- 20 -
Tác giả: Jenny Nimmo
Khi Ông cậu Paton bấm chuông tiệm sách cô Ingledew thì đã 12 giờ rưỡi đêm. Tất nhiên là không ai lên tiếng. Nhưng Ông cậu Paton một lần tình cờ biết được là cô Julia Ingledew thường đi ngủ rất trễ. Ông cậu nhấn chuông lần nữa.
Cánh cửa sổ phía trên cao cọt kẹt mở ra, và cô Julia Ingledew ngó ra ngoài.
“Ai đó?” Cô giận dữ hỏi.
Rồi cô nhìn thấy Ông cậu Paton.
“Ô, ra là anh. Chọn giờ đến gọi cửa mới hay làm sao.”
“Julia…à…cô Ingledew, thực ra thì không phải tôi. Ờ, đúng hơn đó là tôi… ờ… nhưng có một người nữa muốn gặp cô.”
Ông cậu Paton bước lùi khỏi cửa, nhẹ nhàng kéo Emma lại gần mình.
“Tên cô bé là Emma Tolly.”
“Cái gì? Tôi không… Tôi không thể…”
Cửa sổ đóng ập lại. Rồi tiếng những bước chân vội khua xuống cầu thang rung kèn kẹt. Cửa lớn mở toang, cùng với một tiếng kính coong.
“Con chào cô!” Emma cất tiếng.
“Nancy? Ôi, con giống Nancy quá,” cô Ingledew khóc nấc lên. “Vô đi, vô đi con, và cả anh nữa, Paton. Ô, không thể tin nổi. Tôi chỉ… ô, trời ơi. Tôi biết nói sao đây.”
Cô Julia kéo Emma vô trong tiệm sách. Cô nhìn nó không rời mắt, cứ sờ tóc, vuốt má rồi ôm chặt lấy nó.
“Là con thật rồi. Ôi chao, Emma, chuyện này là thế nào?”
“Con đã tỉnh rồi,” Emma nói. “Charlie Bone và các bạn của bạn ấy đã giúp con, và cái ông tốt bụng này dẫn con tới đây.”
“Cám ơn anh, Paton,” cô Julia cảm động. “Mọi người lại đây dùng một tách trà hay món gì đó nào. Vụ này phải ăn mừng thôi.”
Cô dẫn họ vô căn phòng ấm cúng sau tiệm sách. Emma chăm chú ngắm các kệ đầy những cuốn sách dày cộp, tựa phủ nhũ vàng, lóng lánh trong ánh sáng mờ dịu. Cô bé hít mùi giấy cũ, mùi da thuộc, mùi mực in, và thở hắt ra một cái rõ dài, xong tuyên bố rằng đây là căn phòng tuyệt vời nhất trên đời.
“Nó sẽ là nhà của con đấy, Emma,” cô Ingledew sung sướng nói. “Nếu mọi chuyện xuôi chèo mát mái. Trừ phi con muốn ở lại với những người đã nhận nuôi con hồi trước…”
“Không, không, không!” Emma hét lên. “Con không bao giờ muốn trông thấy căn nhà khủng khiếp đó nữa.”
“Con phải kể với cô tất cả về căn nhà đó đấy,” cô Ingledew nói. “Cô muốn biết tất cả mọi thứ. Còn anh, Paton, tôi cam đoan anh còn nhiều việc phải làm với vụ này lắm. Mời ngồi, xin mời ngồi.”
Cô cuống quít chạy khắp phòng, thu dọn sách báo trên những cái ghế, vỗ cho gối phồng lên, và phủi bụi các chao đèn.
Một giờ sau, Ông cậu Paton đã trên đường về nhà. Ông huýt gió một điệu nhạc vui tươi, trong khi đèn đường chập chờn và nổ lốp bốp trên đầu. Chưa bao giờ Ông cậu vui như thế này, kể từ năm lên bảy.
Sáng sớm chủ nhật, Charlie thức dậy, thấy Ông cậu đang đứng ở cuối giường.
