khó khăn về món kẹp.
“Con nghĩ đó là bơ thực vật,” nó nói.
“Hết đau rồi hả… cưng?” Mụ Florence liếc nó một cái qua quít.
“Dạ rồi, cảm ơn… mẹ.”
“Chúng ta hy vọng con sẽ không bệnh lần nữa,” mụ Florence nói, đánh dấu kiểm vào một trong những tờ giấy.
“Dạ. Chúc ba mẹ ngủ ngon.”
Chẳng ai trong gia đình de Grey thèm để ý tới Billy khi nó rời nhà bếp. Nó bước qua hành lang lát gạch, bảo hai bàn chân phải hành xử sao cho bình thường, nhưng cái đầu cứ rối tung rối bời, đến nỗi nó không thể nhớ ra trước nay mình vẫn đi như thế nào nữa. Khi đã đi đến cầu thang, nó vọt lên, hai bậc một, nôn nóng chuẩn bị cho một đêm trước mặt.
Gia đình de Grey không bao giờ ghé qua ngó Billy vào ban đêm, nhưng để phòng hờ, nó tròng bộ đồ ngủ ra bên ngoài bộ đồ thường ngày. Thay vì leo lên giường, nó nhón chân ra chiếu nghĩ và chờ mụ Florence rời nhà bếp. Vào đúng bảy giờ, mụ đi ra, mang theo cái giỏ xách màu xám. Billy lùi vào bóng tối khi mụ băng qua hành lang và đi vào một thư phòng nhỏ ở đầu đằng kia. Mụ ra khỏi phòng mà không mang theo giò xách.
Billy kiễng chân trở vào phòng nó. Để cửa khép hờ, nó tháo mắt kiếng ra và đặt lên cái bàn bên cạnh giường, rồi leo lên giường. Đó là một đêm dài nhất, chưa từng thấy. Đồng hồ nhà thờ lớn điểm mười hai giờ, rồi một, rồi hai, rồi ba. Mất hết hy vọng được giải cứu, Billy thiếp đi trong giấc ngủ đầy mộng mị.
Trong lúc Billy ngủ, những đám mây đêm cuộn đi, để lộ một bầu trời nẹh tênh màu xám nhạt. Thành phố vẫn còn bị màn sương bao bọc; từ trên cao, chỉ thấy được những tháp mái của những tòa nhà cao nhất, những phiến đá ướt át của chúng lấp lánh trong ánh bình minh.
Từ một đống lá vàng tấp ụ quanh một thân cây xám tro, một con mèo cam hiện ra. Bằng một động tác nhanh đến sững sờ, nó nhảy phóc lên một mái nhà cách đó mấy thước. Tiếp bước nó là một con mèo vàng và rồi một con mèo nữa, màu lửa rực. Ba con mèo phóng ào ào qua những đỉnh nóc nhà cho tới khi chạm một ô cửa trời để mở. Lần lượt, con này tiếp con kia, lũ mèo rớt tòm vào một căn phòng trống ở lầu trên cùng của Ngôi Nhà Bất Chợt.
Usher de Grey quá tự tin về lực trường của mình đến nỗi không thèm đóng bất cứ cánh cửa nào. Những con mèo lửa tìm được đường xuống ngôi nhà không mấy khó khăn, nhưng chúng nhận thấy rằng nơi này giăng đầy những ma thuật hiểm độc. Tuy nhiên, với chúng, phá vỡ lực trường cũng dễ như là bước xuyên qua giấy.
Con mèo đen nhỏ đang chờ các bạn nó trên chiếu nghỉ.
“Để tôi đi gọi cậu bé,” nó nói.
Billy giật mình tỉnh giấc khi Vuốt Sắc nhảy lên giường.
“Tới lúc đi rồi, Billy!” Con mèo thì thầm.
