watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Charlie Bone-TẬP II - Quả Cầu Xoắn Thời Gian - 1 - - tác giả Jenny Nimmo Jenny Nimmo

Jenny Nimmo

TẬP II - Quả Cầu Xoắn Thời Gian - 1 -

Tác giả: Jenny Nimmo

Những người được ban phép thuật



Tất cả những nhân vật sau đều là con cháu của mười người con của Vua Đỏ, vị vua phù thủy đã rời châu Phi vào thế kỷ thứ 12, với ba con báo tháp tùng.


Vua Đỏ đã sống qua nhiều thế kỷ và ông đã làm nên một quả cầu pha lê nhiệm màu. Ông cất vô đó tất cả những ký ức về cuộc hành trình quanh thế giới của mình. Ông dùng quả cầu này để xoắn vặn thời gian, về lại quá khứ hoặc tiến tới tương lai.


Mặt khác, Quả Cầu Xoắn Thời Gian này cũng rất nguy hiểm và không thể lường trước được.




Những hậu huệ của Vua Đỏ



Manfred Bloor: Huynh trưởng của Học viện Bloor. Biết thôi miên.



Charlie Bone: Hậu huệ dòng họ Yewbeam, một dòng họ có nhiều người được ban phép thuật. Charlie có thể nghe được tiếng nói của những người trong hình chụp và hình vẽ.


Zelda dobinski: Hậu duệ một dòng họ phù thủy Ba Lan lâu đời, Zelda là người siêu năng có thể di chuyển đồ vật bằng ý nghĩ.


Asa Pike: Hậu duệ một bộ lạc sống ở những khu rừng phía Bắc, có mối liên hệ với những loài thú hoang dã. Asa có thể biến thành thú vào lúc trời tối.


Billy Raven: Chắt của một người đàn ông có tài nói chuyện với lũ quạ hay đậu trên giá treo cổ, nơi treo thây những tử tội. Vì tài này mà ông bị đuổi khỏi ngôi làng của mình. Billy có thể nói chuyện với thú vật và hiểu được thú vật.


Lysander Sage: Hậu duệ một dòng họ những nhà thông thái châu Phi. Có phép gọi hồn tổ tiên mình.


Gabriel Silk: Thuộc một dòng họ gồm những nhà tâm linh học, Gabriel có thể cảm nhận được ý nghĩ và cảm xúc của người khác qua áo quần của họ.


Beth Strong: Thuộc một gia đình nghệ sĩ xiếc, gồm những đô vật và những nghệ sĩ nhào lộn. Beth cũng là người siêu năng, có thể di chuyển đồ vật từ xa.


Emma Tolly: Hậu duệ của một hiệp sĩ người Tây Ban Nha là người từng đồng hành với Vua Đỏ trên những bước đường rong ruổi của ông, Emma có thể biến thành chim.


Tancred Torsson: Hậu duệ của một người gọi bão xứ Seandinavl được đặt tên theo thần sấm là Thor. Tancred có thể tạo nên gió, mưa, sấm và chớp.


Bindi và Dorcas: Cũng được ban phép thuật. Nhưng tài phép của họ chưa bộc lộ.



TRÒ CHƠI BẮN BI



Tháng Giêng năm 1916 – những ai còn sống đều nhớ rằng, đó là một mùa đông khắc nghiệt nhất.


Những căn phòng tối hù trong Học viện Bloor cũng lạnh buốt như ngoài trời. Henry Yewbeam, vừa chạy gấp qua một hành lang lạnh băng, vừa cất tiếng ngâm nga một mình. Tiếng ngâm nga làm nó phấn chấn lên, giúp sưởi ấm tinh thần cũng như hai bàn chân.


Phía đầu kia hành lang, ánh đèn khi xanh lét, chập chờn lay động trong những giá đỡ bằng sắt gắn trên tường. Cái mùi thật kinh khủng. Nếu lúc đó có bắt được con gì chết rữa trong một góc tối thì Henry cũng sẽ chẳng ngạc nhiên.


