Chương 11
Tác giả: Jenny Nimmo
Trên đường trở về nhà, Charlie ghé vô tiệm sách. Emma ngồi sau quầy coi tiệm, trong khi dì của nó lo bao sách ở nhà sau.
“Nói với cô Ingledew là Ông cậu của mình đã về nhà rồi,” Charlie nói. “Nhưng Ông cậu không được khỏe.”
“Có chuyện gì với Ông cậu vậy?” Emma hỏi.
“Khó giải thích lắm. Nhưng rất nặng, Emma à. Mình sợ là Ông cậu sẽ không bao giờ bình phục… không bao giờ nữa.”
“Tại sao vậy?” Emma hỏi, nhíu mày lo âu. “Chuyện xảy ra như thế nào? Có phải do một con bọ bí hiểm hay gì gì đó không?”
“Không thể nói được. Mình đi đây. Trước lúc mình ghé đây cũng có chút rắc rối.”
Charlie biến lẹ, để lại Emma chẳng hiểu chuyện gì.
Một bầu không khí im lặng không yên ả chút nào ở bên trong căn nhà số 9.
Billy rõ ràng là đã bị điệu cổ về Học viện Bloor. Không có tăm hơi gì của nội Bone. Đã tới giờ ăn trưa nên Charlie tự lấy đồ ăn trong tủ lạnh ra. Nó nhận tất cả phó mát, dưa leo, xúc xích mặn, và bở đâu phộng vô giữa hai miếng bánh mì dày. Nó vừa tính ngồi xuống bàn ăn thì chợt nhớ ra Ông cậu, bèn làm thêm một ổ bánh mì kẹp khác, y hệt, rồi để cả hai lên một cái khay cùng với một ly nước.
“Vô đi! Vô đi!”
Ông cậu Paton bảo, ngay tức khắc, khi Charlie vừa gõ cửa.
“Lạy trời, đồ tiếp tế!”
Ông cậu Paton kêu lên khi trông thấy cái khay. Ông nhấc mình lên khỏi gối và vỗ vỗ xuống giường.
Charlie đặt cái khay trước mặt Ông cậu. Nó rất vui khi thấy ông đã thay bộ đồ ngủ, như vậy có nghĩa là ông đã xoay xở mà tắm được rồi, mặc dù vẫn còn một cái mùi kỳ kỳ ở trong phòng.
“Mùi vớ cháy đấy!” Ông cậu Paton bảo khi nhận thấy mũi Charlie kín đáo chun chun lại.
“Ông cậu à, chuyện gì xảy ra vậy?” Charlie hỏi. “Bây giờ Ông cậu có thể kể được chưa?”
Ông cậu Paton hớp một ngụm nước dài, súc miệng ầm ĩ và nói:
“Ừm, mày sẽ cần phải biết đôi chút về quá khứ của gia đình ta, Charlie. Tất cả mọi sự bắt đầu khi ta bảy tuổi. Mày con nhớ là ta đã phát hiện mình có phép thuật đúng ngày sinh nhật thứ bảy của ta chứ?”
Charlie gật đầu, nhắc lại:
“Đèn điện nổ tung, tất cả bọn trẻ chạy về nhà, Ông cậu đã ăn tất cả hết cả kem của chúng và bị bệnh.”
“Nhớ tốt đấy,” Ông cậu Paton bình phẩm. “Ừm, ngay sau đó tất cả cả nhà ta đi thăm bà cô, bà Yolanda, ở Lâu đài Yewbeam.”
Charlie chờ, nín thở. Trong khi Ông cậu mát xa cái cổ họng của mình.
“Mẹ của ta là người Pháp,” Ông cậu Paton tiếp, “một phụ nữ rất đẹp. Bà là diễn viên, nhưng sau khi cưới cha ta, bà nhận ra mình rất yêu con nít. Cho nên, bà sinh năm người con và giã từ sân khấu. Bà rất tự hào về tài phép của ta. Bên dòng họ của bà cũng có một vài người ‘có tài lạ’.”
