Chương 30
Tác giả: NQS
2 - CÁC CUỘC NỔI DẬY CỦA NGƯỜI CAO MIÊN Ở NAM KỲ HẠ
Ba nhân vật chủ chốt trong những cuộc nổi dậy ở Nam Kỳ hạ là Ong Bướm (A-Xoa), nhà sư Pù-Kâmbô và Phra-Keo-Pha. Pù-Kâmbô và Phra-Keo-Pha được chính quyền Pháp nuôi dưỡng và cho tá túc ở Sài Gòn với điều kiện là người nầy không được gây xáo động nước Cao Miên đang ở dưới quyền đô hộ của Pháp.
Trong những tháng đầu năm 1866, tình hình nước Cao Miên (Cambodge) yên ổn. Ở Sài Gòn, Phra-Keo-Pha và-Pù-Kâmbô tạm thời chịu ép mình chưa khích động người Miên gây rối. Kể từ khi vua Cao Miên Nặc Ong Đôn qua đời và Nororodom lên kế vị thì có khoảng 2,000 người Miên trong một vùng lãnh thổ ở về phía Bắc tỉnh Tây Ninh theo về phe với Pù-Kâmbô chống lại Norodom nhưng bề ngoài nhóm nầy vẫn sống một cách hòa bình trong vòng kiểm soát và che chở của chính quyền Pháp. Người Pháp chỉ biết rõ sự tình khi Pù-Kâmbô bỏ Sài Gòn ẩn trốn lên vùng phía Bắc. Người Pháp truy lùng thì mới biết được rằng nhà sư nầy đang cầm đầu một nhóm nhỏ vài người Miên đi biểu dương khắp nơi để rao truyền rằng họ sẽ dùng vũ lực để đòi lại ngôi vua nước Cao Miên. Người Pháp cho rằng Pù-Kâmbô với vài ba người như thế thì không thể làm được việc gì. Nhưng rồi bỗng nhiên thấy xuất hiện một khối người thật đông gồm có người Miên, người Chàm, người An Nam được trang bị vũ khí, có cả sự hiện diện của A-Xoa và người Pháp cho rằng phong trào nổi dậy nầy được triều đình Huế ngầm yểm trợ.
Sáng ngày 7 tháng 6 dl năm 1866, khoảng 2,000 người vũ trang, với cờ trắng phấp phới tiến về hướng thành đồn Tây Ninh. Viên đại uý thanh tra bản xứ là Larclause muốn dùng phương cách dàn xếp và hiểu dụ cho nên đích thân ra khỏi thành đồn mang theo 20 binh sĩ đến gặp họ nhưng bị họ bao vây và bắn chết. Sĩ quan hộ tống Larclause là trung úy Lesage cũng bị giết cùng với 9 binh thuộc quyền; 11 binh sĩ sống sót rút lui vào thành đồn Tây Ninh trong khi một sĩ quan Pháp là đại úy Pinaud mang một tiểu đội 20 binh lính cố gắng ngăn chận nhóm nổi dậy nhưng không cự địch nổi với số đông nên phải rút lui vào thành đồn cố thủ và đánh điện khẩn cấp về Sài Gòn xin cứu viện.
Đường dây điện thoại liên lạc bị nhóm nổi dậy cắt đứt vào buổi chiều hôm đó.
