Chương 15
Tác giả: Jenny Nimmo
“Những con mèo lửa,” Charlie lẩm bẩm.
“Cậu trở lại rồi sao, Charlie?” Một giọng nói.
Một màn sương bạc bao quanh Charlie, và khi chớp mắt, nó thấy mình lọt thỏm trong tầm nhìn của sáu con mắt vàng.
“Ô,” nó thốt lên.
Tiếng gừ gừ lớn lúc nãy trần đầy tai nó bắt đầu im dần và nó cúi xuống vuốt ve ba cái đầu rực rỡ.
“Điều đó quả là kỳ diệu, Charlie. Suốt đời tôi, tôi sẽ không bao giờ quên.”
Màn sương tan ra, và Charlie thấy ông Onimous đang ngồi trên chiếc ghế Skarpo vừa mới bỏ trống.
“Chuyện gì vậy ạ?” Charlie hỏi.
“Cậu đã ở đó, cả ông thầy phù thủy nữa,” ông Onimous nói, chồm tra trước đầy phấn khích. “Chà, cái ông thầy phù thủy… ừm… xuyên thẳng qua người cậu. Xon, ông ta mờ dần, ờm, cho tới khi chỉ còn là một cái bóng và rồi biến hẳn luôn. Phùù!”
“Có chuyện gì xảy ra với cháu vậy?”
“Cậu á? Cậu vẫn ở lại chỗ cậu đây, Charlie. Cứ đứng trơ ra như một tảng đá và nhìn trừng trừng vô bức tranh. Nhưng lũ mèo thì lại khác. Chúng di chuyển không ngừng. Cứ luẩn quẩn quanh chân cậu, gừ gừ và hát lên theo cái kiểu trước giờ tôi chưa bao giờ nghe thấy.”
“Cháu nghĩ chúng đã đi cùng với cháu,” Charlie nói. “Ý cháu là chúng đi cùng với tâm trí cháu khi cháu vút đi.”
“Vậy à? Hừm, tôi không cho là chúng làm được như thế.”
Charlie không nhắc tới cuộc gặp gỡ những con báo và người đàn ông mặc áo thụng đỏ. Điều đó quá riêng tư và quý giá, tới nỗi nó không tìm được lời để diễn tả. Thay vô đó, nó quay qua Ông cậu và thấy ông ngủ mê man.
“Ông cậu Paton có trông thấy những gì xảy ra không?” Charlie hỏi.
“Tội nghiệp, ông ấy lịm đi trước khi thầy phù thủy từ biệt chúng ta,” ông Onimous nói. “Ông cậu cậu cậu bị bệnh rất nặng, Charlie. Thật thảm thương khi chứng kiến một người thông minh và dũng cảm lại ra tới vậy.”
“Cháu muốn giúp Ông cậu,” Charlie quả quyết. “Và cháu sẽ làm. Skarpo bảo Ông cậu phải tắm bằng cây gì đó gọi là cỏ roi ngựa. Ông nghĩ cháu có thể kiếm nó ở đâu?”
“Ừm,” ông Onimous lấy ngón tay trỏ day day cái cằm đầy râu. “Để tôi hỏi xem, Charlie. Giờ tôi đi đây. Chúc may mắn.”
Với bộ điêu thần tốc như thường lệ, ông Onimous nhảy phắt ra khỏi ghế, ào ra khỏi căn phòng và phóng xuống lầu trước khi Charlie kịp nghĩ ra một câu hỏi khác.
“Chào tạm biệt hai bà Bone,” ông gọi khi rời ngôi nhà cùng với những con mèo rực rỡ nhảy cẫng lên đằng sau.
“Chúng đi rồi hả?” Nội Bone la lớn.
“Phải ạ, nội,” Charlie nói với tiếng thở dài.
Nội Bone hiện ra ở ngưỡng cửa.
“Đi hết rồi hả?” Bà nói. “Mày hiểu ý tao chứ?”
“Phải, ông ấy cũng đi luôn rồi.”
“Đội ơn Chúa!” Bà ta thụt trở lại vô phòng mình và đóng cửa đánh rầm.
Charlie ra bàn dùng bữa trà cùng với mẹ, nhưng suốt bữa ăn, tâm trí nó cứ vương vất mãi về cuộc hành trình xuyên qua cửa sổ của thầy phù thủy. Mình đã gặp Vua Đỏ, nó nghĩ. Và ngài cũng đã trông thấy mình. Mình đã thấy những con báo và khu rừng nơi họ sống. Charlie càng lúc càng tin chắc rằng Dương Cưu, Sư Tử và Nhân Mã đã dẫn nó đi tới khu rừng xa xăm đó. Nhưng tại sao? Và bằng cách nào?
“Con nghĩ gì mà mải mê vậy, Charlie,” mẹ nó hỏi.
Charlie ngần ngừ, “Con đang suy nghĩ xem mình có thể lấy cỏ roi ngựa ở đâu.”
“Cỏ roi ngựa? Đó là một loại cỏ dại hay thảo mộc gì đó, nhưng mẹ chưa trông thấy bao giờ. Con cần nó để làm gì vậy, Charlie?”
“Để giúp Ông cậu Paton.”
“Ồ,” mẹ nó nhướn mày lên, nhưng chẳng nói gì thêm.
Tối khuya hôm đó, Charlie mang khay đồ ăn tối lên phòng Ông cậu. Nhưng Ông cậu Paton không hề đụng tới cái khay. Căn phòng chìm trong bóng tôi, nên Charlie thắp ngọn đèn cầy dựng ở trên bàn làm việc của ông lên.