“Bà kể cho Yolanda nghe về ta ngay buổi tối đầu tiên gia đình ta tới lâu đài. Chúng ta đang ăn tối trong một căn phòng dài và tối ở tầng trệt. Tất cả có tám người của gia đình ta, kể luôn Lyell, cha của mày, lúc đó hai tuổi. Ông nội của mày là phi công, bị chết khi máy bay của ông đâm xuống sa mạc. Hừ, mẹ của ta lúc đó hân hoan nói: ‘Đoán được gì chưa, bà Yolanda, Paton có phép thuật đó.’ Ta còn nhớ như in vẻ mặt bà Yolanda lúc đó. Cái cách con mắt của bà ấy sáng lên.”
Ông cậu Paton cắn một miếng bánh mì.
“Và rồi chị của ta, Venetia, lúc đó 12 tuổi: ‘Giống như con, giống như chị Eustacia, chị ấy có tài tiên đoán. Nhưng chị Lucretia và chị Grizelda không có phép thuật, tội nghiệp.’ Hai người chị lớn rất buồn rầu, như mày có thể tưởng tượng được, nhưng Grizelda bảo: ‘Biết đâu đấy? Bé Lyell một ngày nào đó sẽ có phép thuật.’”
“Bà Yolanda ngó hau háu bọn ta khắp lượt. Trông bà ta như một con thú đói săn mồi.”
Ông cậu Paton dừng lại và cắn thêm một miếng bánh mì nữa.
“Ừm, cái này ngon khác thường,” ông khen. “Mày kẹp gì trong đó vậy?”
“Con quên rồi. Ông cậu kể tiếp đi. Ông cậu Paton,” Charlie nài nỉ.
Trông Ông cậu đột nhiên căng thẳng hẳn lên.
“Lâu đài Yewbeam là một nơi khủng khiếp. Nó được xây từ một tảng đá mà hình như có sức thu hút màn đêm. Nó xám xìn xịt, cả bên trong lẫn bên ngoài. Và đến bây giờ nó vẫn chưa bắc điện. Những cầu thang hẹp, dốc và tối om. Đúng ngày thứ hai thì mẹ ta bị té và gãy cổ.”
Ông cậu Paton nhăn mặt đau đớn và lại xoa bóp cái cổ mình.
“Tất cả bọn ta đang ở trong vườn, nếu mày có thể gọi đó là vườn. Nó chỉ là một cánh đồng cỏ dại mọc cao mấp mé những bức tường của lâu đài. Ta nghe tiếng mẹ ta thét lên, nhưng cha ta là người tới chỗ bà trước tiên… Ta theo sau ông chỉ hai bước. Bà nằm sóng sượt dưới chân một cầu thang rộng… dẫn ra khỏi tiền sảnh. Ta nghe bà trăn trối: ‘Đừng để cho mụ ta…’ và rồi bà qua đời.”
Ông cậu Paton rút chiếc khăn tay ở dưới gối ra và hỉ mũi inh ỏi.
“Bà Yolanda đã xô bà cố té, đúng không?” Charlie nói nghiêm trang.
Ông cậu Paton thở dài thật lớn.
“Ta chắc chắn như vậy. Nhưng ai có thể chứng minh được nào? Ngoài ra, các bà chị của ta đã bị mụ yểm bùa rồi. Họ sẽ không nghe được một lời nào chống lại mụ ta cả. Đúng ra, họ thậm chí không rời khỏi lâu đàu sau khi mẹ ta mất. Mụ Yolanda cũng cố giữ ta. Mụ van nài, giãy giụa, la hét và ném đồ đạc. Mụ biến thành con chó điên, con dơi, và con rắn… mụ ta là kẻ biến hình mà, mày biết đấy. Mụ cố thôi miên cha ta, nhưng ông đã trốn thoát được cùng với ta. Kể từ đó ông không bao giờ rời mắt khỏi ta, cho đến khi ông chắc chắn là ta có thể tự lo được cho mình.”
“Ông cậu đã đến Lâu đài Yewbeam để ngăn mụ Yolanda đừng đến đây, phải không?” Charlie nói.
Ông cậu Paton gật đầu.
“Ta nghe các bà chị ta bàn luận vào đêm trước khi ta đi. Vì vậy ta quyết định tới thăm mụ Yolanda một chuyến. Nhưng ta đã quá trễ. Mụ không có ở đó…”
“Ông cậu Paton,” Charlie ngắt ngang. “Mụ ta đang ở đây.”
“Hả?”
Ông cậu Paton thả mình chìm xuống đống gối.
