- 16 -
Tác giả: Jenny Nimmo
Charlie quyết định dùng phòng vẽ làm nơi gặp thầy phù thủy. Bức tranh Skarpo sẽ không bị nổi bật lên giữa những bài vẽ khác, và nếu như bị ai đó bắt gặp, Charlie sẽ giải thích là Emma rủ nó tới xem tranh phác thảo của con bé.
Ngay khi giờ làm bài tập kết thúc, nó quày quả về thẳng ngay phòng ngủ chung.
“Làm gì mà vội vàng vậy, Charlie Bone?” Một giọng hỏi giật đằng sau nó.
Charlie quay lại thì thấy Manfred đang lừ lừ tiến về phía nó.
“Có vội gì đâu,” Charlie ráng trả lời tỉnh bơ.
“Anh muốn nói chuyện với mày,” Manfred bảo.
“Bây giờ?”
“Ừ. Bây giờ.” Manfred đến gần Charlie và nhìn trừng trừng vô mặt nó.
Charlie vội ngoảnh đi ngay. Nó không thể để bị thôi miên trong khi đang phải khẩn cấp đi cứu Henry.
“Nhìn tao đây!” Manfred ra lệnh.
“Em không muốn,” Charlie nói. “Với lại, anh biết mà, em có thể chơi trò đấu trí với anh.”
“Hừ,” Manfred xoa xoa cái cằm lún phún vài sợi lông tơ đang bắt đầu nhú ra.
“Anh có một bộ râu quai nón đẹp sắp mọc kìa, Manfred,” Charlie nói.
Manfred không thể xác định được là Charlie vô lễ hay nịnh bợ mình.
“Thôi, mày đi đi. Nhưng cố tránh xa rắc rối đấy.”
“Vâng, thưa anh Manfred,” Charlie chuồn lẹ.
Tại sao Manfred lại ngăn nó? Hình như hắn đang cố tình làm chậm bước nó thì phải.
Khi Charlie bước vô phòng ngủ chung, Billy Raven vội quay phắt ra khỏi tủ âm tường bên cạnh giường Charlie. Tay thằng bé đang cầm bức tranh Skarpo.
“Mày đang làm gì vậy?” Charlie nổi sùng.
“Em đang kiếm đồ của em,” Billy nói, vẻ ngây thơ. “Em nghĩ biết đâu nó lạc vô tủ của anh. Cho nên em kiếm thôi, xong mấy cái này rớt ra nè.”
“Nó không thể rớt ra được. Nó ở tuốt trong sâu mà. Mày đang lục lọi thì có.”
“Sao lúc nào anh cũng nghi ngờ em vậy?” Billy phẫn nộ. “Em nói thật mà.”
“Đưa nó đây!” Charlie gằn giọng.
“OK. OK.”
Khi Billy trao bức tranh cho Charlie, nó chỉ vô con dao găm nằm trên bàn của Skarpo.
“Nhìn con dao găm đó kìa. Sáng quắc. Em chắc là nó sắc lắm. Em chắc là nó phải giết mấy mạng rồi.”
“Tao cũng chắc,” Charlie ậm ừ, giật lấy bức tranh. “Mai mốt đồ đạc của tao để đâu phải để yên đấy.”
“Xin lỗi, Charlie,” Billy mỉm cười. “Em đâu có ý tò mò đâu.”
Charlie vội ra khỏi phòng ngủ chung. Nó chờ vài giây để chắc chắn là Billy không bám đuôi, sau đó nó chạy xuống hành lang dẫn tới phòng vẽ.
Nó ngạc nhiên khi thấy đám bạn đều đang chờ nó. Ngay cả Lysander cũng đã tới.
“Gabriel báo cho anh biết em sắp sửa làm gì,” Lysander nói. “Anh sẽ đứng cạnh cửa để để phòng ai đó xộc vô trong khi em… xuất thần.”
“Cám ơn, anh Lysander,” Charlie cảm kích.
