- 17 -
Tác giả: Jenny Nimmo
Ở lầu trên cùng của Ngôi Nhà Sấm, Tancred Torsson đang xem xét mức độ hư hỏng của căn phòng ngủ. Nó đá một đống giày ra khỏi lối đi và ngồi lên giường. Cái nệm đã bay tuốt vô góc phòng đằng kia, tấm trải giường thì nằm như một nùi rối tung dưới chiếc tủ quần áo đổ kềnh.
Tancred đang mặc mỗi chiếc quần ngủ với áo cùng màu xanh lá cây. Hầu hết quần áo của nó đã rách bươm hoặc bị lấm lem đồ ăn. Mỗi khi giận dữ nó đều phát mệt, nhưng nó chẳng làm sao kềm được. Những đợt sóng thình nộ cứ thế trào ra, khiến không khí xung quanh rơi vào hỗn loạn.
Bà Torsson thò đầu qua cửa phòng.
“Con xuống ăn tối chứ, con?” Bà hồi hộp hỏi.
“Mẹ có tin con không?” Tancred ủ ê nhìn chằm chằm xuống sàn nhà.
“Ừm, suốt ngày nay yên ắng hơn một chút rồi,” bà Torsson nói.
“Mẹ, con xin lỗi vì làm mẹ nhức đầu,” Tancred lầm rầm.
“Tại con không kềm được thôi mà. Mẹ biết.”
Mẹ của Tancred chạy vội xuống lầu. Có những ngày bà chỉ ước ao được sống ở nơi nào đó khác, bên một ông chồng dễ thương bình thường và một cậu con trai bé nhỏ, lặng lẽ. Nhưng bà yêu cái gia đình bão tố của mình, và bất chấp những cơn nhức đầu, bà biết mình không bao giờ có thể hạnh phúc được như vậy với bất cứ ai khác.
Tancred theo mẹ xuống lầu và ngồi vô chỗ của mình bên bàn bếp. Ông Torsson đang đào bới dở một suất thịt băm hấp khoai tây thật bự.
Bà Torsson đặt một chiếc dĩa nhựa trước mặt con trai. Độ rày bà đành phải từ bỏ dĩa sứ.
“Đây con,” bà nói, và múc một ít bánh bột nướng nhân thịt vô dĩa của Tancred.
“Đã tới lúc con bình tĩnh được rồi,” ông Torsson bảo con trai. “Chầu bão này kéo dài quá lâu đấy.”
Cái ly bằng giấy của Tancred bay lên. May thay, đó là cái ly không.
“Con không kềm được, ba à,” Tancred rù rì. “Con cố kềm, nhưng không được.”
“Theo ba thì cái thằng thôi miên ấy có liên quan tới vụ này,” ông Torsson nối ầm ầm. “Thằng Manfred Bloor. Thằng đó đẩy cho con bực bội thực sự, đúng không?”
“Con không muốn nhắc tới chuyện ấy” Tancred nói, cùng lúc chiếc mũ áo chùng đột nhiên bay trùm lên đầu nó.
“Tự kiềm chế coi,” ông Torsson gầm như sấm.
Ngọn đèn bên trên bàn ăn lắc dữ dội từ bên này qua bên kia.
“Đấy, ba cũng chẳng khá hơn mấy,” Tancred nhận xét.
“Ba có thể điều khiển được cơn cuồng phong,” ông Tancred nói oang oang. “Thứ chúng ta có là một tài phép rất hữu ích, nhưng tài phép cần phải được làm cho tập trung lại.”
“Vâng, thưa ba,” Tancred nghiến răng lại, nhưng cửa sổ đằng sau nó bật mở ra đánh “cạch” một tiếng thật lớn.
“Xin lỗi,” nó lí nhí.
Thế rồi, qua cánh cửa sổ vừa mở toang, có một âm thanh kỳ dị. Gần như không hơn một tiếng thì thầm, nhưng lại có tác động lạ lùng đến Tancred. Nó nhận thấy mình đang lắng nghe tiếng nhạc mà chẳng giống thứ âm nhạc nào khác trong thế giới thực. Nó đứng dậy, vuốt thẳng áo chùng, và cẩn thận đẩy chiếc ghế ra sau.