Một tàu quân tăng viện do trung tá Marchaise từ vùng Sài Gòn được gởi tới trong khi một đại úy thanh tra bản xứ ở Trảng Bàng tên là Fremiel mang 40 binh sĩ đến để tăng cường việc cố thủ đồn thành Tây Ninh. Khi vừa đến nơi, trung tá Marchaise liền mở ngay cuộc hành quân truy kích quanh vùng thành bót Tây Ninh nhưng không có kết quả. Ngày 14 tháng 6 dl năm 1866, Marchaise lại xuất quân 150 người cùng với hai khẩu trong pháọ. Vào xế chiều, quân của Marchaise đụng trận với nhóm nổi dậy ở vùng rạch Vịnh lầy lội. Marchaise và 13 binh sĩ thuộc quyền bị giết trong lúc xung trận. Nhờ có hai khẩu trọng pháo đại úy Fournier mới có thể rút quân chạy lui về thành bót Tây Ninh không kịp khiêng về xác của Marchaise. Ba ngày sau, quân Pháp quay lại chiến trường thì không còn có thể nhận diện được các binh sĩ tử trận cho nên một số tử thi phải chôn tập thể vào các giếng nước bỏ hoang còn một số khác thì chôn chung trong một thùng bằng gỗ. Đầu của Marchaise nằm dưới một gốc cây nhưng xác thân thì không tìm thấy. Như vậy, kể từ ngày 7 tháng 6 dl đến 14 tháng 6 dl năm 1866, quân viễn chinh Pháp đã bị mất đến 3 sĩ quan chỉ huy là Larclause, Lesage và Marchaise. Họ được chôn cất tại một nghĩa địa ở Tây Ninh. Sau nầy hài cốt của Larclause và Lesiege được đưa về Pháp chôn cất lại. Vào tháng 6 năm 1905, một đoàn công tác Pháp do thanh tra bản xứ tỉnh Tây Ninh tên là Pech cùng với một sĩ quan bộ binh Collin cầm đầu đến vùng giao tranh cũ đào xới và tìm thấy một thùng gỗ 3 mét chiều dài và 1 mét 50 chiều ngang nhiều bộ xương người lẫn lộn với giày vớ nhà binh và được mang đi chôn chung nơi nghĩa địa Tây Ninh vào ngày 16 tháng 6 dl năm 1906, trên ngôi mộ tập thể nầy có dựng một cột bia ghi nhớ những binh sĩ viễn chinh Pháp tử trận trong 2 ngày 7 và 14 tháng 6 dl năm 1866.
Sau biến cố nổi dậy nầy, quân binh của Pháp trấn đóng tại thành đồn Tây Ninh được tăng lên đến 500 người dưới quyền chỉ huy của tiểu đoàn trưởng Alleyron. Đồn bót Trảng Bàng cũ được tăng viện tàu chiến trên vùng sông Vàm Cỏ Đông.
Sài Gòn được quân Pháp tăng cường phòng thủ cẩn mật. Do đó dân quân kháng chiến đã nhắm vào các vùng lân cận để đánh phá đồn bót của Pháp ở các vùng Thuận Kiều, chợ Hốc Môn, Trảng Bàng. Các mật khu kháng chiến đặt ở vùng Cầu An Hạ, một vùng đầm lầy nằm giữa Trảng Bàng và vùng sông Vàm Cỏ Đông. Do đó la Grandière đã cho mở nhiều cuộc hành quân càn quét các vùng nầy. Ngày 27 tháng 6 dl 500 lính Pháp và 100 lính tập bản xứ, 50 thủy bộ binh mở cuộc hành quân bao vây vùng Cầu An Hạ truy kích kháng chiến rút chạy về hướng Bắc nơi có nhóm nổi dậy Pù-Kâmbô hoạt động. Một nhóm kháng chiến khác rút chạy về hướng Nam.
Tháng 7 dl năm 1866, quân Pháp càn quét truy kích, nhóm nổi dậy người Miên trốn chạy bỏ lại nhiều xác chết. Tiếp tục hành quân truy kích, quân pháp đánh bật nhóm nổi dậy ra khỏi mật khu Ba Vang , đồng thời bắt được 112 dân quân kháng chiến quanh vùng Tây Ninh.
Tất cả những cuộc nổi dậy vừa kể trên, người Pháp quy trách nhiệm cho quan binh của triều đình Huế, không những nhắm mắt làm ngơ mà còn ám trợ cho họ đánh phá các đồn bót của Pháp. Người Pháp phản kháng, triều đình Huế phải ra lệnh loại trừ A- Xoa để xoa dịu mối căng thẳng nhưng Pháp vẫn không hài lòng và cho rằng phía triều đình chỉ loại trừ dùm cho Pù-Kâmbô một đối thủ tranh ngôi vua nước Cao Miên.
Trong khi vua Norodom chỉ biết ngồi làm vua vô quyền thì những người Miên nổi dậy đánh phá ngay trên nước Cao Miên (Cambodge). Norodom phải cầu cứu với chính quyền bảo hộ Pháp. Người Pháp phải đối đầu, đánh dẹp liên tục những cuộc đánh phá của nhóm người Miên nổi dậy do Pù-Kâmbô cầm đầu tại vùng Oudong - Pnom Penh nhưng chỉ đẩy lui được nhóm nầy chạy ngược về phía Nam và ngay trong nội tình triều đình của Norodom cũng có phe muốn theo về với Phra-Keo-Pha để hạ bệ Norodom.