Ở nhà, một ngôi nhà tràn ngập ánh nắng bên bờ biển, em gái Dephne của Henry đang bị bệnh bạch hầu. Để tránh lây nhiễm, Henry và út James được gởi tới sống với anh trai của mẹ chúng, Ngài Gideon Bloor.
Ngài Gideon không phải là mẫu người mà bạn nên chọn để ở cùng trong những ngày nghỉ. Không ai xa cách hơn ngài. Ngài là hiệu trưởng của một ngôi trường cổ, và ngài quyết không bao giờ để ai quên điều đó.
Học viện Bloor về tay gia đình Ngài Gideon từ hàng trăm năm rồi. Đó là ngôi trường dành cho những đứa trẻ có tài về âm nhạc, kịch và hội họa. Học viện Bloor cũng nhận huấn luyện những đứa trẻ có phép thuật. Đó là những đứa có khả năng lạ kỳ. Chỉ nghĩ đến bọn chúng thôi là Henry đã rùng mình.


Henry đã tới được phòng của thằng anh họ Zeke. Zeke là con trai độc nhất của Ngài Gideon, và Henry không thể tưởng tượng nổi trên đời lại có thằng anh họ nào có thể tệ hơn nó. Zeke là một trong những đứa trẻ có phép thuật, nhưng Henry đoán rằng tài phép của nó kinh tởm lắm.


Henry mở cửa ra và lom lom dòm vô. Một hàng hũ thủy tinh xếp đầy bậu cửa sổ. Bên trong đựng những vật kỳ dị, trôi lều bều trong một thứ chất lỏng trong veo. Henry đảm bảo chất đó không phải là nước. Những vật kỳ dị trông nhợt nhạt, không rõ hình thù. Có một cái xanh da trời.
“Mày nghĩ mày đang làm gì hử?”


Thím Gudrun lướt phăm phăm trên hành lang, chiếc váy đen dài lết bết rít lên một tiếng, át cả tiếng những bước chân của thím. Đó là một phụ nữ cao lớn, tóc vàng rực, búi thành một cục to tướng ra sau. Một người Viking(1) chính cống (thực tế, thím là người Na-uy), với khuôn ngực rộng và buồng phổi khỏe mạnh để mà chạy huỳnh huỵch.
Henry ấp úng, “Ơ…”
“Ơ thôi thế hả, Henry Yewbeam. Mày đang do thám phòng thằng Zeke của ta, đúng hay không?”
“Không, hoàn toàn không,” Henry đáp.
“Cấm mày lởn vởn trên những lối đi, thằng kia. Xuống phòng khách ngay.”


Quý bà Bloor ngoắc một ngón tay thanh mảnh, và Henry không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải đi theo bà ta.


Bà thím dẫn nó quay về lại, ngang qua những cánh cửa khóa im ỉm, bí hiểm, mà chỉ vài phút trước nó đã liều lĩnh thử mở ra. Nó vốn là đứa hay tò mò và mau chán. Một tiếng thở dài buột ra khi nó lết những bậc cầu thang cót két xuống lầu trệt.


Gia đình Bloor sống ở chái phía tây của Học viện, nhưng họ chỉ ở những căn phòng ở lầu trên. Tầng trệt là cả một tiền sảnh rộng mênh mông, lộng gió, một nhà nguyện, và năm sáu hội trường cùng lớp học. Henry đã thám hiểm vài căn phòng đó và thấy chúng chán phèo. Tất cả đều có những hàng bàn với ghế dị dạng cùng những kệ sách trông hết sức bụi bặm.
“Tới rồi!” Quý bà Bloor mở một cánh cửa và dúi Henry vô phòng.
Một thằng bé, đang quỳ trên chiếc ghế đầu gần cửa sổ, liền phóng xuống và chạy như bay lại chỗ Henry.
“Nãy giờ anh ở đâu vậy?” Bé hét lên.
“Thám hiểm tí thôi,” Henry đáp.
“Em cứ tưởng anh về nhà rồi.”
“Nhà ở cách đây bao nhiêu dặm cơ mà, Jamie.”
Henry buông mình vô chiếc ghế da sâu hoắm bên cạnh lò sưởi. Khi lim dim mắt, nó như thấy rõ căn phòng khách ấm cúng ở nhà. Và thế là nó lại thở dài.
Thím Gudrun nhăn mặt, đe:
“Liệu đấy, bọn bay,” đoạn đi ra và đóng cửa lại.
Bà thím đi rồi, bé James lại ngồi lên thành ghế của Henry.
“Anh Zeke nãy giờ đang làm cái gì đó tức cười lắm,” bé thì thầm.