“Ông cậu cố ăn đi mà,’ nó nài nỉ. “Con nghĩ Ông cậu sẽ khỏe cho coi.”
Ông cậu Paton quay đầu đi.
“Xin lỗi, Charlie. Ta nghĩ ta sắp tàn rồi. Ta cảm nhận điều đó trong đầu, trong xương, và trong linh cảm của ta. Lão ta đã kết liễu ta rồi.”
“Nhưng lão đã làm gì?” Charlie gào lên. “Và lão ấy là ai?”
Ông cậu thường vẫn không chịu nói. Bằng giọng ngắt quãng, ông chỉ thều thào hỏi:
“Julia có lại thăm ta không?”
“Con nghĩ là không,” Charlie buột miệng.
“Ôi,” Ông cậu Paton não nề.
“Có thể cô ấy tới trong khi con đi học,” Charlie đoán chừng, hối hận vì sự vô ý của mình. “Thật ra con tin là cô ấy có tới, nhưng chắc chắn là nội Bone không cho cô ấy vô.”
“Không phải,” Ông cậu Paton thở dài. “Cô ấy quên ta rồi.”
Charlie chẳng nghĩ ra được câu gì để nói. Nó phân vân không biết có nên kể cho Ông cậu nghe chuyện nó đã gặp Vua Đỏ hay không. Có lẽ chuyện này sẽ làm ông vui lên, nhưng nó vẫn không thể lựa được lời để nói về chuyện đó.
“Ông cậu hãy dùng thử cỏ roi ngựa coi,” nó nói. “con nghĩ thầy phù thủy thật lòng muốn giúp Ông cậu đó.”
“Cỏ roi ngựa,” Ông cậu Paton làu bàu. “Một loại cây linh thiêng.”
“Ông cậu có biết nó mọc ở đâu không?”
“Trong vườn của bà Eustacia, chắc chắn. Bà ta trồng tất cả những thứ nào mà mày từng nghe nói tới. Nhưng ta khuyên mày đừng có léo hánh tới đó, Charlie. Đó là một nơi nguy hiểm.”
“Con không sợ,” Charlie nói. “Con đã tới đó rồi.”
“Ôi không, Charlie,” Ông cậu Paton rên rỉ.
Và rồi ông rơi vô một giấc ngủ đầy kích động khác, cứ ú a ú ớ, mắt nhắm nghiền, miệng méo xệch, răng nghiến trèo trẹo.
Tâm trí Charlie đã quyết, bằng cách nào đó rồi nó cũng sẽ tìm được cách lẻn vô vườn bà cô Eustacia. Nhưng trước hết, nó cần phải tìm hiểu xem có roi ngựa nó như thế nào đã. Nó không muốn bứt phải một thứ cây độc địa và chết người; mà nó không hề nghi ngờ là những thứ cây đó vẫn được trồng đầy quanh vườn bà cô Eustacia.
Sáng thứ Bảy, sau khi mẹ nó rời nhà đi chợ rồi, Charlie tới thăm cô Ingledew. Trong tiệm sách có một bầu không khí phấn chấn và tất bật thật đáng ngạc nhiên. Đó vốn thường là nơi yên tỉnh, nhưng hôm nay, Charlie thấy Olivia, Tancred và Lysander đi lại đĩnh đạc đằng sau quầy, đầu đội những chiếc mũ lông dị kỳ.
Emma và Tancred được phân công nhiệm vụ thiết kế mũ nón cho vở kịch, và Tancred rủ Lysander đi cùng để cho cậu ta vui lên. Rõ ràng là chiêu này có tác dụng. Không còn nghe thấy tiếng trống kinh khủng đeo đẳng theo Lysander nữa, thậm chí Lysander còn phá lên cười khanh khách khi Tancred thổi chiếc mũ lông vàng của nó bay lên trần nha2.
“Trông em nghiêm trọng quá vậy, Charlie,” Tancred nhận xét. “Đừng lo, tụi này không quên Ollie đâu. Bọn anh đang lập một kế hoạch, nhưng vở kịch đang cấp bách trước mắt mà.”
“Chính xác là vở kịch về cái gì vậy?” Charlie hỏi, thắc mắc về những cái nón hoa hòe hoa sói.
“Nó kiểu như một dạng pha trộn giữa Cái hộp quẹt và Mười Hai Công Chúa Nhảy Múa, ” Olivia nói. “Tớ là một trong những nàng công chúa đấy.”
“Thế, ai đóng vai lớn nhất?”
“Họ chưa quyết định,” Olivia đáp. “Manfred muốn Lydia Pieman đóng vai chính. Tớ nghĩ hắn có cảm tình với chị ấy. Zelda sẽ ghen tị tới phát điên mất.”
Dì của Emma xuất hiện và nhắc bọn trẻ vui lòng thử nón ở trong phòng phía sau.
“Cô không muốn khách hàng nghĩ nơi này đã biến thành cửa hàng quần áo đâu đấy,” cô vừa nói vừa mỉm cười.
Charlie giải thích là nó tới không phải để thử nón, mà vì một nhiệm vụ khẩn cấp thì đúng hơn.
“Để giúp Ông cậu của cháu,” nó nói.
“Ra vậy,” cô Ingledew cố tỏ ra không lưu tâm, nhưng Charlie có thể thấy điều ngược lại.
“Bà nội của cháu một hai cho rằng cô đang theo đuổi Ông cậu Paton,” cô nói. “Cô muốn tỏ thái độ rõ ràng là cô hoàn toàn không phải như vậy.”
“Vâng ạ,” Charlie nói. “Vấn đề là, tình trạng của Ông cậu Paton đang xấu đi. Bây giờ ông không ăn gì nữa.”