Chúng chọn khoảng trống đằng sau một trong những bức tranh sơn dầu lớn của thầy Boldova. Charlie ngồi bệt xuống sàn, để bức họa trước mặt. Olivia và Emma quỳ hai bên nó, trong khi Gabriel và Fidelio ngồi trên một băng ghế trước mặt nó.
Bất chợt, Charlie bắt đầu có cảm giác nghi ngờ. Nó chưa hề làm chuyện như thế này bao giờ. Nó sẽ ra khỏi bức tranh bằng cách nào? Quả là nó chưa nghĩ rốt ráo về việc này. Nhưng giờ thì đã quá trễ để rút lui.
Charlie hít một hơi thật sâu.
“OK. Mình vô đây.”
“Khoan đã, Charlie” Gabriel bảo. “Tụi này chỉ muốn biết là… cậu sẽ đem cái ông quái dị đó vô phòng này hả?”
“Skarpo hả? Không, em hy vọng là không. Em sẽ chỉ hỏi xin lời khuyên của ông ta thôi. Có lẽ em sẽ mượn một cái gì đó.”
Charlie đã bắt đầu cảm thấy quay cuồng.
“Em không…” nó định nói, nhưng rồi Skarpo nhìn nó, và nó nghe thấy tiếng áo chùng của thầy phù thủy kêu sột soạt, cùng với tiếng phấn cạ kin kít vô đá.
“Vô đi,” một giọng nói.
Bạn bè của Charlie bắt đâu chao mờ đi. Một màn sương trắng trôi lảng bảng quanh nó, che kín tất cả mọi thứ, trừ gương mặt góc cạnh của thầy phù thủy, với đôi mắt vàng chói, lạ lùng.
Khi màn sương tan, Charlie thấy mình ở trong một căn phòng lạnh buốt, thắp nến. Nó ngửi thấy mùi sáp cháy, mùi lá thông, mùi gia vị, và mùi của những đồ vật cổ xưa đang ải mụi đi. Tài sản của thầy phù thủy không còn là những đồ vật vẽ trong hình nữa, mà bây giờ chúng rất thật: những trang giấy thô nhám và lem mực, những cái lông chim mỏng manh, mượt như nhung, những cái tô bằng đất sét, rỗ lỗ chỗ và mê sứt, những sợi dây thắt lưng và dây đai trông sờn bóng.
Mắt Charlie dừng lại ở con dao găm. Con dao nằm trước một cuốn sách to để mở, ngay mép chiếc bàn dài. Ánh nến càng khiến con dao lung linh, sống động. Lưỡi dao mảnh sắc đến nỗi trông như một luồng ánh sáng rực chói.
“Đó là thứ mi muốn hả, thằng bé?”
Charlie giật nảy mình. Nó đã quên bẵng là thầy phù thủy cũng có thể nhìn thấy nó.
“Mi biết thứ vũ khí đó là cái gì không? Nó có phép đấy, nhóc.” Đôi mắt như nam châm của thầy phù thủy lóe lên.
“Ông có thể trông thấy cháu,” Charlie thở gấp.
“Ta thấy gương mặt mi. Mi đã lén nhìn ta suốt mấy ngày, thằng ranh con.”
Giọng nói của thầy phù thủy có âm điệu trầm bổng, nhưng rõ ràng không phải là tiếng xứ Wales.
“Cháu đến để xin ông trợ giúp.” Charlie run run nói.
“Thế à?” Skarpo mỉm cười quạu cọ. “Thế thì, chính con dao găm kia là thứ mày theo đuổi. Nó có thể đâm vô tim và rút ra không để lại dấu vết gì. Ngay cà một vết kim châm cũng không.”
“Cháu không muốn giết ai cả,” Charlie nói.
Skarpo chẳng màng tới lời Charlie.
“Chỉ một cái chạm nhẹ và thế là xong,” hắn ra vẫn thao thao.
