- 18 -
Tác giả: Jenny Nimmo
Về đến thành phố thì trời đã tối. Ông cậu Paton không lái xe về thẳng đường Filbert như Charlie đoán. Thay vào đó, Ông cậu dừng xe lại bên cạnh căn nhà thân thuộc và ồn ào, nơi gia đình Fidelio sống: Mái Ấm Gia Đình Gunn.
“Mình làm gì ở đây ạ?” Charlie hỏi.
Từ ghế ngồi, Ông cậu Paton quay lại:
“Coi bộ đây là giải pháp tốt nhất,” Ông cậu vừa nói vừa nhìn Billy.
Billy nãy giờ im re gần như hết chặng đường. Nó thậm chí đã thôi thắc mắc mình sẽ đi đâu, hoặc mình ở đâu thì sẽ an toàn. Có lẽ nó đã mong chờ được sống ở nhà số 9, tuy nhiên, có nội Bone ở đó, không thể nào che giấu nó lâu dài được. Bây giờ, đột nhiên, Billy há hốc mồm khi nghe những gì Ông cậu Paton nói.
“Ý Ông cậu là cháu sẽ sống ở đây phải không?” Billy nói.
“Ta không thể nghĩ ra được nơi nào tốt hơn,” Ông cậu Paton nói. “Thực ra thì ông bà Gunn đã tán thành kế hoạch này rồi. Cháu sẽ khó bị để ý trong một ngôi nhà có bảy đứa trẻ. Đó là đề xuất của ông Crowquill.” Giọng Ông cậu nhẹ đi. “Cũng là một đề xuất khôn ngoan. Ông ấy chưa bao giờ mà không nghĩ đến cháu cả, Billy.”
Chính lúc ấy Charlie chợt đoán ra tại sao ông Christopher Crowquill lại cứu mạng Ông cậu Paton. Ông Christopher mắc bệnh rất nặng, bất kỳ ai cũng có thể thấy điều đó. Ông ấy dễ trở thành nạn nhân của gia đình Bloor. Nhưng Ông cậu Paton, người được ban phép thuật chết người, thì không. Christopher đã cứu sống người duy nhất mà ông biết là có thể bảo vệ được Billy Raven.
Trông Billy đã có vẻ tươi hơn.
“Dạ, đó là ý hay. Trước đây cháu đã ở nhà anh Fidelio rồi.”
Ngay khi vừa ra khỏi xe, tiếng dộng thình thình từ Mái Ấm Gia Đình Gunn dấy lên, đổ dồn về phía họ. Người ta đang đánh, thổi, kéo, nện đủ mọi loại nhạc cụ. Giọng nam trầm thật vang của ông Gunn và giọng nữ trầm khỏe khoắn của bà Gunn thi đua với nhạc cụ của các con và toàn bộ ngôi nhà rung chuyển vì âm thanh.
“Hên là ngôi nhà này tách biệt,” Ông cậu Paton nói.
Ông ấn vào một cái nút ở bên cạnh cửa trước.
Ngay lập tức một giọng nói thu âm sẵn rống lên oang oang, “MỞ CỬA! MỞ CỬA! MỞ CỬA!”. Rõ ràng là nếu dùng chuông thì sẽ không thể nào nghe thấy được trong bối cảnh ồn ã như thế này.
Anh lớn của Fidelio, anh Felix, ra mở cửa.
“Charlie Bone!” Anh kêu lên. “Fidelio lo đến phát bệnh vì em đó. Lâu nay em ở đâu vậy?”
“Chuyện dài lắm,” Charlie bước vào nhà, theo sát là Billy.
“Billy Raven! Vậy là hai đứa em đi cùng nhau,” anh Felix nói, đóng ầm cửa lại.
“Khoan,” Charlie nói. “Ông cậu em vẫn còn ở ngoài đó. Anh có thể tắt đèn đi được không?”
“Ối trời! Ông Yewbeam!” Anh Felix vội vàng tắt hết đèn hành lang. “Ơi, ba má! Bóng đèn!” Anh gọi toáng lên. “Ông Yewbeam tới!”