“Ồ, Charlie, cô không hề biết. Ông cậu Paton đáng thương. Có phải… Cô ân hận quá,” cô Ingledew đột nhiên đầy vẻ kích động.
“Cháu nghe nói tới một loại cây thân thảo, gọi là cỏ roi ngựa, có thể chữa được cho Ông cậu,” Charlie nói.
Cô Ingledew nhíu mày:
“Cháu nghe thấy điều đó ở đâu?”
“Tớ đảm bảo là từ lão phù thủy,” Olivia chen vô.
“Đúng không?” Emma hỏi. “Đúng không, Charlie?”
“Kể cho mọi người nghe đi,” Tancred thúc giục. “Không anh thổi bứt áo chú mày ra bây giờ.”
Charlie vội tùm chặt lấy dây nịt của nó.
“Rồi rồi,” nó đồng ý, miệng cười toét.
“Cô không biết cháu đang nói về cái gì?” Dì của Emma nói. “Và cô cũng không chắc mình có muốn biết không.”
“Khổ một cái là cháu không biết cỏ roi ngựa nó ra sao,” Charlie nói. “Và cháu nghĩ thể nào cũng có hình nó ở một trong những cuốn sách tuyệt vời của cô.”
Vừa lúc đó có hai vị khách bước vô cửa hàng, và cô Ingledew bảo bọn trẻ vô kiếm trong đám sách ở trong phòng.
“Tra vần “T” để kiếm cuốn ‘Thảo dược với nghề trồng vườn’ xem .”
Chính Lysander là người kiếm thấy cuốn sách, một phần do nó là đứa cao nhất bọn, và tất cả những sách vần “T ” đều nằm ở kệ trên cùng.
“Đây rồi!” Nó nói, đặt cuốn sách để mở lên bàn, và chỉ vô một bức hình. Cỏ roi ngựa hình như là một loài cỏ mọc thành bụi, là màu xanh lá cây-vàng, với những bông hoa li ti màu hoa cà ở đầu mỗi búp chồi.
“Sách ghi rằng, người ta đã từng tin là nó chữa trị được tất cả mọi thứ, kể cả là ma.”
“Thảo mộc linh thiêng,” Olivia đọc ghé qua vai Lysander. “Người La Mã dùng nó để trị bệnh truyền nhiễm, và để ngăn chặn yêu ma, tà thuật.”
“Em biết kiếm nó ở đâu rồi,” Charlie nói, nhìn đăm đăm vô bức tranh.
“Ở ĐÂU?” Cả bốn cặp mắt đều chĩa vô Charlie.
“Trong vườn của bà cô em,” nó nói. “Ở Ngách Tối.”
“Bọn này sẽ cùng đi với đằng ấy,” Olivia sốt sắng.
“Không cần…” Charlie vừa tính nói…
Thì Lysander đã cương quyết:\
“Cần chứ sao không cần. Tụi này sẽ đi. Anh cần phải làm cái gì đó hữu ích, không thì anh phát khùng mất.”
Charlie buộc phải thừa nhận là có bạn cùng đi tới Ngách Tối sẽ tốt hơn, dẫu có lo rằng năm đứa trẻ sẽ dễ gây chú ý tại cái nơi hoang lạnh, im lìm đó.
“Em bị dính với tụi này rồi,” Tancred thêm.
Năm người bạn rời tiệm sách, bảo với cô Ingledew là chúng đi kiếm cỏ roi ngựa. Cô thận trọng gật đầu, nhưng vì mải bận tiếp hai vị khách già đang tìm một cuốn sách nấu ăn, nên cô không thể hỏi bọn trẻ thêm câu nào nữa. Tuy nhiên, khi các khách hàng đã rời khỏi tiệm, nhìn thấy cuốn sách bọn trẻ vừa xem hồi nãy, cô xem xét kỹ bức tranh vẽ một loại cây rậm lá, có hoa màu tim tím.
“Một loại cây linh thiêng,” cô lầm thầm đọc, “tà thuật… yêu ma…”
Cánh cửa xịch ra, kèm theo một tiếng “koong” thật to, và hai đứa con gái bước vô tiệm.
“Tôi có thể giúp gì được nào?” Cô Ingledew hỏi.
“Chúng cháu không muốn mua sách,” con bé đẹp hơn, tóc vàng nói. “Chúng cháu đang đi kiếm mấy đứa bạn.”
“Tụi cháu nghĩ tụi cháu vừa thấy bọn nó đi ra khỏi tiệm sách của cô,” con bé kia tiếp; nó lùn hơn và phúng phính hơn người bạn đồng hành với nó.
“À, vậy là các cháu muốn gặp Emma, cháu gái của tôi,” cô Ingledew nói.
Hai vị khách của cô Ingledew giờ đã xộc vô tới quầy, và con bé tóc vàng quay ngược cuốn sách để mở lại và đọc:
“Cỏ roi ngựa. Thú vị làm sao!”
“Ờ,” dì của Emma nói, đóng cuốn sách lại.
“Vậy, cô làm ơn nói cho tụi cháu biết Emma và tụi kia vừa đi đâu, được không ạ?” Con nhỏ mập tròn hỏi.
“Tôi không biết.”
“À! Chúng cháu có hẹn gặp nhau mà,” con bé tóc vàng nói.
“Tiếc quá!” Cô Ingledew nói.
Cô linh cảm rõ ràng là hai đứa con gái kia đang nói dối. Cô không thích chúng, nhất là con nhỏ mặt đẹp. Hai mắt nó cứ đổi màu liên hồi, đó là điều gây khó chịu nhất.