Billy Raven đã từng hướng sự chú ý của Charlie đến con dao găm này. Nhưng Billy không phải là bạn của Henry, và nếu Charlie phải chọn thì con dao găm là thứ sắp hạng chót.
“Cháu không muốn con dao găm đó,” Charlie lập lại. “Cháu muốn cứu một người bạn.”
“Luôn có người muốn nó,” thầy phù thủy thì thầm, “luôn có người rất muốn có nó. Chúng luôn cố sức để đoạt nó cho bằng được, nhưng không thành… Làm sao ta có thể trao nó cho được? Bọn chúng đâu phải là hạng phù thủy hoàn hảo.”
Lão Ezekiel Bloor, Charlie nghĩ. Nó đảo mắt khắp mặt bàn. Cái gì có thể dùng để cứu Henry ra khỏi hầm ngục được đây? Làm sao nó biết được nó phải chọn cái gì? Skarpo xem ra đang thoái thác một cách tinh vi.
“Thảo mộc vậy nhé?” Thầy phù thủy để nghị. “Một liều độc dược vậy?”
“Không, xin cám ơn.”
“Hãy bỏ một trong những chiếc long thanh mành này vô ủng của kẻ thù của mày, và hắn sẽ đi cà thọt cả năm.” Skarpo khùng khục cười đầy ác tâm.
“Cháu không muốn làm ai cà thọt cả,” Charlie bắt đầu cáu tiết. “Cháu chỉ muốn giải cứu một người thôi.”
“Cứu người? Cứu người không phải là mối quan tâm của ta. Ta thích hủy hoại hơn. Nếu mày muốn ai đó bị tàn tật, bị thương chí mạng, bị đầu độc, bốc cháy, biến mất, teo rúm lại, hay phát điên, thì…”
“Tất cả những thứ đó nghe có vẻ hữu ích đấy,” Charlie nghĩ nó nên lễ phép để lôi kéo Skarpo về phía mình. “Nhưng ngay lúc này cháu chỉ cần một thứ gì đó mà có thể… di chuyển một tảng đá.”
Đúng lúc đó thì Charlie trông thấy cây gậy phép. Nó phải là một cây gậy phép thôi, bởi vì nó không thể là bất cứ thứ gì khác được. Một cây gậy mảnh màu trắng nằm khuất sau một trong những cuốn sách bự chảng. Nó dài khoảng nửa mét, với một đầu bịt bạc. Charlie cầm lên.
“Mày không thể lấy cái đó được,” Skarpo rít lên. “Nó không phải là của tao.”
“Vậy thì nó là của ai?” Charlie hỏi.
Cây gậy phép này mát và trôn láng; và hình như nó nằm vừa vặn trong tay Charlie, như thể nó thuộc về bàn tay ấy.
“Tao đã đánh cắp nó,” Skarpo bảo. “Nó là của một tên thầy pháp xứ Wales. Nó sẽ chẳng có tích sự gì cho mày đâu.”
“Nhưng cháu nghĩ là có tích sự đấy,” Charlie nói, đầy kích động. “Cháu nghĩ nó là thứ cháu cần.”
“KHÔNG!” Skarpo tính giật lấy cây gậy phép.
Charlie liền chạy quanh bàn. “Cháu sẽ đem trả lại mà. Cháu hứa.”
“Đưa nó cho ta mau,” Skarpo gầm vang. “Nếu không tao sẽ biến mày thành một con cóc.”
“Không, cháu cần nó.” Charlie lùi xa khỏi cánh tay dài của thầy phù thủy.
“Đồ ôn dịch. Đồ ăn cướp. Mày chét này!” Skarpo vớ lấy một ngọn giáo và vung về phía đầu Charlie. Giấy, lông, và lá cây bay tóe khỏi bàn.