Billy dụi mắt, đeo kiếng lên, rồi tuột khỏi giường, nó cởi bộ đồ ngủ ra. Bất giác, nghĩ tới việc sắp làm mới to lớn làm sao, nó rùng mình khiếp hãi. Nó nhìn quanh căn phòng, nhìn cái T.V, cái máy tính, những cuốn sách, những trò chơi – tất cả sẽ là của nó nếu nó ở lại đây mãi mãi. Nó sắp quăng mình vào thế giới của một con mèo đen nhỏ. Liệu nó có thể tin được con mèo không?
Nhưng khi trông thấy những con mèo lửa, thần kinh Billy dịu hẳn đi, nhờ tiếng rù trấn an và những màu sắc ấm áp ở chúng. Giờ nó cảm thấy nó có thể làm bất cứ điều gì.
Florence và Usher de Grey đang ngủ say như chết, chứng tỏ câu tục ngữ cổ “kẻ xấu xa không bao giờ ngủ” dường như sai bét. Khi Billy và bọn mèo đi ngang qua phòng, họ vẫn ngủ say sưa, sung sướng tận hưởng thứ giấc mơ mà hầu hết mọi người đều coi là ác mộng.
Trong ánh sáng kỳ lạ của lũ mèo, Billy có thể thấy rõ mồn một lực trường của Usher. Những sợi chỉ xanh da trời sáng quắc giăng ngang hành lang giống như những sợi tơ của một mạng nhện khổng lồ. Những sợi chỉ xanh da trời ấy đặc biệt dày đặc ở trước những cánh cửa mà chúng bao phủ, và trái tim Billy chùng xuống khi nó thấy cánh cửa căn phòng mà mụ Florence cất túi đựng những tờ lời thề.
Lũ mèo nhảy gọn gàng xuống cầu thang, và khi tới dải xanh da trời đầu tiên, chúng phòng xuyên qua, bỏ lại những sợi tơ đứt treo phất phơ trong không trung.
“Đi, Billy. An toàn mà!” Con Dương Cưu nói.
Billy chạy xuống hành lang và cẩn thận đi theo lộ trình của lũ mèo, chui qua lực trường.
“Trước khi rời đây tôi phải vô căn phòng đó đã,” nó chỉ thư phòng.
Ba con mèo quay ánh mắt sáng rực của chúng về cánh cửa. Nhân Mã, con mèo vàng, đi trước. Dựng đứng trên hai chân sau, nó xé toang màng chỉ bao quanh cánh cửa căn phòng. Billy lần tìm vặn nắm đấm và cửa mở ra. Chiếc giỏ xám đựng tơ hơ trên sàn nhà, ngay bên trong. Khi Billy cầm giỏ lên, nó thấy khóa gài bật mở ra ngay khi nhấn vào. Mụ Florence rõ ràng đã quá tin tưởng rằng sức mạnh của chồng có thể canh giữ bộ sưu tập lời thề của mụ.
Billy lẹ làng lục tìm khắp những xấp giấy trong giỏ, và khi tìm thấy những tờ giấy có ký tên mình, nó lôi ra. Đang đút mớ giấy vào áo len, thì nó cảm thấy mắt của bọn mèo chĩa xoáy vào nó. Nó ngước lên và hiểu ra bọn chúng muốn nó làm gì.
“Tôi nên lấy tất cả đi, phải không?” Nó nói. “Để tất cả được tự do.”
“Phải, Billy,” lũ mèo đồng thanh trả lời. “Tất cả.”
“Lẹ lên,” Sư Tử thêm. “Họ thức dậy bây giờ.”
Vừa chạy ra khỏi căn phòng, Billy vừa cất lời thề của nó vào chỗ cũ và kẹp chiếc giỏ xách xám dưới nách. Những con mèo lửa đang xuyên qua mảng chỉ bao quanh cửa trước. Khi chúng đã phá vỡ màn bao, Billy giật nắm cửa. Một tiếng rít thốn óc vang khắp ngôi nhà khi nó mở cánh cửa ra, và con mèo đen gọi:
“Chạy đi, các bạn. Hắn thức kìa.”
Billy nhào qua cánh cửa cùng với tiếng rống cuồng điên của Usher văng vẳng bên tai:
“Thằng oắt chuồn! Dậy! Dậy!”