Nãy giờ Henry không nhìn ra Zeke, nhưng giờ thì nó nhận thấy thằng anh họ lạ lùng của mình đang chìm trong im lặng ủ ê ở đầu kia căn phòng. Zeke đang ngồi bên bàn, đắm đuối vô những thứ trải ra trước mặt. Gương mặt xương xẩu, tím mét của nó đông cứng trong lúc tập trung cao độ. Không một cơ bắp nào động đậy, không một hơi thở thoát ra.
“Em sợ,” bé James thì thầm.
“Sao vậy? Anh ấy đang làm gì vậy?” Henry nói thầm với bé James, “À, anh ấy đang chơi trò ghép hình. Có những mảnh ghép đầy trên bàn kìa. Đó, Zeke nhìn chăm chú, rồi xếp chúng lại với nhau hết rồi kìa. À, mới gần hết thôi. Thành một bức tranh. Anh ấy có cho anh coi rồi. Đó là hình một con tàu, nhưng có vài mảnh không khớp.”
“Thì thầm là thô lỗ đấy,” Zeke nói, không rời mắt khỏi miếng ghép hình.
Henry nhấc mình khỏi ghế và đi về phía thằng anh họ. Liếc nhìn mười hai manh ghép còn lại, rồi nhìn bức tranh con tàu. Mất chưa đầy một phút nó đã biết chính xác vị trí của từng mảnh.
“Hừm.”


Henry chỉ nói thế, và không thêm lời nào nữa, nó tuần tự nhặt những mảnh ghép lên, từng cái, từng cái một, và lắp vô bức tranh; hai cái cho bầu trời và ba cái ở thân tàu, hai cái ở dây buồm, và bốn cái cho mặt biển.


Mất một lúc, Zeke đã nhìn theo bàn tay của Henry một cách thích thú. Nhưng đúng lúc Henry đặt miếng ghép cuối cùng vô đúng vị trí, thì Zeke đột ngột đứng dậy và rú lên:
“Ai khiến mày? Tao làm được mà. Tao làm được!”
“Xin lỗi,” Henry vội lùi lại. “Em tưởng anh muốn em giúp.”
“Anh Henry chơi ghép hình hay lắm,” bé James khoe.
“Hừ, tao giỏ những thứ khác,” Zeke gầm gừ.
Bé James còn quá nhỏ để mà nhận ra những dấu hiệu nguy hiểm. Tia giận dữ long lên trong đôi mắt đen của Zeke chĩa thẳng qua đầu thằng bé.
“Phép thuật đâu phải lúc nào cũng xài được đâu!” Bé James nói một cách vô tình. “Anh Henry thông minh hơn anh mà, Zeke.”
Chính vì lời nhận xét ấy mà bé James Yewbeam tội nghiệp đã đóng dấu lên số phận của anh mình, và dĩ nhiên, cả số phận của bé.
“Cút đi!” Zeke rít lên. “Cả hai thằng mày. Đồ Yewbeam đáng ghét. Đi! Ngay! Tao không thể chịu nổi cái bản mặt tụi mày.”
Henry và James chạy vội ra cửa. Gương mặt nhợt nhạt của thằng anh họ đã có hơi hám bạo lực, và chúng không muốn ở lạu cho hắn trút cơn thịnh nộ.
“Tụi mình đi đâu đây?” James thở hổn hển khi lao theo thằng anh dọc hành lang.
“Tới tiền sảnh, Jamie. Ra đó chơi bắn bi.” Henry rút từ túi quần ra một cái bao nhỏ và vẫy vẫy trước mặt em.
Nhưng không. Chúng chưa kịp chạy thêm được bước nào thì có một tiếng quát của thím Gudrun.
“James, đi ngủ!”