“Tin nóng hổi đây, Charlie,” Ông cậu Paton nói. “Ta chẳng chợp mắt được chút nào. Emma Tolly đang ở nhà cô của nó, và sắp tới tụi ta sẽ phải đảm bảo là con bé được ở đó.”
Charlie bật ngồi dậy.
“Đầu đuôi ra sao ạ?” Nó nôn nóng.
Ông cậu Paton kể cho nó nghe việc gia đình Moon đã đưa Emma vô Học viện giữa đêm khuya ra sao. Và Manfred đã khóa cửa nhốt con bé như thế nào.
“Nhưng nó thoát ra được,” Charlie tiếp.
“Ờ,” Ông cậu Paton thủng thỉnh nói. “Và hiện thời con bé sẽ không nói nó thoát ra bằng cách nào. Nhưng, Charlie à, có người đã đánh hơi được về cuộc thử nghiệm của mày, có đứa đã phản bội mày, và ta nghĩ mày nên kiếm xem đứa đó là ai.”
Charlie có một cảm giác khủng khiếp là nó biết người này. Đó không thể là Benjamin, Fidelio, hay thậm chí là Olivia được. Nó tin tưởng cả ba đứa đó bằng cả mạng sống của nó. Chỉ còn lại Billy Raven mà thôi.
“Đó là Billy Raven,” nó nói. “Con thấy tội nghiệp nó quá, Ông cậu Paton à. Nó chẳng có gia đình gì cả, theo con thì nó đang sợ hãi một điều gì đó. Ông cậu có thấy chiếc xe hơi đến đây đón nó không? Kính xe màu khói, và có người trong xe thò gậy đánh con.”
“Cái lão già,” Ông cậu Paton lầm bầm.
“Lão già nào ạ? Ý Ông cậu đó là ông cố của Manfred?”
“Ta có vài thứ muốn cho mày xem, Charlie à. Sau bữa sáng tới gặp ta nhé.”
Charlie thay đồ và chạy xuống ăn sáng. Nó ngạc nhiên khi thấy nội Bone ở trong bếp, và ngạc nhiên hơn nữa khi bà lại còn mỉm cười lúc nó cắm cúi ăn xúc xích và trứng chiên. Charlie e dè. Nó cứ nghĩ nó sẽ phải nhận một bài giáo huấn về vụ phạm luật chứ; nhưng hình như bà nội nó chuyện biết chuyện Emma Tolly đã trốn thoát.
Ngay khi bữa ăn chấm dứt, Charlie vù lên lầu và gõ cửa phòng Ông cậu.
“Vô đi, Charlie,” giọng Ông cậu Paton không có vẻ mệt mỏi và giận dữ nữa.
Charlie gần như không mở được cửa. Sách nằm la liệt dưới sàn nhà. Nó phải nhón chân lách vô giữa những khoảng trống, trong khi Ông cậu Paton chỉ đường cho nó.
“Không phải ở đó. Ừ, đúng rồi… Chú ý chỗ đó, Charlie! Ta không muốn mất chỗ ta đang ngồi đâu.”
“Có chuyện gì vậy, Ông cậu Paton?” Charlie hỏi, ngồi xuống một khoảng trống nhỏ, ngay giữa một đống báo chất ngang giường của Ông cậu.
“Có lần mày hỏi ta về Vua Đỏ, phải không Charlie? Và ta vừa khám phá ra… những khám phá quan trọng. Cô Ingledew đã giúp ta kiếm ra vài cuốn sách trong số này.”
Ông cậu chỉ những cuốn sách khổng lồ, trông như đồ cổ ở bên cạnh bàn.
“Chúng là vô giá, là kho báu thực sự. Tuy ta chưa dịch hết, nhưng cũng đã công bố một phần đáng kể rồi. Ta có ghi chú lại đây. Nghe này.”
“Sách viết bằng tiếng nước khác ạ?” Charlie hỏi.