Trong khi phải vừa tổ chức hành quân bình định kháng chiến quân cùng những cuộc nổi dậy ở Cao Miên cũng như phải xây dựng những nền tảng cơ bản cho chính sách thuộc địa tương lai của người Pháp ở Đông Dương thì dư luận ở bên Pháp vẫn còn tiếp tục chống lại chính sách thuộc địa và chủ trương bành trướng lãnh thổ của đoàn quân viễn chinh Pháp ở Nam Kỳ Hạ khiến Napoléon III phải trù trừ không dứt khoác. Sau khi Rigault de Genouilly thay thế Chasselouplaubat trong chức vụ bộ trưởng Bộ Hải Quân và Thuộc Địa, Napoléon đã phải gởi sĩ quan hải quân hoàng triều là des Varannes sang thanh sát vùng Java và Nam Kỳ Hạ. Sau gần 2 tháng kinh lý Nam Kỳ, des Varannes đã ghi nhận tình hình ở Nam Kỳ Hạ tiến triển rất khả quan cho chính sách thuộc địa của người Pháp khiến cho hoàng đế Napoléon III đã có thái độ dứt khoác đối với những âm mưu lợi dụng thời cơ của triều đình Huế. Napoléon III cho phép La Grandière tiến hành cuộc xâm chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ.
Cùng thời điểm nầy, để chuẩn bị cho việc xâm lăng Bắc Kỳ, sau khi tham khảo ý kiến và được phép của bộ Hải Quân và Thuộc Địa, La Grandière đã thành lập một phái đoàn thám hiểm dòng sông Mê-Kong do thiếu tá hải quân de Lagrée làm trưởng đoàn và trung úy Thanh Tra Bản Xứ Sự Vụ Francis Garnier đoàn phó, Delaporte sĩ quan hải quân tập sự, 2 y sỹ hải quân Joubert và Thorel, de Carné tùy viên của bộ ngoại giaọ Đoàn thám hiểm có 4 người Pháp và 6 lính tập người bản xứ hộ tống cùng với 1 thông dịch viên người Pháp và một thông dịch viên người Cam Bốt. Ngày 5/6/1866 đoàn thám hiểm rời Sài Gòn trên 2 pháo thuyền số 32 và số 27. Trong 2 năm ròng rã, đoàn đã ngược dòng sông Mê-Kong thám hiểm lên đến tận vùng đất tỉnh Vân Nam của Trung Quốc và và trưởng đoàn de Lagrée đã bị chết vào ngày 12/3/1863 tại Đông Châu Phủ/Trung Quốc vì bệnh viêm gan và được Francis Garnier và đoàn thám hiểm mang xác về Sàigòn ngày 29 tháng 6 năm 1868.
3- PHÁP ĐÁNH CHIẾM 3 TỈNH MIỄN TÂY NAM KỲ
Đinh Mão, Tự Đức thứ 20 (1867), ngày 14 tháng 2 dl năm 186, la Grandière phái phó thuyền trưởng Monet de la Marek theo tàu chiến Monge ra Huế để đòi nợ bồi thường chiến phí chưa nộp đúng kỳ hạn đồng thời thúc hối triều đình Huế phải giao nhượng ngay 3 tỉnh miền Tây. Triều đình Huế khước từ đòi hỏi của Pháp và chỉ muốn chuộc lại các tỉnh đã bị mất vào tay người Pháp.
Viện Cơ Mật đề nghị cử Phan Thanh Giản vào Sài Gòn để dọ ý người Pháp về yêu cầu chuộc lại các tỉnh đã mất.
Ngày 24 tháng 2 dl năm 1867, Pháp lại mở hội chợ đấu xảo ở Sài Gòn. Trong ngày phát giải thưởng tại hội chợ nầy Phan Thanh Giản đứng cạnh thống soái La Grandière cùng với thủ lãnh nhóm người miên nổi dậy là Pra-Keo-Pha và hai quan thượng thơ của triều đình vua Cao Miên Norodom.
Ở Sài Gòn, La Grandière bí mật lên kế hoạch hành quân tiến chiếm 3 tỉnh miền Tây.