“Ta đã sợ thế mà. Vậy, mụ ta…? Mụ ta mang hình dạng gì?”
“Một nữ sinh, rất đẹp. Nhưng mắt cứ đổi màu liên tục, như là chúng cũng không nhớ chúng phải mang màu gì ấy. Ngay từ đầu con đã nghi là có gì đó không xong. Bà ấy đang sống với mấy bà cô ở Ngách Tối. Nhưng mà Ông cậu à, vậy thì lần này tại sao bà ta lại tới đây?”
“Ta tình cờ nghe lỏm được cuộc chuyện trò của mấy bà chị của ta,” Ông cậu Paton nói. “Ta đang ở trong nhà bếp dùng bữa giữa khuya thì họ tới. Ta không ưa mấy chuyện tào lao của họ, nên ta lánh vô kho chứa thực phẩm. Không được đàng hoàng cho lắm, nhưng hên là họ chỉ uống có một tách trà. Họ bàn tán chuyện mụ Yolanda rồi sau đó đi khỏi, vô phòng khách. Từ những gì ta ráp lại được, thì mụ Yolanda được thỉnh đến để giúp đỡ lão Ezekiel già… trong kế hoạch tàng hình gian tà gì đó.”
Charlie há hốc miệng.
“Con trăn!” Nó bật kêu lên. “Lão Ezekiel có một con trăn màu xanh da trời, nó có thể làm cho mọi thứ thành vô hình. Lão ta đã làm như vậy với một thằng bé tên là Ollie Sparks.”
“Chà chà, coi bộ hiện thời thì đó mới chỉ là vé-một-chiều. Mày có đi mà không có về, mày hiểu ý ta chớ? Nhưng lão Ezekiel lại muốn hai chiều kìa, lẽ thường tình mà. Khổ một cái, lão chỉ là một phù thủy kém tài nên lão không thể làm được điều đó.”
“Vậy là lão thí nghiệm trên Ollie,” Charlie lẩm bẩm. “Thằng bé bị nhốt trên gác mái.”
“Ui trời, rồi cái gì tiếp theo đây?” Ông cậu Paton thở dài.
Charlie vẫn nôn nóng muốn biết về chuyến đi thăm lâu đài của ic.
“Ông cậu à, chuyện gì xảy ra vậy?” Nó nói nhẹ nhàng. “Tại sao Ông cậu bị mất phép thuật?”
Ông cậu Paton nhắm mắt lại, gương mặt như đóng chặt lại, vô hồn và đăm chiêu. Tuy nhiên, hình như ông không thể nào nói nổi về biến cố ông vừa trải qua. Quá kinh khủng, không thể kể ra.
Chuông cửa reng.
Nội Bone chắc hẳn là vẫn ở nhà từ nãy giờ, bởi vì cửa trước mở và Charlie nghe thấy tiếng bà.
“Không ai tiếp mấy người đâu. Làm ơn đi đi.”
Charlie mở cửa sổ ra và ngó xuống những bậc cấp.
“Cô Ingledew,” nó bảo với Ông cậu Paton.
“Và Emma. Chào Emma!” Nó gọi.
“Julia?” Ông cậu Paton mở bừng mắt. “Vậy là cô ấy muốn thăm ta!”
“Chào!” Emma đáp lại, hướng lên Charlie mà vẫy vẫy một bó hoa hồng.
Cô Ingledew ngó lên:
“Chào cháu, Charlie, cô tới để…”
Nội Bone lập tức chặn lời cô, bà ta bước ra khỏi nhà và hét lên:
“Ta bảo mấy người đi đi.”
“Nhưng tôi đến thăm Paton Yewbeam. Tôi nghe nói anh ấy không được khỏe.”
Cô Ingledew giơ lên một túi giấy màu vàng:
“Chúng tôi đã mua hoa và chuối, chúng rất tốt cho…”
“Bọn ta có chuối rồi!” Nội Bone quạc lại, tiến về những vị khách không được đón tiếp.
“Paton bệnh nặng lắm, không thể tiếp khách được.”
“Không phải!” Charlie thét lên.
“Im ngay!”
Nội Bone ngước lên quát Charlie, trong khi cô Ingledew và Emma bị ép phải lùi khỏi những bậc cấp, lột xuống vỉa hè.