“Nhiều thứ tiếng lắm. Giờ nghe nhé. Vua Đỏ đã đến vùng đảo này, tức đảo Anh Quốc, vào khoảng thế kỷ thứ 13. Người ta nói ông đến từ châu Phi, nhưng từ vùng nào của châu Phi thì ta không chắc. Ông được gọi là “Vua Đỏ”, vì ông mặc chiếc áo chùng đỏ tươi và có một mặt trời đỏ rực trên tấm khiên của ông. Một trong những người đồng hành với ông là một hiệp sĩ đến từ Toledo, thành phố của những thanh gươm báu. Vua Đỏ lấy con gái của hiệp sĩ, nhưng đáng buồn là bà đã qua đời khi đứa con thứ mười của họ chào đời.”
“Vua Đỏ rời lâu đài của mình và đi chu du khắp vùng, để thương khóc vợ. Có nhiều truyền thuyết về những việc làm kỳ lạ của ông trong khoảng thời gian này: những cơn bão do ông gây ra, tài chữa bệnh của ông, tài tiên đoán chính xác những sự kiện tương lại. Ở đây ghi…”
Ông cậu Paton ôm cuốn sách trải lên đùi và đọc,
“… thế này: ‘Vua Đỏ, bằng con mắt đen của mình, có thể tước quyền năng của bất kỳ kẻ thù nào’ . Nói cách khác, ông có thể thôi miên.”
Ông cậu Paton đặt cuốn sách xuống.
“Ta có thể trích dẫn hằng trăm sự kiện về những vụ việc bí ẩn, nhưng tóm lại thì, Vua Đỏ là một phù thủy.”
“Và tất cả những người có phép thuật như chúng ta là do ít nhiều được thừa hưởng từ ông?” Charlie hỏi.
“Đúng. Nhưng chuyện đến đó chưa hết.”
Ông cậu Paton chồm người ra trước, một tay chống cằm và ngó Charlie đăm đăm.
“Vị vua này đã vắng mặt khỏi lâu đài suốt 15 năm. Ông không đoái hoài đến những đứa con. Chúng đã thừa hưởng một số, chứ không phải toàn bộ, những phép thuật của ông, theo nhiều cách khác nhau. Khi Vua Đỏ trở về, ông nhận ra các con mình đang gây chiến.”
“Gây chiến?”
“Gây chiến với những láng giềng. Bọn chúng dùng phép thuật của mình để lừa gạt, lấy cắp, cướp bóc, và giết chóc. Dân chúng gần xa vô cùng khiếp sợ bọn chúng.”
“Tất cả những người con của ông đều xấu hết à?” Charlie thắc mắc.
“Không! Chỉ năm kẻ trong số họ có dã tâm giành quyền lực. Những người còn lại rời khỏi lâu đài – họ biến mất vô các vùng quê. Thậm chí có người còn dong thuyền buồm tới những miền đất lạ, hy vọng thoat khỏi những người anh em khủng khiếp của mình. Chính họ cũng ngần ngại sử dụng phép thuật mà họ đã được ban cho. Nhưng họ không thể chạy trốn khỏi chuyện đó, Charlie à, bởi vì một số con cái của họ bỗng trở nên hung ác; mà ở đời, thường thì con cái của những kẻ ác lại trở thành người tốt. Chính vì như thế mà các gia đình cứ mãi mãi bị buộc chặt vô nhau, không bao giờ rũ bỏ được quá khứ của mình; và điều đó vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay. Ngay khi một gia đình nghĩ là mình đã rửa sạch mọi tội lỗi, thì bất thình lình, họ lại sinh ra một kẻ xấu xa, dùng phép thuật để cướp phá.”
Ông cậu Paton lắc đầu.
“Biết bao cảnh huynh đệ tương tàn, biết bao sự việc đau đầu, và biết bao cảnh khốn cùng.”
“Con thấy mừng vì mình là con một,” Charlie nói.
Ông cậu Paton cười khà khà.
“Nếu chúng ta liên kết lại, thì cuối cùng chúng ta sẽ chiến thắng, Charlie!”
Rồi Ông cậu nhướn người, ngồi lại vô bàn làm việc của mình.