Phóng thục mạng trên con đường khúc khuỷu của Ngõ Quanh Co, Billy mừng húm vì có ánh sáng loang loáng của những con mèo lửa, nhưng nó vẫn khiếp hãi. Giờ nó sẽ đi đâu? Và làm sao nó tới được nơi đó?
“Can đảm lên,” Sư Tử khích lện, chạy bên cạnh nó.
Nhân Mã, con sáng nhất, phóng lên trước, trong khi Dương Cưu đi bọc hậu, thỉnh thoảng lại ngó nghiêng quan sát con hẻm tối mù đằng sau chúng.
Giở cả nhóm đã ra đến đường cái, và chạy về phía nhà thờ lớn. Khi chúng phóng băng qua quảng trường rải sỏi, đồng hồ điểm năm giờ đúng và một bầy quạ gáy xám xồ lên, kêu quang quác trên bầu trời bình minh. Billy nhìn hau háu vào tiệm sách cô Ingledew. Nó biết Emma Tolly sống ở đó, nhưng Sư Tử cảnh báo:
“Không dừng lại, Billy. Chỗ đó không an toàn!”
Xuôi theo Đường Chính và xuyên qua thành phố. Tim Billy đập như điên. Nó bắt đầu nghĩ rằng nếu như những lời thề không giết nó thì cuộc hành trình này chắc chắn cũng giết nó. Nó nghe thấy tiếng rồ của động cơ đang tiến đến gần, từng giây, từng giây một. Không giảm nhịp bước, Billy ngoái lại và thấy một chiếc xe hơi xám lú ra khỏi màn dương đằng sau. Gia đình de Grey.
“Đường này!” Nhân Mã ra lệnh, vù vào ngõ hẻm.
Làm thế nào chúng tới được Khu Đồi Cao, Billy không bao giờ biết. Nó chưa bao giờ phải chạy nhiều như vậy, tuy thế, nó đã chạy không hề ngơi nghỉ tính từ lúc rời khỏi Ngôi Nhà Bất Chợt. Phải chăng bọn mèo đã cho nó mượn sức mạnh khi chúng dẫn nó chạy băng qua những con phố mù sương?
Sư Tử trả lời cho câu hỏi mà Billy không nói ra:
“Sức mạnh của Nhà Vua, Billy.”
Khi đến đầu đoạn dốc lên Khu Đồi Cao, chúng vượt qua một ngôi nhà gạch đỏ có một bức tường cao và một cái cổng lớn gài then chắc chắn. BIỆT THỰ LOOM – tấm biển ngoài cổng ghi. Billy chạy qua khỏi ngôi nhà vài thước thì đột nhiên cánh cổng bật bung và bốn con chó đen vọt ra đường. Thay vì dấn nhanh hơn, Billy đứng sựng lại, kinh hãi đến nỗi không nhúc nhích nổi. Những con mắt hung tợn, đen thui của bọn chó săn xỉa thẳng vào nó và những quai hàm vuông chành của chúng bạnh ra, để lộ những hàm răng dài dọc, giết chóc.
Những con mèo lửa vây quanh Billy, gừ lên đe dọa. Bọn chó cụp đầu xuống và gầm gừ.
“Chạy tiếp, Billy,” Dương Cưu hô.
Billy lệt bệt tụt lại, hai đầu gối run rẩy gần như không đỡ nổi nó nữa. Ngay khi nó nghĩ chân cẳng mình chắc sẽ sụm hoàn toàn, thì một tiếng sầm dựng tóc gáy rền lên, chặn bọn chó lại giữa đường. Một giây sau, một ánh chớp rạch toang bầu trời và bọn chó đen chạy bán sống bán chết vào nhà, tru lên khiếp đảm.
“Nào, Billy. Chuồn thôi!” Sư Tử nói.