“Thôi vậy,” con bé tóc vàng thở dài. “Chúng cháu đi đây, xem có đuổi kịp chúng không.”
Nó nhếch mép một nụ cười rộng ngoác, nhe hàm răng trắng bóng.
“Tạm biệt!” Cô Ingledew kẹp cuốn sách dưới tay và nhìn hai đứa con gái đi khỏi.
“Chúng muốn cái gì không biết nữa?” Cô lẩm bẩm.
Charlie và các bạn vừa tới Vòng Cung Ụ Xám, thì thấy một bóng người xộc ra từ một ngõ hẻm tối dẫn khỏi khúc cua.
“Bà cô Venetia!” Charlie thì thào với tụi bạn. “Lẹ lên! Trước khi bà ấy thấy tụi mình.”
Chúng băng vội qua đường, núp sau thân cây thông lớn ở giữa khúc cua, trong khi bà Venetia Yewbeam bước đều về phía đường cái. Bà ta xách một chiếc giỏ mua hàng bằng da bự, có in chữ “Y” màu vàng chói bên hông giỏ. Khi bà ta tiến tới gần hơn, Charlie kéo cả bọn núp xa hơn nữa dưới tàn cây. Bà cô của nó dừng lại, và trong một thoáng, Charlie tưởng bà sẽ băng qua đường và sục sạo. Nhưng sau vài giây, bà Venetia lại đi tiếp.
Khi bà cô nó quẹo ra đường chính rồi, Charlie dẫn cả đám cô con hẻm ảm đạm, mang tên Ngách Tối.
“Nơi gì mà thê lương,” Olivia thì thầm. “Ai mà muốn sống ở đây cơ chứ?”
“Máy bà cô của mình,” Charlie đáp.
Chúng đi qua những ngôi nhà vô chủ, nơi lũ chuột giật mình phóng khỏi thùng rác, và những kẻ lang thang càu nhàu từ dưới những bậc cấp tầng hầm nhớp nháp, và rồi chúng đối mặt với một loạt căn nhà số 13.
“Căn nào?” Lysander hỏi.
“Ừm, bà Venetia sống ở căn cuối. Như vậy, nếu tính theo tuổi tác thì bà cô Eustacia chắc phải sống ở căn chính giữa,” Charlie nói.
“Đằng ấy nghĩ bà ấy có ở nhà không?” Olivia hỏi.
“Không biết,” Charlie nói gọn. “Nhưng còn lâu mình mới gõ cửa hỏi.”
“Vậy làm sao tụi mình vô vườn được?” Emma nói.
Charlie chưa nghĩ tới điều đó. Hên là Tancred đã nghĩ tới rồi.
“Đằng này này!”
Tancred vẫy gọi cả bọn từ một cánh cổng nhỏ có chấn song sắt. Phía bên kia cổng, một lối hẹp chạy giữa nhà số 12 và nhà số 13. Rõ ràng, có một lối ra những khu vườn đằng sau nhà.
Cánh cổng kêu kít lên một tiếng thật lớn khi chúng bươn bà đi qua, và Charlie lo lắng liếc nhìn vô hông nhà số 13. Nhưng chỉ có một cửa sổ, tuốt trên bức tường cao, lại là cánh cửa có rèm kéo xuống.
Phía sau những ngôi nhà, những mảnh sân và vườn được phân ranh rõ rệt bằng những bức tường đá màu xám cao. Một lối hẹp chạy giữa những khu vườn của Ngách Tối và vườn của những căn nhà khác trong vòng cung. Nhưng, không giống như tường của những căn khác, tường của mấy căn nhà mang số 13 không có cổng.
“Em phải leo vô đi,” Lysander bảo Charlie. “Em có thể đứng lên lưng anh này.”
“Còn tụi này cảnh giới,” Emma bảo.
“Anh sẽ đi cùng Charlie,” Tancred nói.
“Không, để em” Olivia hét lên. “LÀM ƠN MÀ!”
“Suỵt!” Charlie nhắc nhở. “Cả hai cùng đi.”
Ngay khi Charlie leo lên lưng Lysander và nhìn qua tường, nó nhận ra n gay là mình cần phải có thêm hai cặp mắt nữa để phụ tìm kiếm. Khu vườn bạt ngàn cây. Những loại thân thảo, loại có hoa, loại cây bụi, và loại cỏ dại mọc san sát bên nhau trong khuôn viên những bức tường. Một thảm thực vật thật sự.
“Chao!” Olivia thốt lên khi trông thấy khu vườn. “Tụi mình phải bắt đầu từ đâu đây?”
Chúng quyết định sẽ đi thành hàng, khởi đầu tìm kiếm từ bức tường, đi dài ra tới ngôi nhà. Charlie thấy ngay là việc sẽ chẳng dễ gì. Cây cỏ ken đặc tới nỗi thật khó mà không dẫm lên chúng. Olivia, trong đôigiày tím gồ ghề, tàn phá cây nhiều hơn tụi con trai. Con nhỏ cứ hết trượt vô những bụi cây cao lớn nhất lại đạp phải những bụi hoa thanh mảnh nhất. Charlie cố không nhìn Olivia, mà tập trung hướng mắt vô đám cây trước mặt mình.
Thỉnh thoảng một đứa trong bọn phấn khích reo lên, “Đây rồi,” “Thấy nó rồi,” và rồi lại “Ồ, không phải.”
Khi chúng tiến gần tới ngôi nhà, bỗng Charlie nghe thấy cái gì đó rớt xuống bức tường chắn giữa vườn nhà bà cô Eustacia và sân nhà kế bên. Nó nhảy qua những lùm cây cuối cùng để coi đó là cái gì.