“Chu cha!” Charlie đứng dậy và bắt đầu cuộc hành nhiêu khê băng qua sàng nhà. Ra đến cửa, nó quay lại và nói:
“Chuyện gì đã xảy ra với Vua Đỏ vậy, Ông cậu Paton? Bộ ông ấy không dàn xếp nổi mọi việc sao, vì xem ra ông ấy có tất cả mọi quyền năng mà?”
“Ông ấy đã quá trù trừ,” Ông cậu Paton nghiệm nghị nói. “Đáng lý ra ông ấy phải giết những đứa con ác ôn đi, nhưng ông ấy lại không làm được. Cùng với ba con báo, Vua Đỏ rời khỏi lâu đài và không bao giờ người ta thấy ông ấy nữa. Mặc dù có nhiều truyền thuyết cho thấy ông ấy đang lảng vảng vô hình ở các vùng quê khác nhau.”
“Ông cậu chưa bao giờ nói gì về những con báo cả,” Charlie nói.
“Chưa à? Ồ. Ta quên mất.”
Ông cậu Paton nở một nụ cười bí hiểm với Charlie,
“Chiều nay ta sẽ đến tiệm Ingledew để giúp Julia lo liệu việc giữ bé Emma lại.”
“Ông cậu có nghĩ là được không? Emma có thể ở lại đó mãi mãi không?’
“Chúng ta sẽ làm cho phải được. gia đình Bloor không muốn cả thế giới họ đã và đang làm những điều đồi bại gì. Họ sẽ từ bỏ Emma. Còn với gia đình Moon, họ chẳng có vẻ gì là vui thích vai trò làm cha mẹ cả.”
Ông cậu Paton trông rất tự tin. Đúng ra, trông Ông cậu như một người hoàn toàn mới.
Charlie để Ông cậu ở lại với những cuốn sách và băng qua đường tới nhà Benjamin. Thật ngạc nhiên, không có ai ở nhà số 2, cả con Hạt Đậu cũng không. Dần dần Charlie nhận ra rằng gia đình Brown đã ra ngoài cả một ngày. Tất cả mọi người. Trước đây điều này chưa hề xảy ra. Benjamin luôn luôn ở nhà, bất cứ khi nào Charlie muốn gặp nó.
Charlie đi thơ thẩn ra công viên, không chừng Benjamin dẫn chó đi dạo lần đầu tiên kể từ khi bị tấn công cũng nên, nhưng chẳng thấy bóng dáng người và chó đâu cả.
Khi về nhà, nó thấy ngoại Maisie đang ngồi trên chiếc ghế bập bênh kế bên lò sưởi.
“Ngoại cảm thấy không khỏe, Charlie à,” ngoại Maisie nói. “Trưa nay ngoại sẽ không ăn trưa, mà chỉ ngả lưng một chút thôi.”
Chưa bao giờ nghe ngoại nói như vậy. Ngoại Maisie không bao giờ bệnh cả. Charlie nhìn bà ngoại khó nhọc lê bước khỏi bếp. Chuyện gì xảy ra với bà vậy?
Ăn trưa xong, Charlie và mẹ trò chuyện rất lâu về Emma Tolly.
“Nghe như chuyện thần tiên vậy,” cô Amy thở phàn. “Mẹ hy vọng câu chuyện sẽ có một kết thúc có hậu.”
“Emma không phải là con nhà Moon,” Charlie gay gắt. “Emma ghét họ. Nó là cháu cô Ingledew mà.”
“Nhưng họ có thể chứng minh được điều đó không?” Cô Amy lắc đầu. “Ai mà tin chuyện thôi miên, với lại… hiệp sĩ sáng chói, chuông reo… và lời nhắn của tiến sĩ Tolly cơ chứ.”
“Không cần. Ông cậu Paton bảo gia đình Bloor không muốn người khác biết họ đã làm những gì, vì thế họ sẽ bỏ cuộc, không tranh đấu gì hết.”