“Thiệt tình, thưa bà Bone,” cô Julia khẩn khoản. “Tôi bảo đảm không làm hại Paton đâu. Tôi lo lắng cho anh ấy. Bà không hiểu sao?”
Mặt Ông cậu Paton chuyển trắng sang hồng, rồi lại trở về trắng khi ông cố gắng ra khỏi giường.
“Julia,” ông nói, gần như không thở nổi. “Đừng để cô ấy đi, Charlie!”
“Đừng có theo đuổi em trai ta,” nội Bone đi theo cô Ingledew xuống những bậc cấp, “Ở đây không ai muốn tiếp mấy người đâu.”
“Tôi không theo đuổi ông ấy. Trong đời mình, tôi chưa bao giờ theo đuổi ai cả.”
Rõ ràng là bị xúc phạm bởi lời bóng gió của nội Bone, cô Ingledew quay ngoắt mái đầu màu hạt dẻ sáng đi, và kiêu hãnh bước khỏi cong đường. Emma rối rít vẫy Charlie rồi chạy theo cô.
“Cô ấy đi rồi à?” Ông cậu Paton rền rĩ.
“Con e là vậy,” Charlie bảo. “Con nghĩ nội Bone đã xúc phạm cô ấy.”
Ông cậu Paton gục đầu vô hai bàn tay:
“Ta mất hết rồi,” ông rên rỉ. “Có lẽ ta cũng sẽ chết.”
“Ông cậu đừng nói thế!”
Charlie không thể chịu nổi khi thấy Ông cậu vốn hùng dũng của nó giờ rơi vô tình trạng tội nghiệp như thế.
“Để con đi và cố kéo cô ấy trở lại,” nó nói.
Nội Bone gặp Charlie ở trong hành lang.
“Mày đi đâu đó, hả?” Bà sấn sổ hỏi.
“Ra ngoài,” Charlie đáp.
“Ra ngoài cái gì mà ra. Mày còn phải học bài. Mày có nhiều bài kiểm tra vào thứ Hai. Nhiều lắm. Lên lầu và lấy sách vở ra. Ngay lập tức!”
Charlie suýt nổ tung vì phẫn nộ.
“Sao bà có thể làm như thế với Ông cậu Paton?” Nó chất vấn. “Ông cậu thiệt tình muốn gặp cô Ingledew mà.”
“Người phụ nữ đó không tốt cho hắn,” nội Bone bảo. “Này,nếu mày không đi học bài ngay bây giờ, tao sẽ bảo họ cấm túc mày thứ Bảy tới. Thật ra thì, sau hành động tồi bại của mày sáng nay, tao sẽ ngạc nhiên nếu mày không bị cấm túc.”
“Con… bà thật là…”
Charlie khó nhọc kiềm chế mình, và vội chạy trở lên phòng nó ngay, trước khi lỡ nói gì đó vô lễ với bà nội để đến nỗi sẽ bị cấm túc suốt những năm tới.
Liền mấy tiếng đồng hồ, Charlie đánh vật với những ngày tháng năm lịch sử, với những địa danh, với ngữ pháp tiếng Anh, và những động từ tiếng Pháp. Nó bắt đầu nhức đầu và chợt nhận ra là mình đang quên bài học nhiều hơn là nhớ chúng. Thỉnh thoảng, nó ngó ra cửa sổ, ao ước thấy Benjamin và Hạt Đậu đang chạy băng qua đường. Nhưng chẳng có gương mặt thân ái nào xuất hiện, cũng chẳng có sự kiện thú vị gì diễn ra, để phá vỡ nỗi buồn tẻ trong buổi chiều khủng khiếp này của Charlie… Cho đến khi nó ngó thấy cây gậy phép.
Cây gậy nằm dưới gầm giường, hứng một tia nắng mặt trời nhợt nhạt. Charlie lượm nó lên. Cây gậy mang lại cảm giác ấm áp và mượi mà. Thật dễ chịu khi chạm vô nó, giống như được thưởng thức một món ăn cự kỳ ngon hoặc nằm trên một chiếc giường nệm lông chim thật êm.
Charlie chợt nảy ra một ý. Thầy phù thủy Skarpo đã ăn cắp cây gậy phép từ một thầy pháp xứ Wales, cho nên, vội vã đi lấy cuồn từ điển xứ Walws mà Ông cậu Paton đã đưa cho nó, Charlie tra từ “hãy giúp tôi”. Nó kiếm chữ “helpu fi” và nhớ ra: “u” được đọc thành “I” và “f” đọc thành “v” .