“Gì vậy, Tancred?” Ông Torsson hỏi, ngạc nhiên vì cách cư xử điềm tĩnh khác thường của con.
“Con cần phải đi,” Tancred nói nhẹ nhàng.
“Đi đâu??” Người cha hỏi.
“Ra ngoài kia!” Tancred chỉ qua cửa sổ, tới những hàng cây tối trong rừng. Nó sải bước dài qua ba mẹ đang sững sờ, và rời khỏi nhà trước khi họ kịp hỏi thêm bất cứ câu nào.
Mặt trăng lưỡi liềm thả một dải ánh sáng mỏng của rừng cây, nhưng Tancred không hề lưỡng lự. Nó biết phải đi đường nào. Sâu vào trong rừng, nó tìm thấy thứ mà nó đang tìm – nguồn phát ra tiếng nhạc hút hồn kia.
Đó là một cái cây.
Cái cây ấy màu đỏ. Phủ dầy lên trên những cành nhánh mảnh mai là những chiếc là dường như có lửa cháy bừng bừng bên trong, và trảng trống nơi Tancred đứng được một quầng vàng chói chiếu sáng. Những vết lằn khứa sâu vào vỏ cây, từ đó nước rịn ra, nhò chầm chậm xuống thân. Nhìn gần hơn, Tancred thấy rằng thứ nước đó cũng màu đỏ, đỏ như máu vậy.
Khi Tancred lắng nghe bài hát lặng lẽ của cái cây, nó cảm thấy một sự tĩnh lặng lạ thường bao trùm lấy mình. Những cơn bão vẫn còn đó, sâu thẳm bên trong Tancred, nhưng nó biết mình có thể khống chế chúng. Phép thuật kỳ lạ của nó đã mất quyền làm chủ.
Tancred rời khỏi cái cây, nhưng khi gần ra khỏi khu rừng, nó ngoái nhìn lại. Luống ánh sáng chói lói đã biến mất, và bài hát cũng đã ngưng.
“Mẹ ủ nóng đồ ăn cho con đấy,” bà Torsson nói khi Tancred đi vô bếp.
“Chuyện gì ở ngoài đó vậy?” Ông bố hỏi.
“Có một cái cây, ba à. Một cái cây màu đỏ; hình như nó hát, nhưng không giống bất cứ bài hát nào con nghe trước giờ.”
Ông Torsson nhíu mày.
“Ba đã từng nghe nói về một cái cây đỏ,” ông trầm ngâm. “Hồi ba còn nhỏ, bà nội của con có kể cho ba nghe một câu chuyện. Khỉ thật, phải như bây giờ ba còn nhớ được. Bà nội bảo cái cây đó là Vua Đỏ.”
“Ông tổ của chúng ta!” Tancred kêu lên.
“Mẹ hết nhức đầu rồi!” Bà Torsson khẽ nói.
Tancred mỉm cười. “Ngày mai con sẽ đi gặp các bạn con.”
“Cũng tới lúc rồi,” ông Torsson đáp.
Sau bữa tối, lúc Tancred đang dọn dẹp phòng mình thì mẹ nó xuất hiện, mang theo một chồng quần áo và tấm trải giường sạch. Như mọi lần, bà đã giấu kỹ chúng đi trong lúc Tancred đang bị những cơn bão của mình điều khiển.
“Trông con khá hơn nhiều rồi,” bà nhỏ nhẹ. “Ngay cả tóc con cũng đang xẹp xuống đấy.”
“Con khỏi rồi, mẹ,” Tancred nói.
Đêm đó nó ngủ một giấc ngon lành nhất trong đời. Khi nó tỉnh giấc, tấm đệm vẫn còn ở nguyên trên giường, cả tấm trải và mền gối cũng vậy. Nó mặc đồ thật nhanh và xuống dùng một bữa sáng cực kỳ lịch sự với gia đình. Bà Torsson thậm chí còn dọn thịt heo xông khói và trứng lên dĩa sứ cho con.
Charlie không biết tc đã trở lại trường, cho tới khi nó vô phòng Nhà Vua tối hôm ấy. Nó vừa đặt xấp bài tập lên bàn thì Gabriel chạy xộc vô.
“Đoán gì coi!” Gabriel thì thào. “Tôi trông thấy Tancred rồi!”