Billy trông thấy những bóng đèn trước của xe hơi đang chọc qua màn sương mù, và túm chặt lấy giỏ lời thề, nó cắm đầu chạy. Con đường mòn càng lúc càng dốc hơn, nhưng nó vẫn không lơi bước. Tim nó dộng bình bịch, đầu nó quay cuồng, và chân nó run lẩy bẩy, nhưng nó vẫn chạy trối chết và lần này nó không thể dừng lại nữa. Chiếc xe vẫn lừ lừ tiến tới, gần hơn và gần hơn qua làn sương. Chẳng bao lâu nữa chiếc xe sẽ đuổi kịp chúng.
Mưa tuôn xối xả xuống con đường. Sấm ì ầm trên đầu và nước mắt Billy hòa trộn với nước mưa chảy ròng ròng xuống mặt.
“Em không chạy nhanh hơn xe hơi được,” nó nức nở. “Không chạy được. Không chạy được. Họ sẽ bắt em mất.”
“Không,” Sư Tử gầm gừ. Billy ngước lên đúng lúc một quả cầu lửa từ trên bầu trời sấm chớp ầm ầm lao xuống. Quả cầu đâm mạnh, trúng nắp đậy máy của chiếc xe xám cùng với một tiếng rầm xé tai. Động cơ xe bùng cháy.
Gần như không tin vào những gì mắt mình trông thấy, Billy quay lại và chạy tiếp lên đồi.
“Phải đó là Tancred không?” Nó thở hồng hộc. “Tancred và bão tố của anh ấy.”
“Rất giống,” Sư Tử đồng ý.
Con đường quẹo gắt, và Billy, người còng cả xuống vì giỏ đựng lời thề, thấy nó giống như một cái vòi rồng cuốn lên trời. Mưa đổ như trút nước, và hòa cùng một cơn gió mạnh thình lình, một tiếng thét hung tàn, ghê rợn rống lên:
“Billy Raven! Đừng hòng, đừng hòng, đừng hòng!”
Mụ Florence de Grey vẫn cố đuổi theo. Nhưng không còn chiếc xe, cuộc đua trở nên cân sức.
Hự lên một tiếng bất chấp, Billy chồm tiếp, lên đồi, và khi cơn gió thổi rít tợn hơn, nó mở cái giỏ xám và rút ra một nắm tờ lời thề. Chìa chúng ra trước giò, Billy để cho chúng bay đi. Chưa bao giờ nó cảm thấy khoan khoái như khi làm như vậy. Nó thọc tay vào giỏ và thả ra một năm giấy khác. Thêm một nắm nữa, nắm nữa, cho tới khi chiếc giỏ trống trơn và không trung xoắn đặc những tờ giấy bị gió cuốn bay chấp chới. Và Billy tin chắc mình đã nghe thấy tiếng thì thầm hy vọng của những kẻ cùng quẫn bị mụ Florence triệt tiêu, phỉnh lừa – tên của họ giờ được cơn mưa tẩy sạch.
“Tốt! Tốt!” Lũ mèo hoan hô.
Toét miệng cười, Billy thảy chiếc giỏ xám vào lòng cơn bão, và một giọng từ xa hú lên:
“Thằng ngu! Mày sẽ bị trừng phạt. Hãy đợi đấy!”
Charlie thường không bao giờ dậy sớm lúc sáu giờ bảnh mắt vào sáng Chủ nhật như thế này. Thực ra nó không thể nhớ được mấy giờ là mấy giờ, nên nó phải dí sát chiếc đồng hồ đeo tay lên đôi mắt ngái ngủ. Cây dẻ bên ngoài cửa sổ phòng nó đang lắc lư rào rạo trong gió và sấm đùng đoàng đằng xa. Và rồi chuông cửa reng.
Quăng đôi chân xuống sàn, Charlie lết mình tới cửa sổ và ngó ra. Nó vô cùng ngạc nhiên khi thấy chiếc xe Land Rover quen thuộc bên ngoài nhà số Chín. Đứng ở ngưỡng cửa là một người trông bộ nhấp nhỏm, ướt rượt. Đó là ông Silk, cha của Gabriel.
“Chào bác Silk! Charlie gọi.
“A, Charlie,” ông Silk gãi gãi gáy, như thể ông không chắc mình có muốn làm điều mình đang làm hay không.