Anh mở cửa trước và Ông cậu Paton bước vào hành lang tối om.
Ông bà Gunn vẫn say sưa với bản song ca của mình trong nhà bếp, trong khi anh Felix kêu rống lên:
“Bóng đèn, ba má! Bóng đèn! Ông Paton Kích Điện tới.”
Charlie không thấy được, nhưng nó biết Ông cậu đang đỏ mặt lên, căn cứ theo cái cách ông tằng hắng.
Vẫn đang hát, bà Gunn thò đầu ra khỏi bép:
“Gì, gì, gì, gì, gì, gì, gì, gì?” Bà ngân lên tới cung Đô trưởng.
“ÔNG YEWBEAM! MẸ!” Anh Felix gào to. “Ông Yewbeam. Bóng đèn.”
“Trời đất!” Bà Gunn vừa hát vừa tắt đèn nhà bếp.
Đèn phụt tắt làm ông Gunn gầm lên một tiếng đầy nhạc điệu, khi ông vấp phải con mèo điếc, và một tiếng ré thống thiết thoát ra từ con mèo bị đạp phải đuôi.
“Vậy là, đã kiếm được Billy rồi,” bà Gunn nói khi thấy Billy líu ríu bước vào nhà bếp. “Chào mừng, Billy. Con sẽ an toàn ở đây nhé. Rất nhiều con nít, rất nhiều tiếng nhạc. Con sẽ được giấu kỹ.”
Ba vị khách ngồi bên bàn bếp, và trong khi họ thưởng thức món bánh mì kẹp đồ nguội chọn lọc của bà Gunn, anh Felix cho họ biết tin tức về Học viện Bloor. Anh Felix vừa mới nhận bằng đại học âm nhạc, và đúng lúc anh đang định khởi động tua lưu diễn vòng quanh thế giới với ban nhạc của mình, thì được triệu hồi đến Học viện Bloor để dạy thay cho một thầy giáo dạy nhạc đã biến mất một cách bí ẩn.
“Tên là Ebony,” anh Felix nói.
“Tụi em biết,” Charlie nói.
“Không thể khước từ lời đề nghị đó,” Felix thêm vào. “Tiền lương quả thực hậu hĩ.”
“Ta hiểu,” Ông Paton nói. “Vậy tình hình diễn biến ra sao?”
“Chuyện chưa từng thấy!” Anh Felix nói một cách kịch tính. “Gabriel Silk bị hôn mê. Đã rời khỏi trường.”
“Hả?” Charlie kêu lên. “Chuyện như thế nào?”
“Liên qua gì đó đến áo chùng,” anh Felix nói. “Nhưng thằng bạn khác của em, thằng bão táp…”
“Tancred? Có chuyện gì xảy ra với anh ấy?” Charlie đánh rớt miếng bánh mì kẹp củ cải vàng và con mèo liền vồ lấy.
“Mất trí,” anh Felix nói. “Cứ trút mưa lên bạn bè. Fidelio bị ướt sũng nhiều lần, cả Lysander cũng thế, còn cô bé Emma Tolly thì đúng là tội nghiệp. Mấy ngón tay con bé bị sét đánh trúng.”
“Sạo lại mấy ngón tay !” Charlie gần như không tin nổi. Cái gì ám Tancred khiến nó tra tấn bạn bè theo kiểu đó vậy? Charlie đang nghĩ đến việc nghỉ thêm mấy ngày còn lại trong tuần, nhưng bây giờ điều đó không thể được. Nó phải tìm hiểu xem có chuyện gì đang xảy ra trong Học viện Bloor. Lời bà bếp trưởng cứ văng vẳng trong đầu nó: Ta là cục nam châm, Charlie. Ta giữ thế cân bằng. Một khi điều đó mất đi tức là chúng ta thua.
Vậy, điều gì đã xảy ra với bà bếp trưởng?
“Ba chọi sáu,” Charlie nói một mình. “Bảy, nếu tính cả Manfred.”