Bé James giả bộ như không nghe thấy.
“Ngay lập tức!”
“Em nên đi ngủ đi thì hơn,” Henry nhẹ nhàng. “Bà ấy sẽ phạt nếu em không nghe lời.”
“Nhưng em muốn chơi bắn bi cơ,” bé James nói.
Henry lắc đầu. “Thôi mà, Jamie. Bây giờ không được rồi. Ngày mai nhé. Nhưng chút nữa anh sẽ tới đọc truyện cho em.”
“Hứa đi? Anh đọc nốt chuyện Võ Sĩ Ngốc nhé?”
“James, lại đây,” thím Gudrun quát.
“Ừ, hứa,” Henry nói và nhất định sẽ giữ lời. Thế nhưng, Zeke đã có một kế hoạch khác dành cho nó.
Đầu cúi gục, bé James thất thểu lê bước về phía thân hình to lớn đứng ở cuối hành lang.
“Còn mày, Henry!” Thím Gudrun gọi. “Đừng có gây rắc rối đấy.”
“Vâng, thưa thím,” Henry nói.


Nó vừa tính xuống cầu thang rộng dẫn xuống tiền sảnh, thì chợt nảy ra một ý. Trời buốt lạnh đến nỗi nó trông thấy cả hơi thở mình tuôn ra cuồn cuộn như những đám mây nhỏ màu xám. Dưới tiền sảnh có khi còn lạnh hơn. Và nó có thể chết cóng.


Henry quay gót trở lại, cho đến khi thấy cánh cửa một căn phòng mà nó đã điều tra. Đó là một nhà kho rộng, chứa đầy quần áo do những học sinh cũ của Học viện bỏ lại. Những hàng áo chùng xếp theo màu: xanh da trời, xanh lá cây, tím; những giá treo mũ và áo khoác; những hộp ủng da cổ xưa.


Henry chọn một chiếc áo chùng xanh da trời ấm áp và mặc vô. Cái áo dài tới đầu gối, lý tưởng để mặc ở tiền sảnh có gió lùa. Nó có thể bò lê dưới sàn nhà mà không cảm thấy nền đá lạnh toát.


Henry lao xuống tiền sảnh. Bộ sưu tập bi của nó là nỗi ghen tị của tất cả đám bạn. Cha của Henry hay đi đó đi đây, và không bao giờ về nhà mà không mang theo ít nhất một viên bi quý cho bộ sưu tập của con trai. Trong cái túi da của Henry có bi bằng inox, bi mã não lên nước bóng nhẫy, bi thủy tinh, bi đá vôi, bi thạch anh, và cả những viên bi bằng sứ có hoa văn.


Trong tiền sảnh không có đèn, nhưng mặt trăng non luồn qua những ô cửa sổ dài, mù sương, khiến những phiến đá xám lót sàn sáng nhờ nhờ như ngọc trai.


Henry quyết định chơi trò Thiện Xạ, trò mà nó thích nhất. Dẫu không có đối thủ, nó vẫn hay luyện bằng cách chơi một mình. Chỉ với một mẩu phấn, luôn có sẵn trong túi, Henry vẽ một vòng tròn lớn ở ngay giữa tiền sảnh. Xong, nó vẽ thêm một vòng tròn nhỏ hơn bên trong vòng đầu tiên. Chọn ra mười ba viên bi trong túi, nó xếp chúng thành hình cây thánh giá bên trong vòng tròn nhỏ.


Giờ thì Henry quỳ xuống nền đá lạnh băng, ngay bên ngoài vòng tròn lớn. Đôi tay đã tím ngắt vì lạnh, nó không sao kìm cho hàm răng thôi và nhau cầm cập. Nhét vạt áo chùng xanh da trời xuống dưới đầu gối, nó lôi ra viên bi yêu quý nhất của mình – viên bi trong,m màu xanh da trời, có một lằn bạc bên trong, tựa nhứ ánh sao. Đó luôn luôn là hòn bị cái, hay hòn bi xạ thủ.


Đặt những khớp ngón tay phải xuống sàn, lòng bàn tay ngửa lên, Henry đặt viên bi xanh da trời lên đầu ngón trỏ và giơ ngón cái búng nó về phía hàng thánh giá bi. Một tiếng “cách” thật đanh, nó bắn bật viên bi màu cam ở bên phải ra khỏi hai vòng tròn.