“Mẹ không tin đâu,” cô Amy nói. “Sẽ có người phải trả giá vì những việc đã xảy ra. Cẩn thận đấy. Charlie”
“Mẹ đừng lo cho con, mẹ ạ.”
Sau bữa trưa, mẹ Charlie phải đi làm ở tiệm rau quả, để đóng gói hàng như cô đã hứa hẹn với tiệm.
“Mẹ đi không lâu đâu, Charlie,” mẹ nó dịu dàng. “Nếu con cần gì thì đã có ngoại Maisie ở trên lầu.”
Căn nhà thật tĩnh lặng. Ông cậu Paton đã ra ngoài. Ngó vô phòng ngoại Maisie, Charlie thấy ngoại đang ngủ mê mệt. Nó nhẹ lướt ngang qua phòng nội Bone. Tất nhiên nó cũng không muốn làm bà thức dậy. Nó chạy qua nhà số 12 và thấy gia đình Brown vẫn chưa về. Bầu không khí yên ắng và lạnh buốt, và khi Charlie băng qua đường trở về thì những bông tuyết li ti rớt xuống đậu trên đầu nó.
Và rồi nó trông thấy họ: ba bóng người đi rầm rộ trên phố. Các bà cô nhà Yewbeam vai chen vai, nghênh ngang không chịu chừa lối đi, và để tránh họ, người ta phải lách xuống lòng đường. Charlie định chạy ù vô công viên trước khi họ trông thấy nó, nhưng quá trễ, họ đã tăng tốc rồi.
Họ gặp nhau bên ngoài cửa nhà số 9.
“Charlie, tiện quá đi mất,” bà cô Lucretia xởi lởi. “Chúng ta muốn chuyện phiếm đôi chút.”
“Chuyện riêng,” bà cô Eustacia thêm vô.
“Ồ,” Charlie ái ngại. Khi leo lên các bậc thang, nó nghe tiếng mấy bà cô thì thào sau lưng nó.
Ba bà bước vô hành lang và vắt những chiếc áo khoác ẩm lên cánh tay Charlie.
“Tuyết gớm ghiếc,” bà cô Venetia nhận xét khi búng búng những móng tay dài lên tóc Charlie.
“Vô đây,” nội Bone gọi với ra từ phòng sau. “Lẹ lên, Charlie. Bọn ta không có cả ngày đâu.”
“Con biết,” Charlie nói giọng móc máy, “vì bà Lucretia là một giám thị và bà Eustacia là một bảo mẫu mà.”
Hai bà cô thảy cho nó những cái nhìn kinh tởm, nhưng không nói gì. Một ý chợt nảy ra trong đầu Charlie, rằng nó có thể dễ dàng chạy ào lên lầu, và khóa cửa phòng lại, nhưng nó quyết định nên nhận lấy cái “chuyện phiếm” phiền phức này thì hơn. Thế là, nó làm đúng bổn phận, treo những chiếc áo khoác lông chuột chũi lên, và ngồi vô bàn, đối diện với bà cô nhà Yewbeam.
“Ừm, Charlie này,” bà cô Lucretia mở lời. “Gần đây mày bận rộn lắm phải không?”
“Chõ mũi vô những chỗ mày không nên chõ vô,” bà cô Eustacia thêm.
“Ta hy vọng mày sẽ không biến trò đó thành một thói quen,” nội Bone tiếp.
“Em chắc nó sẽ không thể đâu chị,” bà cô Venetia thỏ thẻ với một nụ cười trông hết sức bệnh.
Bà ta khoanh tay lại, tì lên bàn, và thò cần cổ dài về phía Charlie.
“Con chỉ định giúp một người bạn thôi, phải không, Charlie? Chúng ta biết tất cả về Emma Tolly. Và chúng ta biết có thể tìm Mười Hai Tiếng Chuông Của Tolly ở đâu. Cái thùng đó là của giáo sư Bloor, con biết đó.”
“Không phải,” Charlie phản đối. “Nó là của cô Ingledew và các bà sẽ không lấy được nó đâu.”