Charlie ngồi xuống bên bàn, đặt cây gậy phép trên đùi, chăm chú dò một cột động từ tiếng Pháp và những từ tiếng Anh tương đương.
“Hãy giúp tôi!” Nó lẩm bẩm. “Hãy giúp tôi! Hãy giúp tôi!”
Mất một hồi, chẳng có gì xảy ra cả, và rồi Charlie có một cảm giác rất kỳ dị. Cứ như từ “Ngó đi ” được thì thầm thẳng vô não nó vậy. Nó siết chặt cây gậy phép trong tay và ngó những từ trước mặt. Vài phút sau, nó tự kiểm tra lại. Diệu kỳ làm sao, nó đã học được tất cả các động từ và nghĩa của chúng.
Charlie sung sướng đến nỗi nó lao vô phòng Ông cậu Paton mà không gõ cửa.
Mắt Ông cậu Paton nhắm nghiền, nhưng mặt ông méo xệch đi vì một vệt nhíu mày sâu kinh khủng. Charlie đã quên bẵng chuyến viếng thăm không may của cô Ingledew.
“Xin lỗi, con quấy rầy Ông cậu,” Charlie khẽ nói bằng giọng cấp bách. “Nhưng có một điều diệu kỳ vửa xảy ra.”
“Cái gì?” Ông cậu Paton thều thào.
“Ông cậu biết đấy, Ông cậu mang theo cây gậy phép khi đi tới Lâu đài Yewbeam và nó bị cái gì đó thiêu cháy. Nhưng rồi không hiểu sao đó nó lại trở về lại bình thường, giờ thì tốt hệt như mới vậy. Và con thử dùng nó để học bài tiếng Pháp thì… tuyệt vời… nó có tác dụng!”
Mắt Ông cậu Paton mở ra. Ông ngó Charlie vẻ chăm chú, rồi ánh mắt ông hướng sang cây gậy phép.
“Kỳ lạ,” ông lẩm bẩm. “Kỳ lạ quá.”
“Con biết nói như thế này thì nghe ngớ ngẩn, nhưng Ông cậu có nghĩ rằng cây gậy này đúng là của con không?” Charlie hỏi.
“Sao lại thế được, hả nhóc? Mày lấy nó từ bức tranh cổ kia mà.”
“Dạ, nhưng mà…”
Charlie miễn cưỡng kể chuyện Skarpo đã từ chối nhận lại cây gậy phép. Ông cậu Paton đã cảnh báo nó, hơn một lần, rằng không được đi vô bức tranh nữa.
Ông cậu Paton giờ đang ngó trân trối vô đôi bàn chân Charlie, và Charlie có cảm giác khủng khiếp là nó biết chính xác Ông cậu đang ngó cái gì. Nó đã quên đóng cửa phòng, và có cái gì đó vừa lẻn vô. Đúng rồi, nó đây này, ngay bên cạnh bàn chân trái của Charlie. Và no bắt đầu chít lên.
“Con chuột này thật độc đáo,” Ông cậu Paton nhận xét. “Ta luôn biết là trong nhà có chuột, nhưng con này trông già khác thường. Ta không biết tại sao.”
“Đúng là nó rất già,” Charlie thú nhận.
Ông cậu Paton ngó thằng cháu đầy nghi ngờ.
“Nói rõ coi.”
Charlie giải thích, theo cách tốt nhất nó có thể, chuyện nó đã bước một bước, chỉ một phần mười bước, vô bức tranh Skarpo ntm.
“Con làm điều đó vì Ông cậu à,” nó phân bua. “Con nghĩ chắc là ông ấy sẽ có thứ gì đó cứu được Ông cậu. Lúc đó ông ấy nói cây gậy phép thuộc về con. Ông ấy muốn gặp Ông cậu, nhưng con không cho ông ấy gặp. Như Ông cậu thấy đấy, con đã ra được rồi, nhưng con chuột ở trong túi ông ấy cũng theo ra cùng với con.”
“Cái gì?” Đầu Ông cậu Paton rớt tòm xuống gối. “Thế thì thầy phù thủy cũng ra luôn rồi!”