Charlie gần như không thể tin nổi.
“Tuyệt vời!” Nó sung sướng reo lên.
Asa đi cà nhắc vô phòng. Băng bó đã tháo hết, nhưng những vết sẹo trên bàn tay nó vẫn còn đỏ hỏn và đau đớn.
“Hai đứa mày cười ngớ ngẩn cái gì?” Nó nạt nộ.
“Có tí tin vui mà,” Charlie đáp.
Căn phòng dần dần đông đủ cả. Emma ngồi vô chỗ kế bên Charlie, và Billy lẽo đẽo đi vô sau Manfred. Tiếp theo là Dorcas và rồi, cuối cùng, Lysander và Tancred cùng bước vô.
“Chào anh Tanc!” Gabriel và Charlie kêu lên.
“Rất vui gặp lại anh,” Emma lặng lẽ thêm.
Tancred chưa kịp đáp lễ, Manfred đã quát:
“Câm mồm, lo làm bài tập của chúng mày đi. Tancred và Lysander, bọn bay vô trễ!”
“Xin lỗi ông bạn,” Tancred vừa nói vừa cười toe.
“Tao không phải là bạn của mày,” Manfred vặc lại.
Câu nói này xem ra càng làm cho Manfred điên tiết hơn. Hắn cau có lườm Tancred, nhưng không thể nghĩ ra được cái gì nữa để nói.
Billy Raven ủ dột nhìn Manfred đăm đăm.
“Em rất buồn khi nghe tin bạn gái của anh bịnh,” nó nói, rõ ràng hy vọng sẽ được thưởng một ít kẹo. Nhưng rủi cho nó, câu nói ấy lại có tác dụng ngược.
“Cái gì?” Manfred trợn mắt nhìn Billy.
‘Zelda,” Billy lấm lét nói.
“Nó không phải là bạn gái của tao,” Manfred sủa. “Anh khuyên mày lo mà làm việc của mày đi, Billy Raven.”
“Vâng, thưa anh Manfred.”
Tất cả bọn trẻ cúi đầu xuống và bắt đầu làm bài. Mặc dù trong phòng đang có một sự tập trung rất căng, Charlie vẫn nhận thấy rằng, ít nhiều giống như có một gánh nặng vừa mới được cất đi. Một bầu không khí tươi mát và tràn trề hy vọng. Bây giờ bọn nó có năm người, nó nghĩ. Và bọn chúng chỉ có ba. Dorcas là một bí ẩn. Không ai biết phép thuật của con bé này là gì. Ngay cả khi Dorcas đang làm bài tập, vẫn có nụ cười trên mặt. Charlie thích nghĩ rằng Dorcas chẳng thuộc về phe này, cũng chẳng về phe kia, chỉ đứng im ở chính giữa.
Charlie ngẩng nhìn lên bức chân dung Vua Đỏ. Cái cây liệu sẽ xuất hiện lần nữa? Và liệu nó có thể đi vô bức tranh ấy? Liệu nó có nghe được tiếng Vua Đỏ nói không?
Giọng Manfred bổng cắt phăng luồng suy nghĩ của Charlie:
“Mơ mộng chẳng đưa mày tới đâu đâu, Bone. Làm bài đi!”
“Vâng, thưa anh Manfred.”
Charlie định rời mắt khỏi bức tranh, chợt nó nhìn thấy một bóng tối phủ xuống đằng sau dáng hình của vị vua. Từ từ, bóng tối đó định hình dần. Nó trở thành một gương mặt ẩn bên dưới một chiếc mũ trùm đen. Và Charlie bị thuyết phục rằng cái hình dáng u tối đó đang chặn mình. Nó sẽ không bao giờ để cho Charlie nghe được tiếng của Vua Đỏ, hay tiến lại gần ngài hơn.
“Mày muốn bị cấm túc hả, Bone?” Manfred quát.
“Không… không. Xin lỗi, anh Manfred. Em chỉ đang suy nghĩ. Bài tập về nhà của em hôm nay hơi khó.” Charlie lọng cọng lần tìm mấy cuốn sách.
“Thì chú ý làm đi,” Manfred gầm gừ.
Charlie cúi gằm đầu xuống cho đến khi đồng hồ điểm tám tiếng, và tất cả bọn chúng được xổ lồng.