“Ối trời ơi!” Bà cô Venetia thình lình giơ tay, giả bộ như khiếp sợ. “Một thằng bé dữ tợn. Mười Hai Tiếng Chuông Của Tolly muốn ở đâu thì ở. Chúng ta không quan tâm đến nó nữa, đúng không các bà?”
“Chẳng quan tâm tí nào,” họ đồng thanh.
Charlie không tin họ. Mười Hai Tiếng Chuông Của Tolly có vai trò đánh thức Emma, và gần như không có lý gì để họ giữ cái thùng lại. Nhưng trong thâm tâm, Charlie biết có một lý do. Còn một người nữa cần được đánh thức.
Dột nhiên nó buột miệng:
“Ba con chưa chết, các bà biết mà.”
Mặt nội Bone trắng bệch.
“Mày nói gì vậy?” Bà thét lên. “Tất nhiên ba mày chết rồi.”
“Không phải. Ba con chưa chết. Một ngày nào đó con sẽ tìm thấy ba.”
“Đấy là những gì Ông cậu mày mớm cho mày đó phải không?” Bà cô Lucretia gặng hỏi. “Paton bị điên, mày biết đấy, điên thật sự. Gã chẳng biết mình đang nói gì hết. Mày cấm không được liên hệ với gã nữa.”
“Hứa đi,” bà cô Eustacia gằn giọng.
“Không,” Charlie cương quyết.
Nội Bone giộng nắm tay xuống bàn. Theo sau đó là những giây im lặng chết người. Charlie nghĩ đây là lúc nó nên đi. Nó đẩy ghế ra sau và đứng dậy.
“Chờ đó!” Bà cô Venetia hét lên. “Ta có một món quà cho con, Charlie.”
Bà ta cúi xuống và lôi một thứ gì đó khỏi cái túi to bên hông.
“Đây!”
Một gói giấy màu nâu trượt trên mặt bàn bóng láng. Charlie thao láo nhìn cái gói.
“Cái gì vậy?” Nó hỏi.
“Mở ra đi!” Bà cô Venetia nháy mắt với nó.
Charlie nuốt nước miếng. Chắc là thứ gì đó gớm ghiếc đây. Nó kéo dây và gói giấy bung ra, để lộ một chiếc áo chùng xanh da trời được gấp lại.
“Một chiếc áo chùng,” Charlie nói. “Nhưng con đã có một cái rồi.”
“Nó rách thê thảm,” nội Bone nói. “Giáo sư Bloor nói mày phải có một cái mới, và bà cô Venetia đã tử tế may cho mày đấy.”
“Cô ấy khéo tay lắm,” bà cô Lucretia khen.
Bà cô Venetia cười khoái chí đến nỗi Charlie thấy cả miếng son môi dính trên răng bà.
“Con cám ơn,” nó ngập ngừng.
“Không có chi,” bà cô Venetia ra hiệu cho nó đi. “Bây giờ con đi được rồi đó, Charlie.”
Charlie đi khỏi, tay nắm chặt chiếc áo chùng mới. Nó chạy lên lầu và thấy chiếc áo chùng màu xanh cũ nát của nó đã biến khỏi tủ âm tường. Nó dòm kỹ món quà của bà cô Venetia, nhưng tĩnh không thấy có gì bất ổn hay khác thường cả.
Charlie nói với mẹ về chiếc áo chùng khi mẹ giúp nó thu xếp đồ đạc.
“Bà cô Venetia thật tử tế,” mẹ nó thận trọng nói, “nhưng như thế chẳng giống bà ấy chút nào. Mẹ chưa từng thấy bà ấy tặng quà cho ai bao giờ, kể cả dịp Giáng sinh.”
“Có lẽ họ không muốn xấu hổ vì con,” Charlie nói, “vì bà Lucretia là bảo mẫu trong Học viện mà.”
“Chắc là vậy,” mẹ nó gật gù. “Yewbeam là một dòng họ kiêu hãnh.”
Nhưng Charlie vẫn không thể không thắc mắc.