“Gì đó, Charlie?” Ông cậu Paton nói.
Charlie ngước lên:
“Con phải trở về Học viện Bloor.”
“Không phải tối nay, nhóc,” Ông cậu nói. “Đèn sắp tắt rồi. Với lại chắc chắn họ sẽ không mở cửa đâu.”
“Thì để mai vậy,” Charlie nói. “Càng sớm càng tốt. Con sẽ đi bộ nếu cần.”
“Không cần phải thế,” anh Felix nói. “Anh sẽ cho em quá giang.”
Khi Charlie và Ông cậu Paton đứng dậy ra về, có một tiếng rù chẳng êm tai chút nào ở dưới gầm bàn và ông Gunn hát vang:
“Pusskins lại xơi bánh củ cài vàng!”
Charlie nhẹ cả người khi thấy Billy bật cười ha ha cùng với mọi người. Chắc chắn là thằng bé đã được ở đúng chỗ - chí ít là bây giờ.
Ngay khi Charlie vừa bước vào nhà số 9 và tắt đèn hành lang đi, nội Bone đã quát nó từ trong phòng khách:
“Khỏi mất công nói với tao là mày đã đi đâu nghe chưa. Tao biết cả rồi. Thằng đần kia.”
“Ngậm miệng lại, Grizelda,” Ông cậu Paton càu nhàu.
Ngoại Maisie chộp lấy Charlie và kéo tuột nó vào nhà bếp thắp sáng bằng đèn cầy, và cứ thế kẹp chặt nó trong vòng tay bà. Mẹ nó cũng hòa vào ôm cùng, và khi Charlie suýt chết ngạt, nó được phép ngồi xuống bên bàn và uống một ly ca cao.
Như mọi khi, cô Amy và ngoại Maisie muốn biết ngay tất cả mọi chuyện, nhưng Ông cậu Paton cương quyết rằng Charlie phải được đi ngủ, trong khi ông kể cho họ nghe về Lâu đài Gương.
Mắt Charlie díp lại khi nó leo lên giường. Thứ cuối cùng nó thấy trước khi ngủ thiếp đi là đốm sáng dìu dịu của con bướm trắng, khi con bướm đậu xuống bàn ngủ của nó.
Ahh Felix Gunn nói sao là làm vậy. Anh xuất hiện trong một chiếc xe hơi nhỏ, cà tàng, do Pháp sản xuất, ngay khi Charlie vừa ăn sáng xong.
“Ai đó?” Nội Bone tra hỏi, khi anh Felix chở Charlie vút về phía Học viện Bloor.
“Việc gì đến bà,” ngoại Maisie gắt.
Tất nhiên nội Bone sẽ phải đoán ra. Chuyến viếng thăm của anh Felix có làm bà chú ý đến gia đình Gunn hay không, Charlie không biết được. Có lẽ gia đình Bloor trước nay chưa bao giờ nghiêm túc coi gia đình Gunn là đồng minh của Charlie, cho tới khi anh trai của Fidelio đến cửa nhà số Chín. Nhưng một khi gia đình Bloor bắt đầu lưu tâm tới Mái Ấm Gia Đình Gunn thì hậu quả sẽ rất ư là tai hại.
Charlie cảm nhận được sự căng thẳng trong không khí ngay khi nó bước vào hội trường. Từ trên sân khấu, Fidelio giơ hai ngón tay cái lên với nó, nhưng tất cả những người khác đều nhìn nó chằm chằm một cách ngờ vực. Nó cảm thấy như thể bị mọc sừng trên đầu. Mà mình chỉ mới vắng có hai ngày, nó tự nhủ.
Cuối cùng Charlie cũng bắt kịp Fidelio trong giờ nghỉ giải lao đầu tiên.
“Anh không biết ai đã tung tin đồn, nhưng có khối chuyện hoang đường xoay quanh em với Billy,” Fidelio nói khi chúng cùng nhau băng qua bãi cỏ. “Mọi người đang kháo nhau là em bị đuổi học.”
“Để em kể anh nghe cho rồi,” Charlie nói.