Charlie lao ra một cánh cửa thấp ở cuối căn phòng. Nó lính quýnh vặn nấm đấm cửa nhưng cửa kẹt ngay lại, rất lẹ. Khi Charlie hụp xuống, né cú đâm thứ hai của Skarpo, nó nhắm mắt lại và nghĩ đến đám bạn đang ở trong phòng vẽ.
“Tôi muốn ở đó… NGAY!” Nó hét to lên.
Không có tác dụng. Nó vẫn còn ở trong căn phòng kín mít của thầy phù thủy. Và giờ, Skarpo đang thét vang khi nâng ngọn giáo lên, chuẩn bị phóng vô Charlie.
“Thằng lưu manh, trộm cắp hèn hạ. Tao sẽ thiêu rụi trái tim mày!”
Charlie rúc mình vô bức tường. Vô phương chạy thoát. Benjamin đã cảnh báo nó về điều này. Tại sao nó lại không nghe Benjamin?
“Cứu tôi với!” Nó rên rỉ.
Đầu ngọn giáo sáng rực lên như một thanh sắt bị nung đỏ, rồi thình lình, bốc lửa. Trong lúc ngọn giáo đang bay về phía Charlie, Charlie cúi gập đầu xuống và quấn áo chùng quanh cây gậy phép.
Ngọn giáo cháy rực không bao giờ chạm được tới Charlie. Khi Charlie ngẩng lên, nó trông thấy có hai bàn tay chụp lấy ngọn giáo và phóng nó trở lại thầy phù thủy. Đôi bàn tay đó màu nâu, có đeo những vòng xuyến bằng vàng lấp lánh ở cổ tay; ngoài những vòng ấy thì không có gì hết, không hề có dấu hiệu của thân mình đâu cả.
Ngọn giáo đâm trúng bức tường rồi này rơi xuống chân thầy phù thủy. Hắn thét lên khi lửa bén vô vạt áo chùng dài. Charlie không thấy điều gì xảy ra tiếp theo, bởi vì có những cánh tay vô hình ôm chặt quanh người nó và kéo nó ra xa. Lùi lại, lùi lại, xuyên quan những màn sương khói đang tràn ngập căn phòng.
“CHARLIE, TRỞ LẠI MAU!”
Charlie chớp mắt. Mắt nó vẫn còn cay xè vì lửa, nhưng căn phòng của thầy phù thủy trông nhỏ xíu và xa xăm. Nó đang nhìn vô căn phòng chứ không còn ở trong căn phòng đó nữa. Bức hình Skarpo được cầm trên hai bàn tay màu nâu. Đôi bàn tay này đã cứu nó. Charlie nhìn lên và thấy gương mặt thảng thốt của Lysander.
“Em làm bọn anh đứng tim, Charlie” Lysander bảo.
“Là bàn tay của anh,” Charlie lẩm nhẩm. “Anh đã cứu em.”
“Không phải anh,” Lysander nói. “Anh đã phải gọi hồn tổ tiên của anh. Mừng em đã trở lại, Charlie.”
“Chuyện gì xảy ra… ở đây vậy?” Charlie hỏi.
“Quá tuyệt chiêu,” Olivia thò đầu vô ngay trước mặt Charlie. “Đằng ấy cứ lắc qua lắc lại rồi la thét. Tụi này cứ la lên, ‘Tỉnh lại! Charlie, ra mau!’”
“Nhưng em không ra,” Fidelio ló mặt qua vai Olivia kể tiếp. “Cho nên anh Lysander phải dùng tiếng châu Phi để gọi tổ tiên của anh ấy. Và sau đó thì đột nhiên, em thôi không cà giật nữa, xong có cái gì đó xuất hiện trong tay em. Giống cái này này. Nhìn coi!”
Charlie thấy mình vẫn đang cầm cây gậy phép. Cây gậy nằm vắt trên đùi nó, láng và trắng ngà, phía đầu bịt bạc nhấp nháy trong ánh đèn sáng trưng của phòng vẽ.
“Nó là cái gì vậy?” Emma hỏi.