Một viên đá màu xám, trơn láng đậu ở trên mặt tường. Trong nó quen đến lạ lùng. Và rồi Charlie chợt nhớ ra.
“thầy Boldova,” nó lẩm bẩm, “những viên đá phát sáng!”
Nhưng viên đá này là từ nhà bà cô Eustacia, hay từ nhà bà Venetia kế bên?
“Em kiếm ra rồi à, Charlie?” Tancred khào khào, thì thào gọi.
“Không, em…”
Có tiếng huýt sáo lanh lảnh từ bức tường, và Lysander gọi:
“Coi chừng, Charlie. Có cái gì đó ở trong nhà.”
Charlie nhìn lên tòa nhà hoang vắng, ám đầy bồ hóng. Từ đây, nó nghe thấy những tiếng nói. Cánh cửa sổ trên cùng đóng lại cái “thình”, và rồi tất cả bọn chúng đều nghe tiếng những bước chân chạy vội xuống cầu thang.
“Tụi mình ra hết mau,” Olivia nói.
“Nhưng mình chưa tìm thấy cỏ roi ngựa,” Charlie lừng khừng.
“Quên đi,” Tancred nói. “Đi mau, bữa khác tụi mình sẽ tới.”
Nhưng có thể sẽ không có ngày khác. Charlie quyết không bỏ cuộc. Nó quay người lại, đảo mắt liên hồi và ngó chằm chặp vô những bụi cây, trong khi bọn bạn hối hả chạy về phía bức tường.
“Coi chừng!” Tancred hét khi cánh cửa nhà sau mở bật ra.
Và rồi Charlie trông thấy bụi cây, gần như ở ngay dưới chân nó. Koc ó thời gian mà tỉa cành hay lấy búp, nó giật mạnh, nhổ nguyên cả bụi khỏi mặt dất, kể cả rễ.
“Mày đang làm cái khỉ gì đấy?” Bà cô Eustacia rít lên từ ngưỡng cửa.
Bà ta chạy ào xuống những bậc cấp khi Charlie phóng lẹ qua khu vườn, dẫm bừa lên cây cỏ. Olivia đang bò qua tường, thì bỗng có một tiếng “rắc” lớn ngay dưới bàn chân phải của Charlie, và trước khi kịp dừng lại thì nó đã thấy mình đang trượt dài trên mặt đất.
“Ííííí… Ôôô!”
Charlie la lớn, cố túm lấy một bụi cây khẳng khiu. Vô ích. Nó đang lộn nhào càng lúc càng sâu xuống một cái hố đen ngòm.
“Mày không ngó thấy cái bẫy của ta hả, thằng ngu kia?” Bà cô Eustacia cất giọng khàn đục.
“Charlie, đằng ấy ở đâu?” Olivia gọi.
“Cứu tôi với!” Charlie bấu chặt lấy hai bên thành hố, nhưng đất ở đấy nhớt nhợt những con ốc sên và cây cỏ thối rữa.
Trong tất cả các bà cô,t hì bà Eustacia có giọng cười ma quái nhất. Tiếng cười của bà khành khạch thật độc địa.
“Ha! Ha! Ha!”
Bà ta đứng sừng sững ngay bên trên Charlie, và nó trông thấy một quang cảnh gớm ghiếc là đôi vớ bó màu nâu cùng mớ đầm lót màu đen.
Nó vội nhắm tịt mắt lại, miệng la yếu ớt:
“Cứu tôi với!”
“Quá trễ để cứu với kiếc,” bà Eustacia cười ngạo nghễ. “Mày bị kẹt như một con chuột mắc bẫy, Charlie Bone. Giờ thì tao phải làm gì với mày đây?”
Charlie nhìn lên:
“Mấy bà già không được làm như vầy với con nít,” nó bướng bỉnh trả treo.
“Không được á? Nhưng tao thì được,” bà cô của nó cưới khùng khục. “Và nếu mày…”
Bất thình lình, đang giữa chừng câu nói, bà cô Eustacia bay vọt lên không. Cảnh tượng thật đáng sửng sốt. Khi Charlie ngước nhìn lên, thì cái thân hình đồ sộ đã ở trên trời, rồi biến mất vô đám là cây. Giờ thì Charlie nghe thấy tiếng gió gào trên đầu, cuốn cành cây, đất đá, bụi rậm và những thân cây nhỏ vô một cơn lốc xoáy dữ dội.
“Tancred,” Charlie thở gấp khi có bốn bàn tay thò xuống về phía nó.
“Leo lên, Charlie,” giọng Tancred phát ra, dù Charlie không trông thấy cậu ta qua những đống xà bần bay vù vù.
“Tancred đang giữ chân con dơi già,” Olivia bảo, “nào, lên lẹ coi.”
Nhưng Charlie không thể nào với tới những bàn tay đang vẫy kia.
“Mình không lên được! Không lên được!” Nó thét.
Thêm hai bàn tay nữa xuất hiện: hai bàn tay rắn chắc, rám nâu, có thể vươn sâu xuống hố.
“Nhảy lên di, Charlie,” giọng Lysander. “Hích lên coi nào, anh chàng. Ra khỏi đó mau!”
Lần này, Charlie cạp bụi cỏ roi ngựa vô giữa hai hàm răng và nhảy lên, nhắm tới đôi bàn tay nâu. Hai bàn tay chụp lấy nó và từ từ, nó bắt đầu leo lên.
Tancred và Olivia cùng túm một cánh tay Charlie, trong khi Lysander túm cánh tay kia. Dần dần, Charlie được lôi lên phía miệng hố. Nó nghe thấy một tiếng thét bị chẹn lại ở đâu đó đàng xa, và khi đã bò lên được, quăng mình vô cơn gió, nó thấy cái mà chắc chắn là bà cô nó, bị bọc trong đám là cây, đang giãy giụa chống lại luồng gió gào thét trong khu vườn của bà ta.