“Bác đến để chở cháu đi,” ông nói.
“Chở cháu đi?” Charlie càng ngạc nhiên tợn.
“Hình như là…” ông Silk bắt đầu.
Ông không nói được thêm bởi vì cánh cửa thình lình bị nội Bone mở tung ra.
“Gì đó?” Bà hất hàm hỏi theo kiểu thô lỗ của mình. Hôm nay nghe còn cọc cằn hơn thường lệ.
“Tôi đến…” ông Silk lại nói.
Một lần nữa ông bị nạt ngang.
“Ông nghĩ giờ này là mấy giờ, hả?” Nội Bone hạch hỏi.
Lúc này đã tỉnh ngủ hẳn, Charlie bắt đầu quăng ra từng món quần áo. Có lẽ một chuyện gì đó đã xảy ra với Gabriel, hay với một anh bạn khác sống ở Khu Đồi Cao, Tancred hay là Lysander.
Charlie chạy xuống hành lang nơi nội Bone vẫn đang thuyết giáo cho ông Silk nghe về tính ích kỷ của việc dựng mọi người dậy vào sáng sớm Chú nhật. Ông Silk giờ đã ướt nhem ướt nhẹp và trông bộ trầm cảm lắm.
“À, Charlie, đi nào,” ông nói, quay lưng khỏi người phụ nữ hung bạo.
“Tôi phải nói với mẹ nó sao đây?” Nội Bone quát.
“Nói với mẹ là con tới nhà anh Gabriel,” Charlie nói, hấp tấp đi theo ông Silk. Nó nhận thấy một hũ sữa chua đậu phộng ưa thích nhất của Ông cậu Paton thò ra khỏi túi chiếc áo choàng ngủ của bà nội nó, và chỉ để cho bà bớt hung hăng đi, nó thêm:
“Con cá là nội dậy sớm để ăn hết sữa chua của Ông cậu P.”
Nội Bone nguýt cho Charlie một cái căm ghét và đóng sầm cửa lại.
Charlie nhảy tọt vào trong chiếc xe Land Rover và ông Silk lái đi. Sấm chớp đồng hành với họ suốt quãng đường tới Khu Đồi Cao; cùng với tiếng động cơ và tiếng mưa nện ình ình trên nóc, Charlie phải hét om lên mới nghe được chính tiếng mình.
“Có chuyện gì vậy, bác Silk?” Nó hỏi.
“Thiệt khó nói,” ông Silk tỏ ra lấp vấp, tuy ông là một nhà văn viết chuyện kinh dị. Ông giống Gabriel ở gương mặt dài, bơ phờ. Họ thậm chí còn có mái tóc dài, rũ rượi giống y nhau, mặc dù tóc của ông Slik xác xơ hơn. Bồi thêm vào, ông còn có bộ ria dày, quặp rũ xuống. Suy nghĩ một thoáng, ông nói:
“Có một thằng bé ở trong chuồng chuột của Gabriel.”
“Thằng bé nào?”
“Thằng bé tí, tóc trắng, đeo kiếng.”
“Billy!” Charlie thốt lên. “Vậy là nó đã trốn thoát!”
"Nó nói nó muốn gặp cậu. Gabriel năn nỉ bác tới đón cháu. Ừ, cả nhà bác chả ngủ nghê gì được vì bão ì ầm. Cái thằng bão tố, thằng Tancred ấy, nó nói bão sắp tan ngay thôi. Dẫu gì cũng phải từ từ, một khi nó đã nổi sấm hết cỡ như thế. Cũng thông cảm được thôi, bác nghĩ thế.”
“Dạ,” Charlie rất ấn tượng trước sự thấu hiểu của ông Silk.
Đi được nửa dặm qua khỏi cánh cổng đôi của Biệt Thự Loom (bốn con chó săn sủa lồng lên khi nghe tiếng họ đi ngang), chiếc Land Rover vù qua một chiếc xe hơi dúm dó, bị phong tỏa bởi hàng rào cảnh sát. Nắp đậy máy xe sập hẳn xuống, nước sơn trầy tróc, kính chắn gió bể vụn và bánh xe chỉ còn là một đống cao su chảy nhoét.