Theo A. Schreiner thì kế hoạch nầy được la Grandière chuẩn bị một cách bí mật từ 3 tháng trước. Tuy nhiên, theo Paulin Vial, nguyên là giám đốc Nha Nội vụ dưới thời la Grandière và cũng là tác giả sách Nos Premères Années au Tonkin thì kế hoạch nầy đã được chẩn bị sắp xếp từ hơn một năm trước đó:
(Paulin Vial; Nos Premières Années du TONKIN; trang 8-9; Voiro-Paris; 1889)
Tạm dịch: Việc sáp nhập 3 tỉnh miền Tây đã được dự liệu thận trọng và chuẩn bị một cách bí mật không có gì gọi là đáng phải ngạc nhiên. Dân chúng cũng thế khi họ biết rằng đó chỉ là một việc làm phúc lợi cho họ. Hơn một năm trước, những viên chức được tuyển dụng để nắm giữ việc hành chánh cai trị trong các tỉnh mới đã được phối trí tập sự làm việc tại các tỉnh miền Đông. Trong 13 quản hạt có khoảng 50 viên chức hạng tập sự nầy. Chưa có một nguồn lợi kinh tế nhỏ nhoi nào ban phát cho ngạch nhân dụng. Những tin tức về tình hình an ninh tình báo thường được giao phó cho những người dân An Nam nhiệt tình.trên nhiều lãnh vực và ở nhiều nơi.
Như vậy trong khi vua Tự Đức vẫn cố tình gây ra những tình trạng bất ổn, rối loạn và nổi dậy trên vùng đất do người Pháp chiếm đóng, thì chúng ta đương nhiên cần phải chuẩn bị một sự giáng trả.ngay trên các phần đất của ông vua đó. Người dân An Nam chín chắn và biết phòng xa hơn so với các ông quan triều đình của họ đã thấy được sẻ cần phải làm cách nào để giải tỏa một tình trạng rắc rối nhỏ nhứt.- Một số lớn dân chúng ở các tỉnh miền Tây đã tỏ dấu hiệu cho chúng ta biết rằng họ sẵn sàng theo về với chúng ta khi chúng ta khởi sự biểu dương lực lượng.
*
Ngày 15 tháng 6 dl năm 1867, La Grandière mật điện lệnh cho các đơn vị tham chiến và các chỉ huy hạm đội tàu chiến: điểm tụ quân ở Mỹ Tho.
Chiều ngày 17, các đơn vị tham chiến bắt đầu di chuyển đến Mỹ Tho.
Ngày 18, lực lượng quan binh Pháp hội quân tại Mỹ Tho là 1,200 người cùng với 8 thanh tra bản xứ và nhiều nhân viên hành chánh sẽ đặt vào những tỉnh huyện ở các nơi sắp chiếm đóng. Ngoài ra còn có 400 lính tập người bản xứ (còn gọi vệ binh, ngày nay gọi là dân vệ hay cảnh sát) do Pháp tuyển chọn trong tỉnh Mỹ Tho cùng tham dự cuộc đánh chiếm nầy. Số tàu chiến tham dự gồm có các pháo thuyền bằng gỗ la Mitraille, le Bourdais, l' Alom-Prah, các pháo thuyền bằng sắt l' Espignole, le Glaive, le Fouconneau, la Halle-barde, l' Arc, tàu tuần sát Biên Hòa và một tàu vận vận tải chạy bằng hơi nước.
Đinh Mão, Tự Đức thứ 20, ngày 18 tháng 5 âl (ngày 19 tháng 6 dl năm 1867), vào lúc một giờ trưa, soái hạm l' Ondine của La Grandière từ cửa biển Soài Rạp (Gò Công) tiến vào sông Tiền hướng về Mỹ Tho. Các chỉ huy trưởng thủy, bộ binh, các hạm trưởng tàu chiến đều lên soái hạm để nghe La Grandière ban phát những chỉ thị hành quân cuối cùng. Binh lính và vệ binh bắt đầu xuống các tàu đỗ bô. Vào nửa đêm thì hạm đội tấn công chở theo binh lính của Pháp tiến đến thành Vĩnh Long.