“Ngừng lại!” Cái đống xanh lá cây thét vang khi Charlie và bọn bạn lao ra phía bức tường.
Lysander đẩy mông Charlie một cái, và tất cả bọn rớt tòm xuống con hẻm, cùng phá ra cười bò.
“Chuyện gì xảy ra vậy?” Emma hỏi, nó quá lùn nên không trông thấy gì phía bên kia bức tường.
“Tancred tung bảo bối ra, làm bà cô của Charlie trông giống như một đống phân trộn,” Olivia nói.
“Bà ta sẽ trút cơn giận lên bồ cho coi, Charlie,” Emma nói. Vì quá lo lắng nên nó không còn nhìn ra có gì tức cười nữa.
Không nghĩ tới chuyện đó thì tốt hơn, Charlie nhả bụi cỏ roi ngựa ra khỏi miệng, phun bùn ra và phủi bụi đất khỏi người, rồi cả bọn bắt đầu chạy ngược lại con hẻm nhỏ vô Ngách Tối. Ra tới đó, Emma, là đứa duy nhất biết nghĩ xa, lôi ra một cái bịch ni-lông từ trong túi và đưa cho Charlie.
“Tụi mình biết làm gì nếu không có bồ?” Charlie nói, thả bụi cỏ roi ngựa đầy bùn vô trong bịch.
“Nó có cả rễ,” Emma nhận xét. “Bồ có thể đem trồng nó được đấy.”
“Mình phải coi xem nó có hiệu nghiệm không đã,” Charlie nói.
Chúng lao như bay qua Ngách Tối và ló ra ánh nắng mặt trời của Vòng Cung Ụ Xám. Sự thay đổi nhiệt độ thật sâu sắc. Sau lưng chúng là một nơi mà ánh mặt trời chưa bao giờ chạm tới. Một nơi hiu quạnh, bị bỏ quên, với những phiến đá lạnh tanh và những mảng tối u ám. Tất cả bọn trẻ đều bất giác rùng mình và ngửa mặt lên ngó mặt trời.
Thế rồi Tancred hỏi:
“Charlie này, lúc bà cô của em chạy qua cửa thì em đang nhìn cái gì thế?”
Charlie hầu như quên béng viên đá. Nó rút viên đá từ trong túi quần ra.
“Cái này này,” nó nói.
Tất cả nhìn vô viên đá xám, nhẵn nhụi nằm trong lòng bàn tay Charlie.
“Trông quen quen,” Lysander nhận xét.
“Em đảm bảo nó là của thầy Boldova,” Charlie nói. “Mấy hòn đá phát sáng trong bàn tay thầy trong cũng giống như thế này.”
“Đúng rồi,” Olivia nói. “Nhưng làm sao mà nó lại lọt vô khu vườn của bà cô đằng ấy?”
“Có người nào đó ném nó xuống từ một cửa sổ,” Charlie nói. “Mình nghĩ bà ta đã đánh cắp nó.”
Tất cả bọn đều nhất trí rằng khả năng đó có thể xảy ra. Tuy nhiên, ai đã ném viên đá đó? Và tại sao họ lại ném? Đó là một câu đố.
“Có quá nhiều câu đố,” Lysander nói. “Tụi mình hẹn gặp nhau ngày mai nha? Và bàn luận vấn đề Ollie luôn.”
“Thé còn Ông cậu của Charlie thì sao?” Emma nhắc cả bọn. “Nhỡ may cỏ roi ngựa không có tác dụng thì làm thế nào?”
“Mình sẽ làm bất cứ điều gì,” Charlie nói.
Khi chúng ra tới đường cái, năm người bạn tỏa ra, và Charlie chạy về nhà cùng với cỏ roi ngựa chiến lợi phẩm. Nó nôn nao không thể chờ nổi xem có công hiệu hay không. Trước tiên nó sẽ băm nhỏ một ít là cỏ ra và pha cho Ông cậu nó một tách trả cỏ roi ngựa. Nó phóng lẹ lên những bậc cấp nhà số 9, mở cửa ra… và tông thẳng vô nội Bone.
“Mày có cái gì đó?” Nội nói, ngó cái bịch nhựa lom lom
“Chẳng có gì cả… Èm nấy tráu cây mang từ cửa hàng của mẹ về,” Charlie nói phịa.
“Láo! Tao thừa biết mày vừa làm cái gì. Eustacia đã gọi cho tao. Mày là đồ ăn cắp!”
“Không phải.” Charlie lùi ra khỏi cánh cửa để mở.
“Đưa cái bịch đó cho tao!” Nội Bone ra lệnh.
“Không!” Charlie thét lên.
Nội Bone giơ tay giật lấy cái bịch, đúng lúc đó, một con chó vàng bự tổ chảng lao ù lên những bậc cấp và nhảy lên người bà nội của Charlie, xô bà lùi trở vô nhà.
“Hạt Đậu!” Charlie la lớn. Nó lao xuống những bậc cấp, có con Hạt Đậu bám theo sát gót, trong khi nội Bone gầm rú từ trong nhà ra:
“Đứng lại! Về đây! Chờ coi, Charlie Bone! Mày đừng hòng thoát khỏi tao.”
Charlie chạy suốt con đường, thì hồng hộc.
“Hạt Đậu, mày từ đâu tới vậy? Mày đã cứu tao!”
Và rồi nó chợt trông thấy Fidelio, đang phóng như bay về phía nó.