“Ôi! Chiếc xe đó coi bộ bị sét đánh!” Charlie kêu lên.
“Đúng phóc,” ông Silk nói. “Tài xế vô nhà thương nhưng vợ ông ta không bị trầy xước gì, ngoại trừ bà ta hình như phát điên.”
“Ý tưởng hay cho một câu chuyện kinh dị, phải không bác Silk?” Charlie gợi ý.
“Ừmm!” Nhà viết chuyện kinh dị vuốt ria mép, vẻ trầm tư.
Charlie sượt thấy nhà của Lysander khi họ đi ngang qua một cánh cổng đôi cao bằng sắt rèn. Cha của Lysander là thẩm phán Sage nổi tiếng, và ngôi nhà phản ánh địa vị quan trọng của ông.
“Cậu bé nhà Sage cũng đang ở nhà bác,” ông Silk bảo Charlie. “Và cả Tancred Torsson nữa. Nhà bác chưa bao giờ có nhiều khách vào sớm Chủ nhật như thế.”
Rồi ông quẹo chiếc Land Rover vào một mảnh sân sình lầy nhớp nhúa và dừng lại trước một ngôi nhà trông ọp ẹp.
Charlie nhảy từ chiếc Land Rover ra, đáp thẳng xuống một vũng nước sâu. Nó ước gì đã nhớ mang theo ủng, nhưng giờ thì đã quá trễ. Ông Silk chỉ ra bên hông nhà, chỗ một lối đi hẹp dẫn tới cánh đồng đằng sau nhà.
“Tất cả đang ở trong chuồng chuột,” ông bảo. “Đừng hỏi bác tại sao.”
“Dạ,” Charlie lội bì bõm qua vũng bùn về phía một cái chòi lớn, nơi Gabriel dành rất nhiều giờ rảnh rỗi của nó ở đó, chăm sóc lũ chuột đủ màu. Dòng chữ CHUỘT KIỂNG NHÀ SILK được sơn màu đỏ vắt ngang cánh cửa. Charlie nghe thấy có tiếng rù rù rì rì vọng ra từ bên trong chòi, nhưng tiếng này im bặt khi nó gõ cửa – cửa khóa.
“Ai đó?” Gabriel hỏi.
“Em,” Charlie đáp.
Sau một lát la oai oái và bước lạch bạch, Gabriel mở cửa và Charlie bước vào chời. Nó thấy Tancred và Lysander đang ngồi trên một băng ghế bên dưới một dãy kệ đặt lồng chuột. Băng ghế đó là một trong số ít ỏi những chỗ không có lồng chuột – bởi vì lòng chuột xếp lớp khắp các bức tường, từ sàn lên tới trần. Cơ man nào là chuột trắng, chuột đen, chuột vàng, chuột nâu, chuột lông dài, chuột lông ngắn, chuột lớn và chuột nhỏ. Mùi rất gây rất nồng.
Billy Raven đang ngồi xếp bằng dưới sàn nhà. Nó coi bộ hài lòng, và khi Charlie bước vào nó toét miệng cười ngoác với Charlie.
“Billy, em ra được rồi!” Charlie hét lên. “Em làm cách nào vậy?”
“Những con mèo lửa giúp em. Chúng phá vỡ lực trường.”
Ẩn sau nụ cười, Charlie cảm thấy Billy đang rất hãi hùng.
“Vấn đề là, bây giờ thì sao?” Lysander nói. “Billy nói em biết cách. Chính vì thế mà mời em tới đây, Charlie.”
“Nó không thể ở đây lâu được,” Gabriel nói, giữ cánh cửa và chen vào đằng sau Charlie. “Cái bà de Grey đó thể nào rồi cũng đoán ra nó đi đâu.”
“Mình không khử quách bà ta đi!” Tancred nắm chặt nắm tay lại, và một luồng gió mạnh quét quanh căn chòi, dựng hết tóc mọi người lên và khiến lũ chuột la rùm, cuống quít tìm chỗ núp.