“Hoan hô!” Henry hét lên.
Có một tiếng két nhẹ sau lưng, Henry nheo mắt nhìn vô những mảng tối đen trên những bức tướng ốp ván gỗ sồi. Đó là do nó tưởng tượng? Hay một bức thảm thêu dài vừa rung lên? Ở đầu kia của bức thảm thêu, có một cánh cửa dẫn đến chái phía tây. Henry thích cầu thang chính hơn. Còn hàng lang đằng sau cánh cửa kia tối quá và ma quái quá.


Một cơn gió lạnh lùa qua đầu gối Henry, và bức thảm thêu lại cuộn lên một lần nữa. Một loạt mưa đá nện rầm rầm lên những cánh cửa sổ, và gió rít thê lương, luẩn quẩn quanh mảnh sân ngập tuyết.
“À, gió.”


Henry run tay, kéo áo chùng lên sát người hơn. Rồi nó kéo chiếc mũ lên, trùm kín đầu.


Trong hành lang phía sau tấm thảm thêu, Ezekiel Bloor đứng, một tay cầm đèn lồng, và tay kia cầm một quả cầu pha lê lấp lánh. Những tia màu sáng chói, xoáy cuộn, tỏa ra từ quả cầu, thành một cầu vồng được viền vàng và bạc. Ánh mặt trời và ánh trăng nối tiếp nahu vần vũ trên quả cầu. Zeke hiểu rằng nó tuyệt đối không được nhìn vô đấy. Nó đang cầm một trong những viên bi cổ xưa nhất thế giới.


Ngày trước, trên giường hấp hối, bà cô Beatrice của Zeke, một phù thủy, đã ấn quả cầu này vô tay nó.
“Quả Cầu Xoắn Thời Gian,” bà thều thào bằng giọng của người sắp chết. “Để du hành xuyên thời gian. Không được nhìn vô đó, Ezekiel, trừ khi con muốn du hành.”
Ezekiel không muốn du hành. Nó lớn lên trong tòa nhà lớn âm u của gia đình, và rất hiếm khi có ai thuyết phục được nó rời khỏi nơi này.
Tuy nhiên, nó ao ước muốn biết điều gì sẽ xảy ra nếu ai đó nhìn vô Quả Cầu Xoắn Thời Gian. Vả theo như Zeke nghĩ, thì không có ai xứng đáng để làm một chuyến xuyên thời gian hơn là thằng em họ kém cỏi Henry Yewbeam của nó.


Henry tình đến giờ đã búng bay thêm được ba viên bi nữa ra khỏi vòng tròn nhỏ. Nó không bắn hụt viên nào, mặc cho những ngón tay tê cứng. Nó đang chuyển vị trí, lùi lại bên ngoài vòng tròn, thì một viên bi pha lê lăn về phía nó. Viên này to hơn viên xạ thủ xanh da trời của Henry, và có những tia sáng đủ màu sắc, lung linh nhảy múa xung quanh.
“Ui trời,” Henry nín thở.


Nó ngây ra như phỗng trong khi viên bi lạ vẫn lăn, cho tới khi chạm vô chân nó.


Henry nhặt viên bi lạ lên. Nó nhìn trân trối vô những lằn sáng bên trong viên bi. Nó thấy những mái vòm bằng vàng, những thành phố rực nắng, những bầu trời không một gợn mây, và nhiều, nhiều thứ nữa. Nhưng ngay cả khi đang bị cuốn theo cảnh tượng diễn ra trước mắt, Henry vẫn nhận ra rằng có một sự thay đổi đang xảy ra trong cơ thể mình, và nó biết mình không nên nhìn vô những hình ảnh khó tin và ngoạn mục này nữa.


Những bức tường ốp ván gỗ sồi đang toác ra. Ánh trăng giá lạnh mờ dần. Đầu óc Henry quay cuồng và bàn chân nó bắt đầu hổng lên. Xa, rất xa, một con mèo cất tiếng meo meo. Và rồi, thêm một con mèo khác, lại một con nữa.


Henry nghĩ đến thằng em bé bỏng của mình. Liệu nó có đủ thời gian để đến bên em trước khi bị cuốn trôi đi hẳn?