Fidelio bảo cứ đi tiếp đi vì bọn nghe trộm ở khắp nơi. Vài phút sau, chúng có Lysander nhập bọn. Charlie chưa bao giờ thấy anh chàng này nản chí như vậy. Chính Lysander đã tìm thấy Gabriel nằm bất tỉnh trong chiếc áo chùng xanh da trời.
“Anh đã thấy lo lo khi Gabriel lên phòng nhạc,” Lysander nói với Charlie. “Nhất là khi Fido đã thấy Dorcas Loom mang một chiếc áo chùng vô Tháp Nhạc. Tìm thấy Gabriel là anh báo cho giáo sư Saltweather biết ngay. Thầy gọi xe cấp cứu.”
“May mà anh báo đúng người,” Fidelio nói nghiêm trang. “Nếu nói với bà giám thị thì Gabe tội nghiệp có lẽ không bao giờ được đưa tới bệnh viện.”
Đó là một suy nghĩ nghiêm túc.
“Đêm đó giống như có động đất vậy,” Fidelio thêm vào như thể nhớ ra. “Trong lòng đất rung dữ dội. Nhưng sáng ra mọi thứ nhìn vẫn bình thường.”
“Trong lòng đất?” Charlie nói, chau mày.
“Ê, côi Tancred kìa,” Lysander chỉ qua sân. “Tancred và thằng quỷ nhỏ.”
Charlie thấy Tancred và Joshua đang giỡn đùa với Dorcas Loom, chứ không phải ai khác. Chiếc áo len chui đầu của Joshua dính đầy lá khô.
“Nhưng làm sao…?” Charlie bắt đầu.
“Từ tính nam châm!” Lysander nói qua hàm răng nghiến chặt.
“Joshua?” Charlie nghi hoặc.
“Em ngạc nhiên là phải,” Lysander nói nghiêm nghị. “Mẹ anh biết nó rất rõ. Không cần khỏe hay đẹp trai hay thậm chí thông minh. Một số người chỉ cần nhiêu đó… Vậy thôi. Họ có thể xoay mình chỉ bằng đầu ngón tay nhỏ xíu.”
“Nhưng anh Tancred?” Charlie nói với vẻ không tin. “Anh ấy đang giúp tụi mình cơ mà. Sao anh ấy lại có thể quay ngoắt… như thế? Ý em là, anh thì sao, anh đâu có bị như anh ấy đâu!”
“Anh có chuẩn bị,” Lysander nói. “Nhưng từ tính là một phép thuật rất mạnh. Chắc là em cũng có cảm được rồi, Charlie. Lúc Joshua cười với em đó, kiểu như có một cái lôi kéo, làm em muốn kết bạn với nó, không cưỡng lại được.”
“Em có thấy vậy rồi,” Charlie thú nhận. “Nhưng em sẽ không để nó cuốn em đâu.”
Lysander gật đầu theo đúng kiểu thông thái và trầm tư của nó.
“Emma cũng không bị vậy.”
“Emma nhìn vậy mà mạnh mẽ lắm,” Charlie nói. “Nhưng Tancred! Sao Tancred lại để mình bị… bị sập bẫy như thế?”
Lysander thở dài.
“Tancred là người bạn tốt, nhưng hơi tự mãn một chút. Joshua lợi dụng điều đó. Và bây giờ thì Tancred bị nó điều khiển.”
“Em thật không tin nổi. Em chỉ mới đi xa có hai ngày à,” Charlie nói.
Ở đằng kia vườn, có ai đó thét lên thất kinh.Một trong những cô học trò mới, nhỏ nhất, bị một khúc gỗ lớn húc ngã.
Idith và Inez đang đứng cười khẩy cách đó vài thước.
“Tụi nó đó,” Lysander nói. “Đồ quỷ quái, hai cái đứa đó.”