Billy úp chụp hai bàn tay lên tai:
“Em không thể nào suy nghĩ được khi chúng cứ nói thế suốt,” nó than van. “Ở đây sao mà lắm chuột thế, chúng chẳng cho em yên lấy một phút.”
“Chúng nói gì vậy?” Gabriel hỏi. “Tôi lúc nào cũng muốn biết.”
Billy trố mắt nhìn Gabriel, hai tay nó bịt chặt tai hơn. Lysander gỡ một bàn tay Billy ra và hét lớn:
“Gabriel muốn biết bọn chuột đang nói gì.”
“Chúng nói: ‘Cứu tôi với!’ ‘Hự!’ ‘Lại tới nữa!’ ‘Kệ xừ tụi nhóc!’ ‘Cái đó của tao!’ ‘Xéo đi!’”
Ngừng một lát, Billy tiếp:
“Thiệt tình, chán ngắt.”
“Nhưng tôi thì không chán,” Gabriel nói.
Lysander giơ bàn tay lên làm cử chỉ ra lệnh:
“Chúng ta trở lại vấn đề được không? Không dễ gì kiếm được một chỗ an toàn cho Billy, một nơi không ai nghĩ ra mà săn lùng. Rõ ràng là tất cả nhà của tụi mình đều nằm trong diện tình nghi vì tụi mình có phép thuật. Rủi quá, ông thẩm phán đi vắng, không thì anh đã hỏi ý kiến rồi.”
Gabriel đề nghị là bữa điểm tâm sẽ giúp cả bọn suy nghĩ sáng suốt; và rồi nó rời chuồng chuột, hứa sẽ quay lại với trứng chiên, thịt xông khói và bánh mì nướng.
Hé mắt nhìn qua ô cửa sổ nhỏ giữa những lồng chuột, Charlie ngó Gabriel đi vào một cánh cửa ở mặt sau ngói nhà.
“Tại sao tụi mình lại phải ăn ở đây?” Nó nói.
“Để bảo vệ gia đình của Gabriel,” Lysander nói. “Họ không thể tự vể chống lại… bất cứ thứ gì mà những người đó sẽ phải tới để truy đuổi Billy. Và họ sẽ gởi tới thứ gì đó cho coi, tin anh đi. Dầu gì tụi mình cũng là dân được ban phép thuật. Tụi mình chống cự được mà.”
Lời của Lysander cứ như lời tiên tri, bởi vì ánh sáng ban ngày vừa mới bắt đầu lọt qua cửa sổ nhỏ bỗng thình lình tắt ngúm, và cả bọn bị chìm trong một màn đen. Ngay cả bọn chuột cũng im thin thít khi có một tiếng gõ nhẹ nghe thấy trên mái nhà.
“Cái khỉ gì…” Tancred nói.
Tiếng động rõ dần cho đến khi nó trở thành tiếng trống khua dồn. Như thể có hàng triệu bàn tay nhỏ tí xíu đang gõ từng bề mặt của căn chòi, và căn chòi bắt đầu rên lên và rung chuyển dưới sức tấn công đó.
Nóng lòng muốn biết cái gì ở bên ngoài, Charlie lần tìm chốt cửa. Nó tự nhủ rằng mở cửa ra coi chừng là không khôn ngoan, nhưng đến lúc đó đã quá trễ, và nó đã hé nhìn ra.
Một đám mây giấy cuồn cuộn bay vù về phía Charlie, và trong chớp mắt, nó thấy Gabriel ló ra khỏi nhà rồi bị đám giấy bay nuốt chửng. Gabriel té nhào xuống đất và khay đồ ăn sáng tú hụ văng khỏi tay nó. Cái khay rớt xoảng xuống mảnh sân rải sỏi, làm đồ ăn bay tung tóe.
Khi đám giấy luồn vô chuồng chuột, Billy Raven chồm đứng dậy, la thất thanh:
“Đó là những lời thề!”