Và nếu thế… Nếu bé James trông thấy anh mình biến mất ngay trước mắt, liệu bé có hoảng sợ mà đến nỗi bị ác mộng suốt đời không? Henry quyết định chỉ để lại một lời nhắn.


Trong khi vẫn còn sức lực, Henry móc mẩu phấn từ trong túi quần ra và bằng tay trái (tay phải nó vẫn kẹp chặt Quả Cầu Xoắn Thời Gian), viết vội lên nền đá, “XIN LỖI JAMES, BI…”


Đó là tất cả thời gian mà Henry có. Chỉ một giây sau, nó dừng lại ở năm có sinh nhật thứ 11 của mình mà lao về phía trước, rất nhanh, tới một năm mà hầu hết những người quen của nó khi đó hẳn đã chết hết rồi.


Trong căn phòng lạnh giá, nhỏ tí ở lầu trên cùng chái phía tây, bé James đang chờ anh mình. Thằng bé lạnh đến nỗi phải tròng thêm áo khoác ra ngoài áo ngủ bằng vải nỉ. Trên bàn ngủ bên cạnh, ngọn nến run rẩy trước cơn gió từ ngoài cửa lùa vô. Anh Henry đang ở đâu? Sao anh ấy lại lâu thế nhỉ?


Be james dụi mắt. Nó mệt lắm, nhưng lạnh quá không tài nào ngủ được. Nó kéo tấm trải giường lên tận cằm và lắng nghe tiếng mưa tuyết rít gióng, đập ình ình vô kính cửa sổ. Và rồi, ngọn nến tắt phụt.


Bé james ngồi im thin thít trên giường, kinh khiếp đến mức không dám gọi to lên. Thím Gudrun sẽ nổi cáu, còn ông anh họ Zeke sẽ chế giễu nó là đồ con nít. Chỉ có anh Henry là hiểu nó thôi.


“Anh Henry! Anh Henry! Anh đang ở đâu?” Bé James nhắm mắt lại và ụp mặt vô gối khóc nức nở. Trước khi cạn hết nước mắt, James chợt ngừng run rẩy. Căn phòng đang ấm dần lên. Nó mở mắt và nhận ra mình có thể nhìn thấy chiếc gối, thấy bàn tay mình và thấy cửa sổ. Một luồng sáng dịu quét khắp trần nhà. James nhìn theo xem luồng sáng xuất phát từ đâu, và nó kinh ngạc thấy có ba con mèo đang lặng lẽ đi quanh giường. Một con màu cam, một con màu vàng và con thứ ba màu đồng đỏ.


Ngay khi biết mình đang bị quan sát, bọn mèo liền nhảy lên giường và dụi đầu vô đôi bàn tay, vô cổ và đôi mà tê buốt của thằng bé. Bộ lông của chúng anh rực lên và ấm áp hệt như ánh nắng mặt trời. James vuốt ve chúng, thấy nỗi sợ hãi cũng bắt đầu tan đi. Nó quyết định đi tìm anh Henry.


Có vẻ như ý tưởng này vừa nảy khỏi đầu bé James là lũ mèo liền nhảy ra khỏi giường và chạy ra cửa. Chúng đứng chờ, meo meo lên đầy lo âu, trong khi James mang vớ và xỏ chân vô đôi ủng da.


Với những sợi ria và đầu mút từng sợi lông sáng lấp lánh, lũ mèo dẫn đường băng qua những hành lang tối om, những cầu thang hẹp, trong khi bé James co giò chạy theo. Cuối cùng, chúng tới một cầu thang rộng dẫn xuống tiền sảnh. Tại đây lũ mèo bồn chồn kêu to hơn và khẩn cấp hơn, khiến James thoáng lưỡng lự trước khi bước xuống căn phòng ngập ánh trăng.


Không có anh Henry ở đây. Mấy viên bi nằm chơ vơ dưới sàn đá, loang loáng dưới ánh sáng lạnh lẽo từ các cửa sổ rọi vô. Khi bé James chầm chậm bước xuống cầu thang, đám mèo chạy trước nó, rú rít, tru lên.
James xuống hết cầu thang rồi bước tới vòng tròn phấn. Nó thấy những viên bi mà Henry đang chơi trò Thiện Xạ - trò ưa thích nhất của anh nó.
“Anh Henry!” James gọi lớn. “Anh Henry, anh đi rồi à?”