Olivia và Emma đã nhìn thấy bọn con trai, và vừa mới sà tới gần thì một đám mây đột ngột vỡ toác ra ngay trên đầu hai đứa. Khi chúng chạy né về phía trước thì cơn mưa cũng rượt theo, và ba thằng bé liền quay đầu, ù té chạy đi kiếm tán cây. Charlie thoáng thấy bộ mặt cười mủm mỉm của Tancred, còn Joshua Tilpin thì rú lên cười.
“Nó cố ý đấy,” Olivia vừa hét ầm vừa nhảy chồm chồm dưới chỗ trú. “Mừng đằng ấy đã về, Charlie. Có lẽ đằng ấy mới có thể trị Tancred.”
Charlie không biết mình có thể làm gì. Nó đảo một vòng những khuôn mặt. Thật sung sướng khi biết mình còn có những người bạn có thể tin tưởng được. Và rồi nó chú ý tới đôi bàn tay của Emma. Các đầu ngón tay bị băng cả. Chỉ có hai ngón cái thoát được tia chớp (hoặc cái gì đó đã làm nó bị thương).
“Mình không biết,” Emma nói. “Phút trước mình còn đang đứng cạnh đống gỗ nói chuyện với Liv, thì phút sau, một tiếng sấm nổ đùng, một tia sáng lóe lên và tất cả mọi người thét rầm, chạy tán loạn vô nhà. Mình thấy đau nhói ở mấy ngón tay…”
“Và tớ nhìn bàn tay của nó,” Olivia vừa nói vừa chỉ vào những ngón tay của Emma, “thấy chúng chảy màu đỏ lè.”
“Giờ đỡ nhiều rồi,” Emma lúc lắc mấy ngón tay. “Và mình không thể chứng minh được đó là Tancred.”
“Là hắn chứ còn ai nữa,” Olivia khăng khăng. “Đằng ấy phải làm gì đi chứ, Charlie!”
“Mình hả?” Charlie nói, khi cả bọn cùng nhìn nó.
“Em có thể kể cho tụi này biết mấy hôm rồi em ở đâu được rồi đó,” Lysander nói.
“Được,”
Charlie thuật lại ngắn gọn cho cả đám bạn nghe về chuyến đi ngựa tới bãi biển đầy vỏ sò, và về Lâu đài Gương kỳ lạ. Có tiếng thở hốc vì kinh sợ buột ra khi Charlie kể đến đoạn lão Tantalus Ebony và ông Christopher Crowquill. Chẳng đứa nào biết phải nói gì cho tới khi Fidelio kêu lên một tiếng nho nhỏ và nói:
“Vậy á? Ghê quá.”
Charlie không tiết lộ chuyện nó đã tưởng ông Albert Tuccini là ba nó. Nỗi thất vọng của nó vẫn còn quá đau đớn.
“Đáng sợ thiệt,” Lysander nói. “Nhưng cũng có thể lắm chứ. Tụi mình đều biết ông Albert Tuccini mà, đúng không? Ông ấy có đến biểu diễn dương cầm cho tụi mình hồi học kỳ mùa xuân đó. Mọi người không nhớ sao?”
Tất cả bỗng ùa về.
“Ờ, đúng rồi,” Charlie nói chậm rãi và buồn bã. “Và gương mặt ở cửa sổ nhà bà cô em, với cây đàn dương cầm ở tầng trên cùng, sau đám cháy. Đó chính là ông Albert Tuccini, không… không phải là ai khác.”
“Mấy bà cô Yewbeam nhà em!” Lysander ngước đôi mắt to nâu lên trời. “Họ là bọn tội phạm, Charlie. Họ đã lợi dụng ông nghệ sĩ dương cầm tội nghiệp đó, giả bộ giúp ông ấy, nhưng lại luôn kiếm tiền từ những buổi hòa nhạc của ông ấy. Một bọn ghê tởm.”
“Đúng vậy,” Charlie nói, nhăn mặt.
Cơn mưa rào khó chịu của Tancred đã tạnh khi hết giờ ra chơi, và năm người bạn đã có thể chạy vào trường mà không bị ướt thêm chút nào.