Tancred và Lysander đuổi kịp Charlie khi nó vội vã ra khỏi phòng Nhà Vua.
“Sander đã kể cho anh nghe tất cả rồi,” Tancred bảo Charlie. “Anh hy vọng có thể giúp một tay trong vụ ông anh họ em.”
“Chắc chắn là anh giúp được mà,” Charlie nói. “Kiểu gì em cũng phải vô được khu bỏ hoang. Phải là thứ Bảy khi em không bị theo dõi.”
“Vậy tức là em sẽ phải đi vô từ phía bên kia,” Lysander lộ vẻ nghi ngờ. “Đường đó rất nguy hiểm, Charlie. Có một thung lũng dốc hẹp, sâu hút, dưới lòng có một con sông. Em sẽ phải leo lên mấy vách đá gần như dựng đứng.”
Charlie không thích cái viễn cảnh như thế.
“Có thể em sẽ lẻn vô qua một cửa sổ ở một trong hai tòa tháp, nếu có ai đánh lạc hướng giùm.” Nó nhìn Tancred.
“Một cơn bão hả?” Tancred hỏi.
“Được thế thì tuyệt.”
“Em có muốn anh giữ cây gậy phép không, Charlie?” Lysander khoát tay một vòng rộng lên không.
“Em nghĩ anh giữ thì an toàn hơn,” Charlie bảo.
“Ba đứa kia đang làm gì đấy.” Giáo sư Bloor hùng hổ bước lại gần chúng. “Tụi bay không được lảng vảng ở đây. Đi ngay, mau!”
“Vâng, thưa ngài,” cả ba líu ríu.
Chúng không dám nói thêm một lời nào với nhau nữa. Nhe răng cười một cái thiệt lẹ, Charlie tách khỏi hai thằng anh lớn và bước về phòng ngủ chung của mình.
Đêm đó Charlie thấy khó mà ngủ được. Nó bị ám ảnh bởi ý nghĩ bị tuột khỏi những vách đá dốc rồi chết đuối giữa dòng sông chảy xiết. Sáng hôm sau, nó ngơ ngẩn đến nỗi suýt nữa thì để nguyên đồ ngủ xuống ăn sáng. May thay, Fidelio đang chờ nó.
“Em sẽ gặp rắc rối nếu xuống nhà như vầy.”
“Em không nghĩ ngợi gì được cho ra hồn. Em cứ thắc mắc không biết cái gì sẽ xảy ra cho Henry nếu tụi mình không cứu anh ấy ra.”
“Tụi mình sẽ cứu anh ấy,” Fidelio nói, mặc dù nghe có vẻ ít tự tin hơn thường ngày.
Sau đó trong ngày, một việc xảy ra đã thay đổi tâm trạng của chúng hoàn toàn. Lúc tới căn-tin ăn trưa, chúng ngạc nhiên thấy bà bếp trưởng ở sau quầy.
Khi Charlie tới nhận khẩu phần của nó, bà bếp trưởng nhoài người qua chảo mì macaroni và rù rì với nó:
“Ta vừa nhận được tin từ ông Onimous. Các con hãy tới quán Cà Phê Thú Kiểng vào lúc 2 giờ ngày thứ Bảy.”
“Sao cơ?” Charlie hỏi.
“Tiến lên nào, Charlie,” Billy Raven đứng trong hàng rên rỉ. “Bọn này đói quá rồi.”
Fidelio thò chân ra sau, đạp lên chân Billy Raven.
“Úi!” Bily thét lên.
“Xin lỗi nhiều, Billy,” Fidelio nói thật lớn.
Tranh thủ lúc lộn xộn, bà bếp trưởng nói lẹ:
“Rồi sẽ ổn cả thôi. Ông Onimous có giải pháp.”
Đoạn bà cao giọng:
“Đây, Charlie. Mì macaroni không đậu.”
“Hết xảy!” Fidelio vừa reo lên vừa nhập chung bàn với Charlie. “Riết rồi cũng có món tử tế cho bọn ăn chay này.”
Rồi nó hạ thấp giọng:
“Anh đã nghe bà bếp trưởng nói gì rồi, vui lên đi, Charlie! Tất cả sẽ đâu ra đó vào thứ Bảy.”