“Hây, Charlie!” Fidelio gọi to. “Hạt Đậu bỏ anh chạy mất. Anh nghĩ là nó quá sức muốn gặp em.”
Hai thằng bé trò chuyện giữa đường Filbert, và Fidelio giải thích là nó vừa mới tới quán Cà Phê Thú Kiểng, hy vọng sẽ gặp Charlie, ai dè lại gặp phải ông Norton Cross, và ông ấy cứ nằng nặc bắt nó phải đưa Hạt Đậu đi dạo.
“Em quên mất,” Charlie nói. “Thiệt tình em cứ quên hoài. Xin lỗi mày nhé, Hạt Đậu.” Nó vỗ vỗ cái đầu bờm xờm của con chó.
“Vậy nãy giờ em ở đâu? Có chuyện gì thế?” Fidelio hỏi.
Charlie thuật lại chuyến đi tới Ngách Tối và lý do phải bứng trộm cỏ roi ngựa của bà cô.
“Phải chi anh cũng có ở đó nhỉ,” Fidelio nói, hơi buồn vì bị gạt ra ngoài mọi việc. “Em tới nhà anh đi, trong khi đợi cho bà nội em nguội bớt.”
Charlie nghĩ ý này thật là hay.
Hạt Đậu không nghĩ như vậy, nhưng nó quá vui mừng khi gặp lại Charlie, và nó được chuẩn bị tinh thần để chịu đựng cái nơi mà nó tin là ồn áo nhất thế giới.
Bảy anh chị em của Fidelio, tất cả đều chơi những loại nhạc cụ khác nhau, và vào bất cứ thời điểm nào cũng sẽ có ít nhất năm người trong số họ đang tập luyện. Thêm vô đó còn có tiếng kèn đồng rộn rã và giọng nữ cao vút của ông bà Gunn. Tất cả hợp thành một âm thanh giống như là tác phẩm của một nhà soạn nhạc dám có những thử nghiệm táo bạo nhất.
“Tụi mình lên lầu trên cùng đi,” Fidelio hét to ngay khi chúng vừa cô trong nhà. “Ở đó yên lặng hơn.”
Hạt Đậu lê bước lên cầu thang, theo sau hai thằng bé, co rúm lại mỗi khi đi ngang qua một căn phòng mà có tiếng trống thình thình, tiếng kèn trumpet, tiếng tù và rống lên, hoặc tiếng đàn xen-lô cò cưa vọng ra.
Ở tầng trên cùng của ngôi nhà có một gác mái tối, nơi gia đình Gunn chứa những nhạc cụ hư gãy. Hai đứa ngồi an vị trên một cái thùng gỗ lớn, và Charlie kể cho Fidelio nghe cặn kẽ thêm về cách nó giải quyết vấn đề thầy phù thủy Skarpo. Nhưng nó thấy rằng nó vẫn chưa sẵn sàng kể cho thằng bạn thân nhất về cuộc hành trình bí mật ra bờ biển của mình.
Fidelio trầm tư lắng nghe câu chuyện của Charlie,rồi nói:
“Bữa nay em nên tránh xa bà nội của em ra. Tụi mình sẽ đem nhúng cái cây này vô nước cho nó khỏi chết.”
Chúng lại đi xuống lầu, ngang qua những đứa trẻ mặt đầy tàn nhang và tóc nâu loăn xoăn. Và tất cả bọn chúng đều vỗ vỗ con Hạt Đậu rồi hồ hởi chào đón Charlie như đón một người anh em bị mất tích lâu ngày. Hai đứa đi vô nhà bếp, chỗ bà Gunn đang vừa hát vừa làm món bánh mì kẹp chuối và pha nước chanh thứ thiệt.
“Trông có vẻ là một loại cỏ thần dược!” Bà thốt lên khi Charlie lôi cây cỏ roi ngựa ra khỏi bịch nhựa.
“Con có muốn bác đặt nó vô một cái châu không?” Bà nói.
‘Mẹ ơi, thật ra thì Charlie cần giấu cái cây này khỏi bà nội nó,” Fidelio nói. “Cho nên, ở trong chậu không tốt cho nó đâu. Nó không phải là cỏ dại, mà là một loại thảo mộc rất đặc biệt.”
“À há!” Bà Gunn ngâm nga. “Chúng ta vẫn có thể trồng bằng rẽ của nó. Charlie, bác sẽ tỉa vài lá cho con giấu dưới áo sơ-mi mang về. Phần còn lại thì cứ để ở đây khi nào con cần tới nó.”
Charlie trao cỏ roi ngựa cho bà Gunn và nhận hai ổ bánh mì chuối (một cho nó và một cho con Hạt Đậu), sau đó nó và Fidelio đem con chó vàng ra công viên chạy cho rộng cẳng.
Vào lúc 4 giờ, sau vài chiếc bánh mì kẹp nữa (phó mát Stilton (*), bơ đậu phộng, trứng và quả lý chua), Charlie rời Mái Ám Gia Đình Gunn và đem Hạt Đậu trở lại quán Cà Phê Thú Kiểng. Nó hứa với ông Norton là ngày hôm sau nó sẽ gọi điện lại, nhưng giờ nó lo quay về nhà trước khi mẹ nó gặp phải nội Bone đang giận dữ.
Tuy vậy, khi Charlie về tới nhà số 9 thì nội Bone đã rời nhà, và mẹ nó đang định pha cho Ông cậu Paton một tách trà.
“Để con làm cho, mẹ?” Nó nài nỉ.
Nó lôi vài búp cỏ roi ngựa từ dưới áo thun ra và đặt lên bàn.