Charlie quyết định phải đi tìm bà bếp trưởng. Chỉ có bà mới đủ sáng suốt để khuyên nó vào lúc này. Nhưng khi không thấy bà xuất hiện trong giờ ăn trưa, Charlie sợ rằng ngay cả bà bếp trưởng cũng đã bị làm mồi cho những thế lực xấu xa đang len lỏi trong Học viện Bloor.
Giờ nghỉ uống trà là cơ hội duy nhất để Charlie lẻn vào bếp; vì thế, trong khi Fidelio canh chừng, Charlie lén đi vòng qua quầy và bước vào nhà bếp ồn ào.
“Muốn gì, chàng trai?” Một trong những phụ tá của bà bếp trưởng, một cô gái gầy gò, mặt đỏ ửng và tóc mượt, hỏi.
“Em tim bà bếp trưởng ạ,” Charlie nói.
“Bà ấy không khỏe, em à. Đi nằm rồi.”
“Ồ.”
Charlie không biết phải làm gì tiếp theo. Những căn phòng bí mật của bby nằm sau một cái tủ để chổi bình thường. Không ai trong số những nhân viên nhà bếp biết về sự tồn tại của những căn phòng ấy. Có lẽ bà bếp trưởng đang ở trên lầu, trong căn phòng lạnh lẽo mà gia đình Bloor nghĩ là nơi bà vẫn ngủ. Charlie có cảm giác chắc chắn là bà bếp trưởng đang ở trong căn hộ ấm cúng dưới lòng đất của bà.
“Cám ơn chị,” nó nói và đi ra cửa dẫn vào căn-tin, nhưng ngay khi cô gái ấy vừa quay lưng đi, nó liền cúi gập người xuống và chuồn lẹ ra sau một trong những cái quầy. Nó phải đợi tới khi một người phụ bếp khác đi ra bồn rửa chén, rồi mới lao vút tới buồng đựng chổi, vặn mạnh cho cửa mở ra và nhảy vào trong, khép cánh cửa lại sau lưng.
Một chiếc móc nhỏ sau tủ được dùng làm nắm đấm cửa, và khi Charlie vặn cái móc, một cánh cửa mở ra dẫn vào một hành lang tối thui. Charlie đóng cánh cửa thứ hai này lại. Bây giờ nó đang đứng trong bóng tối mịt mùng. Bà bếp trưởng thường để đèn sáng lờ mờ trong hành lang. Nhưng hôm nay thì không. Nỗi lo lắng của Charlie chuyển thành linh tính bào điềm gở.
Dò dẫm dọc theo bức tường để tìm lối đi, nó té lộn nhào xuống hai bậc thang, sau đó, nó dọ dẫm từng phân một, cho tới khi sờ thấy một tủ âm tường nhỏ. Nó mở cửa tù ra và bước vào nơi mà trước đây từng là phòng khách ấm cúng. Hôm nay, nó không còn nhận ra được nữa. Điều rõ rệt nhất là nền nhà nghiêng lệch một cách đáng báo động. Toàn bộ bàn ghế ngã chỏng chơ và bây giờ nằm thành một đống lù lù ở phía dốc thấp hơn của căn phòng.
Ánh sáng tù mù từ cái đèn bàn bị lật úp cho Charlie nhìn thấy một thân người nằm sấp trước bếp lò đen thui, lạnh lẽo. Con chó May Phúc ngồi bên cạnh.
“Bà bếp trưởng!” Charlie thét lên.
May Phúc quay ánh mắt buồn thảm về phía Charlie, khi thằng bé lao tới.
Trông bà bếp trưởng thật thảm hại. Mái tóc hoa râm của bà đã chuyển thành bạc trắng. Khuôn mặt mọi khi hồng hào giờ trắng nhợt, và hình như bà đã sụt cân đi rất nhiều.
“Charlie,” bà bếp trưởng rên rỉ. “Con về rồi.”
“Chuyện gì vậy ạ, bà bếp trưởng?” Charlie la lớn.
“Thế cân bằng đã mất. Ta từng nói với con rồi, phải không? Chúng ta phải giữ thế cân bằng đó.”