“Có lẽ không đâu,” Charlie nói, đầy hy vọng. “Ý con là nếu ông ấy có ra, thì đến giờ này chắc chắn ông ấy đã phá hoại cái gì rồi, phải không?”
“Nếu con chuột ra được thì lão ấy cũng ra rồi, đồ ngu,” Ông cậu Paton sặng giọng quát.
“Nhưng ông ấy vẫn còn ở trong bức tranh ma.”
“Đó là hình ảnh của lão. Nguyên khi của lão, con người sống và thở của lão, cùng với tất cả những tà thuật, tính tàn ác, với thói thích gây phế tật cho người khác của lão đã RA NGOÀI!”
Sau một hồi nhũn nhặn im lặng, Charlie nói:
“Vậy thì, mình phải làm gì với con chuột này?”
Con chuột chạy xuống gầm giường.
“Nó không thành vấn đề,” Ông cậu Paton rên rỉ. “Mày đã làm gì thế này, hả Charlie? Ta tưởng cuộc đời không thể tệ hơn được nữa chứ. Thế mà bây giờ, ta nằm bẹp ở đây, tàn mạt, trong khi thằng cha ấy đang tha hồ tung hoành.”
Ông cậu nhắm mắt lại.
Charlie chắc chắn còn muốn đề cập tiếp đến cây gậy phép, nhưng Ông cậu rõ ràng muốn nó rời khỏi phòng thì hơn.
“Con xin lỗi,” Charlie lì xì.
Nó rón rén đi ra, đóng cửa, để lại Ông cậu, và có lẽ cả con chuột, ở trong phòng.
Cô Amy Bone đã đi làm về. Charlie nghe tiếng mẹ đang dọn bàn ăn tối. Nó chạy xuống nhà bếp.
“Billy đâu?” Mẹ nói hỏi.
Charlie kể lại cho mẹ nghe về chuyến viếng thăm của lão Ezekiel.
“Tội nghiệp thằng bé,” mẹ nó nói. “Chắc là nó cô đơn lắm. Phải làm cái gì chứ. Mẹ chắc chắn ai đó sẽ nhận nuôi nó. Một thằng nhỏ dễ thương mà.”
“Gia đình Bloor sẽ không bao giờ để cho nó đi.” Charlie công phẫn. “Bọn họ thích sở hữu người ta.”
“Thì họ thế mà,” mẹ nó nhỏ nhẹ, “Con amng cho Ông cậu một tách trà nhé, Charlie?”
“Ừm… con nghĩ là không nên,” Charlie lừng khừng.
“Sao vậy?”
“Ông cậu và con… ừm, con nghĩ là Ông cậu đang bực mình con.”
Theo quan điểm của Charlie, thì một trong những điều hay ở mẹ nó, là không bao giờ trách mắng nó vì bất cứ cuộc cãi cọ nào giữa nó với những thành viên khác trong gia đình.
“Ôi, hừ,” cô thở dài. “Để mẹ làm vậy.”
Cô đặt tách trà và vài cái bánh quy vô một cái khay rồi mang lên lầu. Vài phút sau cô trở lại, trông vẻ rất lo lắng.
“Mẹ thật sự lo cho Ông cậu của con,” cô bảo Charlie. “Ông cứ nằm bẹp ra đó, xám ngắt và đau bệnh, lại sầu muộn nữa. Có chuyện gì với ông vậy?’
“Ông cậu đã tới Lâu đài Yewbeam,” Charlie nói.
Mẹ nó thở gấp.
“Nơi bà Yolanda khủng khiếp đó sống hả? Bà ta đã làm gì Ông cậu Paton?”
“Không phải bà ta. Còn có cái gì đó khác nữa, nhưng Ông cậu không nói ra. Bà Yolanda đang ở đây. Bà ấy đang sống với mấy bà cô, có điều bà ấy không già, mà trông như cỡ tuổi con. Con nhỏ đã đến đây một lần khi mẹ đi làm. Tên nó là Belle.”
Cô Bone vỗ một bàn tay lên trán.
“Tránh xa bà ta ra, Charlie. Bà ta đã cố giữ ba của con ở trong lâu đài đó hồi ba còn nhỏ. Hên mà Lyell không có phép thuật, nên bà ta không buồn quan tâm tới ba con nữa.”
“Có khi thế lại không hên,” Charlie nói. “Nếu ba mà có phép thuật thì ba đã tự cứu được ba rồi.”