“Con muốn Ông cậu Paton thử uống một ít cỏ này.”
Cô Bone nhíu mày:
“Con kiếm nó ở đâu vậy, Charlie?”
“Từ vườn của bà cô Eustacia,” nó thú nhận. “Đúng ra là con đã bứng trộm, và chắc sẽ có một chút rắc rối đấy.
Mẹ nó cười, vẻ lo lắng.
“Chắc chắn rồi,” cô nói. “Hy vọng là nó có tác dụng trước khi bà nội trở về.”
Rồi cô ngắt ra vài lá, để vô một cái tách, và đổ đầy nước sôi vô.
Charlie nhìn làn nước chuyện thành màu xanh lá cây tươi sáng. Trông màu nước thật nguy hiểm. Liệu thầy phù thủy Skarpo có lừa họ?
“Mẹ mong là nó lợi nhiều hơn hại,” co Bone bảo. “Coi bộ nó có đặc tính rất mạnh.”
“Đây là cơ may cuối cùng của Ông cậu Paton, mẹ à” Charlie nói liều.
Nó chờ cho trà cỏ roi ngựa nguội bớt, rồi đem tách trà lên phòng cho Ông cậu, cùng với số cỏ còn lại kẹp dưới nách.
Ông cậu Paton đang nằm trong cảnh tranh tối tranh sáng. Những tấm rèm được kéo xuống, và nhìn luồng ánh sáng heo hắt lọt vô căn phòng, không ai có thể đoán được rằng ngoài kia là một buổi chiều hè nắng gắt.
Charlie đặt tách trà lên bàn bên cạnh giường của Ông cậu và thì thào:
“Ông cậu Paton, con mang trà cho Ông cậu nè.”
Ông cậu Paton rên rỉ.
“Làm ơn nhấp một ngụm đi. Nó sẽ làm Ông cậu khỏe hơn.” Charlie nói.
Ông cậu Paton chống một cùi trỏ, nhổm người lên.
“Đây,” Charlie chìa tách trà ra.
Mắt Ông cậu Paton vẫn nhắm lơ mơ, và bàn tay ông run rẩy khi cầm lấy cái tách. Charlie nhìn trân trối khi Ông cậu nó nâng tách trà lên môi.
“Nào,” Charlie thúc giục. “Uống đi.”
“Bất cứ ai cũng sẽ nghĩ là mày đang cố sức đánh thuốc độc ta.” Ông cậu Paton phát ra một âm thanh nghẹn ứ, ngồ ngộ, mà chắc hẳn là một tiếng cười phá lên.
“Con đang cố giúp Ông cậu mà,” Charlie thì thào đầy nhiệt thành.
Ông cậu nó mở hẳn mắt ra và nhìn Charlie.
“Tốt,” ông nói, đoạn hớp một ngụm trà.
“Ợợ! Cái gì thế này?”
“Cỏ roi ngựa đó,” Charlie đáp. “Ông cậu có nhớ thầy phù thủy Skarpo nói rằng nó có thể chữa khỏi cho Ông cậu không. Con có mang theo chỗ còn lại đây này.”
Nó đặt mấy cành cỏ có cả lá lên giường Ông cậu.
“Trông như cỏ dại,” Ông cậu Paton quan sát. “Ta có thể đoán chắc là mày vừa mới ở đâu về, Charlie,” ông cười khà khà và nhấp thêm một ngụm nữa, rồi một ngụm nữa.
Charlie chờ trong khi Ông cậu uống cạn tách trà.
“Không tệ,” Ông cậu Paton lầm bầm. “Không tệ chút nào. Chúa phù hộ cho mày, Charlie.”
Ông nằm lại xuống gối và nhắm mắt lại.
Charlie đón lấy cái tách không từ tay Ông cậu và rón rén đi ra khỏi phòng.
“Có tác dụng không?” Cô Bone hỏi ngay khi Charlie trở lại nhà bếp.
“Con không biết, mẹ. Nhưng Ông cậu có vẻ dịu hơn. Phải đợi một lúc mới biết chắc được.”
Hai mẹ con bỗng nhiên nói chuyện thật khẽ và di chuyển thật nhẹ nhàng hết sức. T.V là dẹp, không bàn tới. Như thể không khí trong nhà bỗng tràn ngập những tâm linh mong manh và huyền bí, mà luồng gió nhẹ nhất hay âm thanh nhỏ nhất cũng có thể phá vỡ.
Trời sập tối dần, nhưng nội Bone vẫn chưa về nhà. Charlie tưởng tượng về một cuộc họp đang diễn ra ở Ngách Tối. Có thể họ đang bàn kế hoạch nhằm đặt nó vô đúng vị trí, một lần cuối rồi thôi. Nó liếc nhìn mẹ, đang đọc sách ở bên bàn bếp, và hy vọng rằng cho dù chuyện gì xảy ra tới với nó chăng nữa, thì cũng sẽ không làm đau lòng mẹ nó.
Thình lình, cô Bone ngước lên khỏi trang sách.
“Con có nghe thấy không?”
Charlie có nghe. Ở trên lầu, một cánh cửa đang mở ra. Ván sàn rung cót két. Một thoáng sau, có tiếng nước chảy. Bồn tám đang hứng nước.
Khi vòi nước ngừng chảy, không gian im ắng tới độ Charlie có thể nghe thấy cả nhịp tim của chính nó. Và rồi, một mùi hương lạ lặng lẽ phủ trùm khắp ngôi nhà, một mùi hương pha lẫn phép thuật.
(*) Phó mát Stilton: một loại phó mát của Anh, có màu trắng và những đường chỉ màu xanh lục, rất nặng mùi.