Chưa bao giờ có một nơi trống trải và rộng mênh mông thế này hiện ra trong đời bé James Yewbeam. Chưa bao giờ anh nó lại vắng mặt lại đột ngột và hoàn toàn như thế này. James không cố gọi thêm nữa. Rõ ràng là anh Henry đã đi rồi. Và anh ấy đi mà không chào tạm biệt.


Nước mắt thằng bé chưa kịp tuôn trào thì ba con mèo đã nhảy vô vòng tròn, hướng sự chú ý của James vô bốn chữ được viết dưới sàn. Một lời nhắn? Nhưng phải chi bé James biết đọc. Anh Henry đã cố công dạy nhiều tuần rồi, nhưng cho đến bây giờ James vẫn chưa thể đọc nổi một từ.
Có lẽ là do nó chưa cố hết sức. Còn bây giờ, khi tình thế vô cùng nghiêm trọng…
“X… x… x…,” James lẩm bẩm trong khi ba con mèo nhảy chồm chồm theo từng mẫu tự.


Chữ kế tiếp James nhận ra là “I” rồi “n”, xa hơn là tên của bé. Ngay lập tức, James chợt đoán ra những từ anh Henry đã gởi lại cho mình.
“XIN LỖI JAMES,” bé đọc. “BI…” Lời nhắn kết thúc ở đó.


Rõ ràng anh Henry muốn James giữ kỹ giùm những viên bi. Nó nhặt cái túi da lên, nhưng khi nó vừa sắp với tới viên xạ thủ xanh da trời, thì con mèo màu cam liền nhanh nhảu chạm vô viên bi, làm viên bi lăn vọt qua tiền sảnh. Con mèo màu vàng lập tứ đuổi theo, trong khi con mèo đồng gạt thêm ba viên bi khác ra khỏi vòng tròn.


Bỗng nhiên, tiền sảnh sống động hẳn lên vì những âm thanh va đập lách tách, vì những tiếng rừ rừ thích chí. James được những khối cầu đậm sắc, rừng rực nhảy múa, bao quanh. Bọn mèo đang chơi đùa. James nhìn chúng chơi, một nụ cười rạng rỡ nở trên gương mặt thằng bé.
“Ở lại với ta nhé,” James nài nỉ bọn mèo.


Và lũ mèo ở lại. Chừng nào mà James còn ở trong tòa nhà lạnh lẽo, đáng sợ này, chúng còn giữ ấm cho James Yewbeam; và chúng sẽ bảo vệ thằng bé được an toàn như bất cứ cậu bé con nèo cũng đều có quyền được bảo vệ.
Charlie Bone
TẬP I - Lúc Nửa Đêm - - 1 --
- 2 -
- 3 -
- 4 -
- 5 -
- 6 -
- 7 -
- 8 -
- 9 -
- 10 -
- 11 -
- 12 -
- 13 -
- 14 -
- 15 -
- 16 -
- 17 -
- 18 -
- 19 -
- 20 -
- 21 -
- 22 -
- 23 -
TẬP II - Quả Cầu Xoắn Thời Gian - 1 -
- 2 -
- 3 -
- 4 -
- 5 -
- 6 -
- 7 -
- 8 -
- 9 -
- 10 -
- 11 -
- 12 -
- 13 -
- 14 -
- 15 -
- 16 -
- 17 -
- 18 -
- 19 -
- 20 -
- 21 -
TẬP III - CẬU BÉ VÔ HÌNH - 1 -
Chương 2
Chương 3
Chương 4
Chương 5
Chương 6
Chương 7
Chương 8
Chương 9
Chương 10
Chương 11
Chương 12
Chương 13
Chương 14
Chương 15
Chương 16
Chương 17
Chương 18
Chương 19
Tập 4 - Lâu Đài Gương
- 1 -
-2 -
- 3 -
- 4 -
- 5 -
- 6 -
- 7 -
- 8 -
- 9 -
- 10 -
- 11 -
- 12 -
- 13 -
- 14 -
- 15 -
- 16 -
- 17 -
- 18 -
- 19 -
- 20 -
- 21 -