“Ai mà biết được…” Mẹ nó trầm tư. “Mẹ ước gì con không thuộc máu mủ của cái gia đình kinh khủng này.”
“Ừm,” Charlie nói. “Con không quan tâm. Nếu họ muốn quấy rầy con, thì họ sẽ hối hận.”
Mẹ nó mỉm cười với nó một nụ cười đầy khích lệ.
Vào Chủ nhật, Charlie quyết định tới quán Cà Phê Thú Kiểng. Với sự trợ giúp của cây gậy phép, nó đã hoàn tất hết bài vở.
“Hạt Đậu đang chờ cậu!” Norton, người gác cửa, nói khi Charlie bước vô quán cà phê. “Đến đưa nó đi dạo hả?”
Charlie cảm thấy tội lỗi. Nó dường như đã quên khuấy con Hạt Đậu.
“Công viên ở xa đây lắm,” nó nói.
“Mang nó ra công viên đi,” Norton bảo. “Nó nhớ chú mày thật đấy.”
Charlie định đi vòng qua quầy thì nó nhận ra Lysander và Olivia đang ngồi bên một chiếc bàn ở trong góc. Vừa trông thấy Charlie, Olivia liền nhảy khỏi chỗ ngồi và vẫy tay rối rít với nó. Trông con bé bình thường một cách đáng ngạc nhiên, tóc nâu màu lông chuột, và mặt mũi không trang điểm hay vẽ vời gì.
Charlie lần đường ra chỗ tụi bạn. Phải mất khá lâu, bời vì một lũ thỏ tai cụp nhảy choi choi quanh chân nó.
“Hôm nay không sơn siếc gì nhỉ?” Charlie nói, nhảy vọt qua con thỏ trắng của Olivia và túm lấy một chiếc ghế.
“Tớ đang để dành mặt cho vở kịch cuối học kỳ,” Olivia nói. “Tớ nghĩ nếu tớ để bình thường một thời gian, thì khi hóa htan6, sự thay đổi của tớ sẽ càng kịch tính hơn rất nhiều.”
“Mình không chờ nổi đâu đấy,” Charlie nói. “Chà, không ngờ là hai người lại tới đây hôm nay.”
“Tớ đang chán mà,” Olivia nói. “Nhưng hình như anh Sander tới đây vì một lý do khác.”
Charlie nhận thấy anh bạn châu Phi vốn thường ngày tươi vui, hôm nay trông cực kỳ u uẩn. Sander cứ liên hồi đảo mắt âu lo khắp căn phòng, và con vẹt xám Homer của cậu cứ trượt từ trên đầu xuống vai, rồi lại quạt cánh bay trờ lên đầu mỗi khi cậu nhúc nhích.
“Anh Tancred đâu?” Charlie hỏi Lysander.
“Ba nó bắt nó ở nhà học bài. Anh học xong bài rồi. Anh cần phải ra ngoài một chút.”
“Có rắc rối gì vậy?”
Lysander lắc đầu.
“Tổ tiên của anh đang nổi giận,” nó lầm bầm. “Anh không sao ngủ được. Suốt đêm, anh nghe thấy tiếng trống, tiếng nói, tiếng thét tức giận của họ cứ dồn dập trong đầu.”
Lập tức con vẹt Homer la lên bài hải:
“Thảm họa! Thảm họa!”
“Con này luôn luôn biết mỗi khi có điều gì không ổn,” Lysander nói. “Qua anh mà nó cảm được sự bực tức của họ.”
“Sao họ không nói cho anh biết cái gì làm họ nổi sung?” Olivia hỏi.
Lysander chau mày ngó con bé.
“Anh phải tự tìm hiểu lấy.
Những tổ tiên tâm linh của Lysander vô cùng hùng mạnh. Họ k[ chỉ là những con ma. Charlie đã từng tận mắt thấy đôi bàn tay rám nâu, những ngọn thương và những cái khiên của họ. Hơn một lần, họ đã cứu sống nó. Nếu họ tức giận thì ắt phải có lý do chính đáng chi đó.
“Tụi mình đi dạo đi.”
Charlie rủ, hy vọng không khí trong lành sẽ làm cho đầu Lysander nhẹ nhõm hơn.