Ngày tiếp sau là thứ Sáu. Trong giờ nghỉ giải lao đầu tiên, Charlie và Fidelio đã tìm được cách truyền thông điệp của bà bếp trưởng cho Tancred và Lysander. Gabriel cũng đã được báo cho biết, nó liền báo ngay cho Emma và Olivia. Dẫu sao thì chính hai đứa ấy đã kiếm ra Henry.
“Mấy đứa phải mang theo thú đấy nghe chưa,” Gabriel dặn dò hai đứa con gái. “Tôi có thể cho mỗi đứa mượn một con chuột, tôi có dư nhiều lắm.”
“Vậy à,” Olivia nói. “Em có vài con thỏ xinh ơi là xinh.”
Emma đồng ý mượn một con chuột.
Tối hôm đó, Charlie gói bức tranh Skarpo trong bộ đồ ngủ của nó. Xong, nó cẩn thận nhét cái gói xuống đáy giỏ xách rồi chất số quần áo còn lại lên trên.
Billy Raven ngồi chầu hầu trên giường, dòm Charlie gói ghém đồ đạc. Những đứa khác đã đi cả rồi, chỉ còn có mình hai đứa nó.
“Sao anh lại mang bức tranh đó về nhà?” Billy hỏi.
“Muốn thì đem,” Charlie nói.
Trước kia nó vẫn tội nghiệp cho Billy, phải một mình thui thỉ ở trong Học viện ghê rợn này mỗi cuối tuần. Nhưng nó chắc chắn rằng công việc do thám đã mang lại cho đứa trẻ mồ côi này khá nhiều quà thường – những thanh sô-cô-la, ca cao nóng về khuya, ủng viền lông, đèn pin cực mạnh…
“Đi đây,” Charlie nói, kéo dây khóa của chiếc giỏ lại. “Cuối tuần vui vẻ nha, Billy.”
“Em không nghĩ anh sẽ vui vẻ đâu,” Billy nói.
Ý nó là sao? Charlie quá bận tâm đến những kế hoạch cho riêng mình nên không còn đâu mà lo lắng về những lời đâm thọc lặt vặt của Billy. Nó lao vút xuống tiền sảnh, nơi Fidelio đang đợi. Bọn chúng là hai đứa cuối cùng rời Học viện.
Vào những chiều thứ Sáu, giáo sư Bloor và Manfred thường hay chờ ở tiền sảnh cho tới khi đứa học sinh cuối cùng rời tòa nhà. Khi Charlie và Fidelio đi về phía cánh cổng đôi cao lớn, giáo sư Bloor bước đến chặn ngay trước mặt chúng.
“Ta muốn xem có gì trong giỏ sách của trò,” ông hiệu trưởng bảo Charlie.
“Giỏ của con, thưa ngài?” Charlie rất mừng vì nó đã đưa cây gậy phép của Skarpo cho Lysander.
“Giỏ của trò, Bone. Đổ ra!”
“Ở đây, thưa ngài?”
“Ngay tại đây!”
“Trò ấy trễ xe buýt mất, thưa ngài,” Fidelio nói.
“Không phải việc của trò, Gunn” giáo sư Bloor nạt. “Đi đi.”
Fidelio không nhúc nhích.
“Con sẽ chờ Charlie, thưa ngài,” nó nói.
Charlie mở giỏ xách của nó ra và dốc ngược xuống. Quần áo, giày, sách đổ nằm ụp một đống dưới sàn. Manfred cúi xuống, bới tung từng món quần áo và từng quyển sách, quyển vở lên. Ngay cả đôi giày vải của Charlie cũng bị khám xét. Khi thằng huynh trưởng nhặt bộ đồ ngủ của Charlie lên, bức tranh rớt ra.
“Chỉ có cái này thôi!” Manfred chìa bức tranh ra đưa cho giáo sư Bloor.
“Ờ. Một tuyệt tác,” giáo sư Bloor chép miệng. “Không còn gì nữa hả? Nhìn vô trong túi coi, Manfred!”
Manfred khoắng tay vô trong túi xách của Charlie. Hắn miết tay dọc theo lớp vải lót, lắc lắc từng cái túi con và nhấc cả miếng đệm ở đấy giỏ lên.