Buối sáng sương mù ngày 19 tháng 5 âl (20 tháng 6 dl 1867), các chiến hạm của đoàn quân xâm lược thả neo trước mặt thành tỉnh Vĩnh Long. Vào 7giờ30 sáng, các chiến hạm đều ở đúng vào vị trí tác chiến . Binh sĩ thủy, bộ được chuyển lên bờ bao vây thành Vĩnh Long. Một quan phụ tá hành quân của La Grandière được phái vào thành để yêu cầu quan binh đồn trú đầu hàng và nộp thành. Khi sương mù tan, quan binh Đại Nam mới biết thành Vĩnh Long bị đoàn quân xâm lược Pháp bao vây(11).
Kinh lược Phan Thanh Giản và Án sát Võ Doãn Thanh ra khỏi thành xuống soái hạm Ondine để gặp La Grandière yêu cầu quân Pháp rút lui nhưng La Grandière nhất quyết cự tuyệt, đòi quan binh triều đình tại 3 thành Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên phải đầu hàng. Biết rằng không thể nào làm thay đổi tình thế, Phan Thanh Giản yêu cầu La Grandière ra lệnh cho thuộc hạ không được giết hại, cướp bóc tài sản của dân chúng trong thành. La Grandière chỉ hứa rằng các quan lại của triều đình Đại Nam sẽ vẫn giữ các nhiệm vụ cũ sau khi đoàn quân của Pháp chiếm đóng 3 tỉnh với điều kiện là Phan Thanh Giản phải xuống lệnh cho họ đầu hàng và các nhóm kháng chiến phải ngưng hoạt động tại các nơi đó Phan Thanh Giản viết thơ cho các đốc trấn thành An Giang (Châu Đốc), Hà Tiên, thông báo là thành Vĩnh Long đã bị bao vây, yêu cầu quan binh giao nộp thành cho người Pháp để dân chúng không bị liên lụy vì chiến tranh. Khi Phan Thanh Giản trở về thì quân Pháp đã chiếm đóng thành Vĩnh Long.
La Grandière liền cử đại tá Rebout làm chỉ huy trưởng quân sự 3 tỉnh miền Tây và đại úy Bourchet làm thanh tra bản xứ (tỉnh trưởng) tỉnh Vĩnh Long.
Ngày 20 tháng 5 âl (21 tháng 6 dl năm 1867), hạm trưởng Galey và giám đốc Nội vụ P. Vial đưa tàu chiến Biên Hòa cùng một lúc với một số pháo thuyền và binh sĩ đỗ bộ xuống tiến chiếm An Giang (Châu Đốc). Trên lộ trình chuyển quân, họ gặp 2 chiếc ghe buồm có che lọng và hiệu kỳ chỉ huy của quan tổng đốc Hà Tiên. Viên tổng đốc được yêu cầu lên chiến hạm Biên Hòa, nhận lệnh thư của Phan Thanh Giản và bị giữ lại trên tàu cho đến lúc tàu đến An Giang (Châu Đốc).
Vào 11 giờ đêm, tất cả lực lượng của Pháp đã được phối trí sẵn sàng để hạ thành An Giang.
Tổng đốc An Giang được gọi ra tàu Biên Hoà để nhân lệnh đầu hàng của Phan Thanh Giản. Tổng đốc An Giang cùng với hai quan Bố chính và Án sát âm mưu bắt Vial và Galey làm con tin nhưng mưu sự bất thành. Quân Pháp vào chiếm đóng thành An Giang. Sáng ngày hôm sau 22 tháng 6 dl 1867, soái hạm Ondine đến thành Ang Giang, La Grandière vào thành cắt đặt nhân sự, cử trung úy bộ binh Vignes làm thanh tra bản xứ tỉnh Sa Đéc. Hạm trưởng Valey được thăng thiếu tá.
Ngày 22 tháng 5 âl (23 tháng 6 dl năm 1867), thiếu tá Galey trên tàu chiến la Flamberge cùng với một tàu chuyên chở chạy bằng hơi nước, 20 ghe buồm chở binh sĩ và vệ binh xuất phát từ Châu Đốc qua Hà Tiên. Trên tàu chiến la Flamberge có mặt tổng đốc Hà Tiên và do đó cuộc tiến chiếm thành Hà Tiên không có gì trở ngại đối với đoàn quân xâm lược Pháp. Đại úy Dauvergne được cử việc cai trị vùng lãnh thổ Hà Tiên.