“Hay đấy,” Olivia đồng ý liền, bồng con thỏ của nó lên.
Charlie định ra lấy con Hạt Đậu thì ông Onimous đã xuất hiện cùng với con chó. Hạt Đậu nhảy xồ lên người Charlie, trong khi bọn mèo và lũ thỏ chạy tán loạn đủ mọi hướng.
“Ôi, nó nhớ cậu lắm, Charlie,” ông Onimous nói khi con chó bự nhảy chồm lên và bắt đầu liếm mặt, liếm tóc Charlie.
“Con chuột ổn chứ ạ?” Charlie hỏi.
“Khỏe như văm vậy,” người đàn ông bé nhỏ hồ hởi. “Thân với bà Onimous như hình với bóng. Còn bọn mèo lữa thì ngượng mộ chú ta.”
“Thật bất thường!” Olivia thốt lên. “Mèo mà thích chuột.”
“Chúng bất thường mà, thưa quý cô,” ông Onimous nói nghiêm trang. “Các cô cậu đi ngay bây giờ đi. Charlie, mang con chó đi dạo thật đã đời đi nhé. Chân cẳng tôi không thể theo kịp nó.”
Ba người bạn rời quán cà phê và hướng về phía công viên ở rìa thành phố. Olivia xách con thỏ trong giỏ, nhưng con vẹt của Lysander du hành trên vai cậu. Đầu nó cứ chúc lên chúc xuống, băm bổ theo nhịp những sải chân của chủ nhân.
Khi chúng tới công viên, Charlie tháo dây xích cổ cho Hạt Đậu, và con chó chạy bắn qua bãi cỏ, sủa nhặng xị, reo mừng. Con vẹt Homer cũng tức tốc rời vai Lysander và bay là là trên đầu con chó, la rầm trời.
“Om sòm quá, cứu chó với! ”
“Cứu tôi với chớ,” Olivia sửa.
“Nó rối loạn đó,” Lysander bảo.
“Em thì thấy nó đang cáu,” Olivia nói, cười khúc khích.
“Không giỡn đâu,” Lysander gắt. “Hễ nó cáu là nó rối trí. Giống anh. Anh cũng đang rối trí.”
“X… xin… lỗiiiii,” Olivia dài giọng.
Charlie liếc Olivia. Suýt nữa thì con bé cười òa vô mặt Lysander. Thế là tốt cho nó , Charlie nghĩ. Khi Olivia làm bạn thì đó là một người bạn tốt, có điều Olivia chả hiểu được ban phép thuật thì có ý nghĩa như thế nào; chả hiểu được gánh nặng đó nặng ra sao, và rối rắm làm sao.
“Nghiêm túc coi,” Charlie nói.
Olivia nhướn mày lên, nhưng hình như con bé đã hiểu cái nhìn cảnh báo trong mắt Charlie.
“Ngày mai chắc anh không đi học quá,” Lysander than.
“Sao vậy?” Charlie hỏi.
“Không biết, anh nghĩ tới trường sẽ gặp rắc rối.”
Giọng Lysander chìm thấp đến độ hai đứa kia hầu như không nghe được.
“Nhưng anh phải đi,” Charlie khẩn khoản nài. “Còn bức tượng nữa mà? Còn Ollie Sparks nữa thì sao?”
“Sao em lại quan tâm nhiều quá vậy?’ Lysander nói, ngạc nhiên vì vẻ tha thiết của Charlie.
“Thì tại vậy, thế thôi,” Charlie bảo. “Em không nhịn được. Nghĩ tới Ollie em thấy khó chịu quá, tại em chưa thử cố cứu nó lần nữa. Có nhiều chuyện khác xảy ra quá. Nhưng nghĩ coi, chắc Ollie thấy kinh khủng lắm. Một mình trên gác mái, không biết có bao giờ thoát ra được hay không. Tụi mình cần phải cứu nó ra ngay đi, anh Sander. Phải cứu thôi. Thôi, anh nói thứ Hai này anh đi học đi mà,”
“Để anh nghĩ,” Lysander nói.
Cậu huýt sao với con vẹt, và con chim xám lượn vòng, bay về đậu trên vai.
“Tạm biệt,” Lysander bảo. Nó quay đi và sải bước ra khỏi công viên.
Con vẹt ngó lại Charlie và Olivia, la lên:
“Coi chừng!”