“Nhưng con nghĩ bà giữ cân bằng cơ mà. Bà nói bà là cục nam châm,” Charlie cuống quít nói.
“Ta không thể giữ được cân bằng nếu con không có ở đây, hiểu không?” Bà bếp trưởng nói trệu trạo, bức bối. “Con và Billy, cả hai đều đi mất, và cái thằng kinh khủng đó, cái thỏi nam châm đó đã chiếm quyền kiểm soát.”
“Con xin lỗi,” Charlie lí nhí. “Con dẫn Billy tới Lâu đài Gương.”
“Ta đã nghe rồi. Alice Angel đã nói với ta tất cả rồi. Ông Crowquill tội nghiệp. Rõ ràng là ta đã biết Tantalus Ebony có cái gì đó đáng ngờ. Giúp ta ngồi dậy nào, Charlie.”
Sàn nhà dốc tuồn tuột, Charlie giữ được thăng bằng đã khó khăn, đằng này lại còn phải đỡ bếp trưởng đứng dậy. Trong lúc bby bám chắc vào mặt lò sưởi, nó lẹ làng lấy một chiếc ghế từ đống đồ đạc lộn xộn ở cuối phòng ra và kê một ít báo xuống dưới chân trước của cái ghế. Khi cái ghế đã tạm vững, Charlie giúp bà bếp trưởng ngồi lên.
Bà bếp trưởng ngồi chìm vào trong ghế, ngả lưng ra sau và vỗ ngực:
“A! Đỡ hơn rồi.”
May Phúc lạch bạch đi lại gần chiếc ghế của bà.
“Con chó già này luôn ở sát bên ta, ngoan lắm,” bà bếp trưởng nói rồi vuốt cái đầu nhăn nheo của con chó.
“Mọi chuyện xảy ra từ lúc nào ạ?” Charlie hỏi.
“Tối thứ Hai. Sau khi họ tìm thấy Gabriel đáng thương. Ta thật sự không ngạc nhiên về việc con biệt tăm và việc thằng Torsson cư xử tồi tệ.”
“Con nghĩ con đã làm đúng, dẫn Billy đến nhà của tổ tiên nó,” Charlie nói.
“Đừng có nói thế với ta, Charlie Bone,” bà bếp trưởng nói một cách giận dữ. “Con không hề nghĩ tới Billy. Mà là do con tự nhiên đi tin rằng con sẽ tìm thấy ba của con. Con viện lý do thiệt viển vông, đúng không? Một lần nữa, con lại hành động mà không hề nghĩ đến bất cứ ai khác.”
Charlie thở dài đánh thượt.
“Con muốn giúp Billy thiệt mà. Với lại… con… à, con cũng muốn tìm ba con.”
Bà bếp trưởng nhìn nó thật nhanh.
“Ta không thể trách con được, Charlie,” bà nói dịu dàng. “Ta tiếc là con đã không tìm thấy ba con.”
Charlie tránh ánh mắt của bà bếp trưởng. Nó dòm xuống dưới chân.
“Vậy, con có thể làm gì bây giờ?”
“Ta thực lòng không biết. Chúng ta cần một đứa trẻ được ban phép thuật nữa. Một đứa bé có thể đặt tình bạn lên trên lợi ích riêng. Một đứa sẽ hợp sức với chúng ta, Charlie. Có lẽ lúc đó mọi thứ sẽ cân bằng trở lại.”
“Con nghĩ con biết ai được ban phép thuật rồi,” Charlie nói. “Nhưng nó không chịu chấp nhận điều đó.”
“À, cho dù là ai thì cũng sẽ cần một phép thuật thật mạnh để xoay ngược tình thế lúc này.”
Bà bếp trưởng nhổm đứng dậy và vuốt chiếc tạp dề nhăn nhúm.
“Giờ thì con nên quay về đi, Charlie. May Phúc và ta sẽ từ từ theo sau.”
Cuối cùng, khi Charlie xoay xở lẻn ra được khỏi cửa bếp, nó thấy Fidelio đang ngồi một mình trong khi cô phụ bếp tóc bóng mượt đang lau những mặt bàn trống.