“Gậy phép,” Gabriel nói. “Tôi chắc chắn đó là một cây gậy phép.”
Charlie gật đầu.
“Skarpo không muốn em lấy cây gậy. Hắn đã đánh cắp từ tay một thầy pháp người xứ Wales. Em biết bây giờ mình cần phải làm gì rồi! Em sẽ phải dùng đến một trong những từ trong cuốn sách của Ông cậu em.”
“Đằng ấy không có thời gian đâu,” Olivia thúc giục. “Chủ nhật này họ sẽ chuyển Henry đi, sau đó thì chúng ta sẽ không bao giờ tìm thấy cậu ấy nữa.”
“Làm sao tụi mình vô khu bỏ haong được?” Fidelio hỏi, kèm theo một tiếng thở dài. “Họ trông chừng tụi mình như lũ diều hâu vậy.”
“Giá mà có Tancred trở lại,” Lysander rầu rĩ nói. “Một cơn bão sẽ đánh lạc hướng tốt.”
“Một cơn bão thì tuyệt quá rồi, nhưng tụi mình không thể chờ anh Tancred được,” Charlie nói. “Nhưng cũng cần phải đến thứ Bảy, lúc đó có sự giúp sức từ bên ngoài.”
Nó đứng lên và cố giấu cây gậy phép vô ống tay áo chùng, nhưng cây gậy quá dài nên thò qua khỏi cổ tay.
“Đưa nó cho anh,” Lysander bảo. “Tay anh dài hơn.”
Charlie đưa cây gậy phép ra và Lysander cất nó vừa khít vô ống tay áo của mình.
“Chúng ta phải đi ngay,” Emma hối. “Bà giám thị sắp đi tuần rồi.”
Charlie giấu bức hình Skarpo trong áo chùng, và sáu đứa trẻ chen chúc nhau ra khỏi phòng vẽ.
Khi chúng bước trở lại phòng ngủ chung, bà giám thị lao sầm sập về phía chúng, quát om.
“Chúng mày vừa đi đâu về, hả? Đèn tắt được năm phút rồi.”
“Xin lỗi, bà giám thị,” Lysander nói, nhoẻn miệng cười. “Tụi con đi xem tranh của Emma. Và cả tranh của con nữa.”
Bà giám thị đã viết sẵn chữ “cấm túc” lên mặt bà. Bọn trẻ chờ nghe số phận của mình. Nếu chúng bị cấm túc vô thứ Bảy, thì làm sao chúng có thể cứu được Henry? Bà giám thị cười đắc thắng.
“Tất cả chúng mày…” bà vừa mở miệng.
Thì một giọng nói đằng sau nhúm trẻ vang lên.
“Đó là lỗi của tôi, bà giám thị. Tôi đã cho phép chúng đấy. Thật tình là tôi đã bảo chúng đến phòng vẽ. Cứ đổ lỗi lên thầy giáo dạy vẽ đi, được không?”
Nụ cười chiến thắng của bà Lucretia Yewbeam tắt lịm khi thầy Boldova bước lên phía trước nhóm trẻ.
“Tôi xin lỗi vì việc này, thưa bà giám thị,” thầy giáo dạy vẽ tiếp. “Tôi quên mất giờ giấc.”
Rồi thầy quay qua lũ trẻ:
“Các trò nên chạy về lẹ đi. Cám ơn các trò về những lời bình luận tuyệt vời nhé.”
Cả sáu đứa trẻ tản như đám bụi khi thầy Boldova hỏi xin bà giám thị lời khuyên về một vết bầm rất tệ mà thầy đã bị trong khi chơi bóng bầu dục.
“Thầy Boldova thật tuyệt,” Gabriel thì thào khi ba đứa lỉnh vô phòng ngủ chung của chúng.
“Các anh nãy giờ ở đâu vậy?” Billy dò hỏi.
“Mày sẽ không muốn biết đâu,” Charlie đáp.