“Xin ngài làm ơn. Tụi con sắp trễ xe buýt rồi,” Fidelio nói rành rọt.
“Vậy, sao mày không đi đi?” Manfred quát. “Ở đây không có gì, ba.” Hắn quăng cái túi vô Charlie. “Được rồi, hai đứa mày. Cút khỏi đây ngay.”
Hai thằng bé chạy bắn ra, vừa kịp xe buýt, nhưng khi xe lăn bánh quanh thành phố, Charlie chợt bắt đầu có những ngờ vực về Ông cậu nó. Giả sử Ông cậu vẫn còn đang nằm nhà thương thì sao? Giả sử các bà chị của Ông cậu đã làm gì đó còn tệ hại hơn nữa thì sao? Trông Ông cậu Paton rất yếu khi nó gặp ông lần sau cùng. Làm thế nào ông có thể bình phục kịp để giúp Henry?
Charlie chạy trên đường Filbert, phấp phỏm lo sợ sẽ phải nhận thêm tin xấu.
Khi mẹ nó ra mở cửa nhà số 9, những nỗi sợ lớn nhất của Charlie được xác nhận.
“Có chuyện hả mẹ?” Charlie thở ra.
“Không, cưng.” Mẹ nó hôn lên má nó. “Mẹ nghỉ một ngày. Phải đi mua một ít đồ.”
Charlie bước vô hành lang.
“Ông cậu Paton…?”
“Ông cậu đang ở trên phòng. Khá đau, nhưng không có gì nghiêm trọng.”
“Chao!” Charlie thả túi xách tại chỗ, và chạy bay lên lầu.
Lần đầu tiên trong đời, nó ào vô phòng Ông cậu mà không gõ cửa. Ông cậu Paton đang ngồi bên bàn làm việc.
“Chào, Charlie!” Ông cậu Paton nói.
Mất một thoáng, Charlie không biết phải đáp lại thế nào. Thật tình, nó nhẹ cả người, quá vui mừng khi thấy Ông cậu. Một cái ôm chắc hẳn là rất thích hợp, nó nghĩ, nhưng không chừng sẽ khiến Ông cậu Paton bối rối.
“Con rất, rất mừng là Ông cậu đã khỏi bệnh,” cuối cùng Charlie nói.
“Ta cũng mừng. Mày phải xem mấy vết bầm của ta mới được. Coi ấn tượng lắm.”
Charlie thấy một vết rách và một mảng bầm to tướng trên trán Ông cậu Paton, chỗ trước đó băng kín.
“Cái đầu của Ông cậu trông thật… ờ… nhiều màu sắc.”
Ông cậu Paton bật cười ha hả.
“Đáng gì! Những cái khác mới là nghệ thuật ấy chứ!”
Ông vỗ vỗ tay chiếc áp khoác nhưng rách lưa tưa của mình. Rồi hạ giọng, ông thêm:
“Dù sao họ cũng không khử ta.”
“Ông cậu có nghĩ là họ thật tình muốn khử Ông cậu không?” Charlie hỏi.
Ông cậu Paton nhún vai:
“Ai mà biết? Với loại bà chị như mấy bà chị của ta thì bất cứ việc gì cũng có thể.”
“Ông cậu Paton này, con có rất nhiều chuyện cần nói với Ông cậu,” Charlie mạnh dạn nói.
“Ta biết ngay mà. Chạy xuống dùng bữa trà đi đã, sua đó chúng ta sẽ bàn luận.”
Charlie đi xuống với bữa tiệc ngày thứ Sáu linh đình mà ngoại Maisie chiêu đãi để đền bù cho những bữa ăn cầm hơi ở Học viện.
“Nghĩ cho cùng, Ông cậu của con cũng rộng lượng đó chớ, hả?” Ngoại Maisie bình luận.
“Người ta có tìm ra ai đã làm không bà?” Charlie cố ý hỏi to. “Họ sẽ bị tống vô tù phải không?”
“Đó là một chiếc xe hơi thuê,” mẹ nó nói. “Người lái xe tóc vàng, đeo kiếng đen. Người ta chỉ biết có vậy thôi.”
Tóc giả, Charlie nghĩ. Ông cậu Paton biết, nhưng ông không thể chứng minh được.