La Grandière sai Legrand de la Liraye theo tàu chiến le Monge ra Huế cùng với một thông ngôn thông báo việc quân binh Pháp chiếm đóng 3 tỉnh miền Tây của Đại Nam. Triều đình Huế phản kháng, yêu cầu trả tự do cho các quan binh triều đình trong 3 tỉnh đó đang bị quân Pháp quản thúc và trả lại một số vùng đất thuộc tỉnh Biên Hoà và Sài Gòn để bồi thường cho triều đình về việc người Pháp cưỡng chiếm 3 tỉnh miền Tây nhưng vô hiệu. Pháp chỉ chịu giao trả quan binh của triều đình trên 3 tỉnh đó.
Đinh Mão, Tự Đức thứ 20, tháng 6 âl, sau khi 3 tỉnh miền Tây bị mất, Phan Thanh Giản gởi trả triều đình ấn tín và bắt đầu tuyệt thực. Ông viết thơ để lại khuyên các con không được hợp tác làm việc cho quân xâm lược Pháp nhưng phải sống hòa bình không chống phá gây hấn với người Pháp, các cháu của ông nên được giáo huấn như con cái của người Pháp. Ông trối thác muốn được chôn cất ở quê nhà tại làng Bảo Thạnh, tỉnh Bến Tre rồi trước sự hiện diện chứng kiến của những người thân, ông mặc triều phục đứng hướng về phương Bắc cung kính quỳ bái 5 lạy rồi nâng chén thuốc độc uống cạn (liều thuốc phiện cực mạnh). Một y sĩ người Pháp Le Coniat đã hết sức tìm cách để cứu sống ông nhưng sau đó 2 ngày thì ông qua đời vào ngày 5 tháng 7 dl năm 1867.
Thống soái La Grandière đã tự tay viết thơ chia buồn gởi đến con trưởng của ông Phan Thanh Giản. nguyên văn lá thư như sau:
"Le Vice-amiral, gouverneur et commandant en chef en Cochinchine, au fils ainé de S. Exc. Phan Thanh Giảng, vice grand censeur du Royaume d'Annam.
Vinh Long
J'apprends avec une grande douleur la mort de S.Exc. Phan Thanh Giảng, votre père.
Le royaume d'Annam, dont il éait le membre le plus éminent, perd dans ce vieiilard respectable un de ses gloires et de ses lumières, et le sentiment de profonde estime qu ' il laissse dans ma mémoire et dans celle des Français sera plus durable que la haine de ses ennemis.
Aucun autre que votre père n'a compris à Huế quels étaient les avantages qui devaient assurer le bonheur du peuple, et c'est un sentiment touchant et digne de respect qui l' a, malheureusement, porté à ne pas vouloir suvivre aux conséquences d' une politique dont tous les torts et toute la responsbilité appartiennet au gouvernement annamite.
Le témoignage officiel de mon estime et de mon amitié que je vous adresse dans cette lettre, doit être conservé dans votre famille comme le gage des sentiments que les Français conserveront pour votre vénérable père et pour sa famille.
Soyez persuadé aussi que je m' efforcerai, par tous les moyens qui dependent de moi, d' assurer le bonheur de ses enfants, en leur accordant les faveurs et les positions qui porront leur convenir.
Agreez l' assurance de ma considération très distinguée.
Saigon, le 5 août 1867.
De la Grandière."
Tạm dịch:
"Phó Đề đốc, thống đốc kiêm tổng tư lệnh quân lực Nam Kỳ, gởi đến ông trưởng nam của Ngài Phan Thanh Giảng(*) phụ chính khâm sai đại thần của Vương quốc An Nam.
tại Vĩnh Long.
Tôi rất là đau buồn biết được tin về cái chết của Ngài Phan Thanh Giảng thân phụ của ông.
Vương quốc An Nam, mà trong đó ngài Phan Thanh Giảng là một thành viên lỗi lạc hơn hết, đã đánh mất đi một trong những phần vinh quang, trí thức và tình cảm sâu đậm quý mến của vị quan lão thành nầy, nhưng những điều đó vẫn đang lưu lại trong trí óc của tôi cũng như trong trí óc của người Pháp một cách bền vững hơn là sự oán ghét của những quân thù của vị quan lão thành ấy.