“Mày từ đâu chui ra vậy hả?” Cô ta quát Charlie.
“Bạn ấy đi kiếm khăn trải bàn,” Fidelio nói, nó đã làm đổ một đống vụn bánh với nước cam trông thấy ghê lên bàn.
“Mấy thằng lỏi!” Cô phụ bếp càu nhàu. “Bọn con gái đâu có lóng ngóng như thế.”
“Con rất vui khi nghe vậy, thưa cô,” Fidelio nói. “Chào cô ạ.”
Rồi nó lôi Charlie nãy giờ vẫn cứng họng ra khỏi căn-tin.
“Chuyện sao rồi?” Fidelio thì thầm vẻ nôn nóng khi hai đứa đi dọc theo hành lang treo đầy chân dung.
“Bà bếp trưởng đang ở trong tình trạng rất tệ,” Charlie nói một cách ảm đạm. “Và em phải tìm ai đó có thể xoay chuyển tình thế.”
“Nhiệm vụ bất khả thi,” Fidelio rên rỉ.
Chúng đi gần tới tiền sảnh thì đụng phải Manfred đang sải bước xuống cầu tahng, Charlie thì thầm:
“Khéo thế thật.”
Giờ làm bài tập về nhà trong phòng Nhà Vua tối hôm đó thậm chí còn nghẹt thở hơn Charlie dự đoán.
“Mừng trò lại nhập bọn với tụi này, Bone,” Manfred nói khi Charlie bước vào.
Charlie ngồi xuống cạnh Emma trong khi sáu gương mặt kém thân thiện gườm gườm nhìn nó từ phía bàn bên kia. Charlie nhận thấy Tancred đang ngồi một mình, như vậy vẫn còn hy vọng là Joshua chưa hoàn toàn chiếm cứ được thằng này. Ngồi phía bên kia Emma, Lysander đang cúi gằm đầu xuống. Nó cong người cặm cụi vào bài tập của nó, không chịu nhìn thẳng vào mắt ai.
Hai đứa song sinh bắt đầu quậy: sách vở của Charlie bị thổi bay khỏi bàn và Emma bị một hộp đựng bút chì đập trúng. Khi sách bài tập của Lysander bị nảy bật ra giữa bàn và bắn vọt lên trần nhà thì nó hết cả bình tĩnh.
“Dẹp ngay, đồ rác rưởi!” Nó vừa hét lên vừa quăng một quyển sách vào hai đứa sinh đôi.
Hai đứa cùng cúi đầu xuống né. Chúng không thét lác, không chửi rủa, thậm chí cả nhíu mày cũng không. Mặt chúng cứ trơ trơ như tượng.
Manfred gắt:
“Lần sau mà trò mở miệng là có cấm túc dành cho trò ngay đó, Sage.”
Lysander phì ra một âm thanh khó hiểu và ngồi xuống.
Joshua đang mỉm cười với Tancred, và vài phút sau, Charlie, Emma và Lysander là nạn nhân của một chầu trút nước mưa, làm ướt sũng đầu tóc và bài tập của chúng. Ngạc nhiên quá chừng, chính Manfred tới cứu chúng.
“Dừng lại, đồ yêu ma!” Manfred quạt Tancred.
Chẳng hiểu bằng cách nào mà Charlie đã sống sót qua buổi tối hôm ấy, rồi nguyên cả ngày hôm sau. Nhưng đến tối thứ Nam, sau khi đèn tắt một lúc, nó còn nằm trằn trọc thật lâu, thử quyết định xem tiếp theo nên hành động như thế nào.
Nó nghe có tiếng cửa xe hơi đóng sầm lại, rồi tiếng những bước chân bị nghẹn tắc ở mảnh sân gạch bên dưới. Charlie chạy ra cửa sổ, nhìn xuống. Manfred và gã Weedon đang kéo một thằng bé tóc trắng về phía cổng chính.
Billy đã bị tìm ra.