Charlie dùng bữa trà lẹ hết cỡ, rồi lại mau mau chạy vọt lên phòng Ông cậu Paton. Ông đã cẩn thận dọn một khoảng trống trên giường làm chỗ ngồi cho thằng cháu. Trước giờ Charlie chưa bao giờ được mới ngồi trong phòng của Ông cậu. Nến đã được thắp lên, và ngọn đèn dầu mang đến cho căn phòng một thứ ánh sáng ấm cúng.
Charlie kể chooc nghe tất cả mọi việc, từ lúc nó phát hiện ra Henry bị bắt, tới lúc nó thoát khỏi ông thầy phù thủy. Ông cậu Paton không hề cắt ngan, mặc dù ông buột ra một tiếng huýt sáo trầm khi Charlie mô tả cái đêm hôm nọ của Olivia cùng với con chim trường săn khổng lồ.
“Và một thằng bạn của mày đang giữ cây gậy phép mày tìm được?”
“Anh Lysander giữ,” Charlie nói. “Con tin anh ấy. Anh ấy đã cứu con khỏi tay Skarpo.”
“Nhưng mày có cuốn sách chứ? Mày sẽ phải dùng tiếng xứ Wales để ra lệnh cho cây gậy phép. Đó là ngôn ngữ duy nhất mà nó hiểu.”
Charlie gật đầu. Nó đã học được vài từ và nhắc lại cho Ông cậu nghe. “Symuda’r gareg yma!”
“Để con tập,” Charlie nói. “Hên mà cô Ingledew kiếm lại được cuốn từ điển tiếng xứ Wales này. Nó nằm trong máng xối sau khi ông gặp tai nạn.”
“Hên thật. Cô ấy là một phụ nữ tuyệt vời, cô Ingledew ấy.”
“Ông cậu có… lại là bạn?” Charlie đánh bạo hỏi.
Mặt Ông cậu Paton hơi ửng lên. “Ta tin thế.”
Sau đó ông bật ho một tiếng nhẹ và hỏi, “Thế, kế hoạch tiếp theo của mày là gì?”
“Ngày mai, con và các bạn sẽ gặp nhau ở quán Cà Phê Thú Kiểng. Ông Onimous nhắn như vậy. Ông báo ông có cách. Nhưng con không biết điều đó có nghĩa là gì. Làm thế nào ông ấy có thể cứu anh Henry?”
“Quán Cà Phê Thú Kiểng,” Ông cậu Paton lẩm bẩm. “Quán Cà Phê Thú Kiểng.” Ông xoa xoa cằm, tư lự. “A! Lẽ ra ta phải nhớ.” Rồi ông cười khục khục, thích thú.
“Có một lối đi cổ, bị bỏ quên lâu rồi. Nó được ghi ở trong một trong những cuốn sách này.”
Ông vỗ một chồng sách trên bàn làm việc.
“Nó dẫn xuống lòng đất, bắt đầu từ đâu đó trong những bức tường cổ của thành phố, dẫn thẳng vô ngay trung tâm của tòa lâu đài bỏ hoang. Không ai biết nó bắt đầu từ đâu, nhưng ta cá với mày bất cứ cái gì là ông Onimous biết. Diện mạo của ông ta toát lên một vẻ đào bới hang hốc dưới lòng đất rất tuyệt vời!”
“Nó ở bên trong quán Cà Phê Thú Kiểng!” Charlie reo lên.
“Không sai,” Ông cậu Paton nói. “Charlie, sắp xếp giỏ đi. Nói với mẹ mày là mày sẽ đi ra bờ biển với ta vào tối thứ Bảy.”
“Con không hiểu.” Charlie hoang mang.
“Ngày mai, mày sẽ cứu Henry ra khỏi cái hố kia. Xong, mày sẽ dẫn cậu ấy trở lại quán Cà Phê Thú Kiểng, và cậu ấy sẽ phải ở lại đó cho đến đêm. Mày sẽ trở về đây và báo cho ta biết tất cả mọi việc đã suôn sẽ, xong rồi chúng ta sẽ cùng nhau lái xe đến quán cà phê và đón người bà con đáng thương bị mất tích của chúng ta.”
“Chúng ta sẽ đưa anh ấy đi đâu?”
“À… mày cứ chờ đi rồi sẽ biết.”