Ngoài phụ thân của ông trưởng nam ra, nơi triều đình Huế không còn ai nhận thức được những điều gì cần phải thực hiện để bảo đảm cho người dân có thể sống hạnh phúc và chính là vì vấn đề có liên hệ đến cảm tính cùng với đức tự trọng đã khiến cho vị quan lão thành nầy không còn thiết sống dưới dự chi phối của những hậu quả chính trị sai trái và dẫy đầy trách nhiệm do chính quyền của triều đình nước An Nam tạo ra.
Những biểu lộ chính thức về lòng kính mến và tình bằng hữu của tôi trong lá thư nầy ông cần phải lưu giữ lại trong gia tộc như là một bằng chứng về những cảm tình mà người Pháp sẽ giữ riêng cho phụ thân đáng kính của ông và gia tộc của ông ấy.
Ông hãy tin rằng tôi sẽ cố gắng bằng mọi phương cách mà tôi có được để đảm bảo cho con cháu của vị quan lão thành có được những quyền lợi và chức vị thích hợp với họ trong tương lai.
Xin ông hãy chấp nhận lòng kính trọng rất đặc biệt của tôi.
Sài Gòn ngày 15 tháng 10 dl năm 1867
Ký tên: De la Grandière"
La Grandière đã ra lệnh cho thuộc hạ dưới quyền đặt quan tài của ông trên một chiếc ghe lớn và được một pháo thuyền của Pháp kéo về làng Bảo Định gần cửa sông Ba Lai tỉnh Bến Tre. Một đội quân dàn chào danh dự của quân đội Pháp cũng được phái đến để cung hầu quan tài của ông Phan Thanh Giản suốt thời gian tiến hành lễ an táng theo tục lệ của người Đại Nam. Dân chúng tham dự đám tang rất đông. Mộ chí của ông ghi Lương Khê Phan lão nông Chi Mộ.
*
VI/-VỀ VIỆC ĐÁNH GIÁ ÔNG PHAN THANH GIẢN
BỊ LÊN ÁN LẦN THỨ NHỨT:
Tháng 4 â.l, năm Nhâm Tuất (1862), trong lúc tình hình bất ổn ở Bắc Kỳ không thể giải quyết, Bonard lại sai hạm trưởng tàu chiến Forbin là Simon đến cửa biển Thuận An (đầu tháng 5 d.l năm 1862) để đưa thư liệt kê 3 điều kiện tiên quyết để hòa đàm: 1/ - Trong vòng 3 ngày phải trả trước cho người Pháp 100,000 quan tiền bồi thường chiến tranh tính ra lạng bạc; 2/ - Để cho Pháp đặt người của họ toàn quyền cai quản trên các vùng đất hiện do Pháp tạm chiếm; 3/ - Trong vòng 8 ngày phải cử đại diện để hòa đàm với Pháp. Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành đem việc ấy trình lên. Triều đình bàn bạc và phải chịu chấp nhận những đòi hỏi tiên quyết số 1 và số 3 của Pháp.
Thuyền trưởng Simon trở về Sài Gòn mang theo 2 điều kiện tiên quyết của Pháp được triều đình Huế chấp nhận. Sau đó Simon trở ra Thuận An. Triều đình Huế cử Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp làm chánh, phó sứ toàn quyền đại thần để hội nghị với người Pháp. Khi sắp đi, Tự Đức rót rượu riêng của mình ban cho và dụ rằng đoàn sứ không được nhận điều khoản tự do truyền đạo Gia tô và không được nhượng thêm đất.
Ngày 24 tháng 4 âl (1862) Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp đi thuyền Thụy Nhạc uy vệ ra của biển Hội An, qua tàu Forbin gặp Simon trao 100,000 quan tiền trả trước. Sau đó tàu Forbin hộ tống thuyền Thụy Nhạc vào Gia Định.
Ngày 30 tháng 4 â.l (26 tháng 5 d.l năm 1862), đoàn sứ Đại Nam tới Sài Gòn. Cuộc đàm nghị mở ra liên tục cho đến ngày 9 tháng 5 â.l năm Nhâm Tuất (5 tháng 6 d.l năm 1862) thì 2 bên ký định ước. Các điều khoản của định ước nầy phải được triều đình nước Đại Nam và triều đình nước Pháp thông qua trong vòng 1 năm.
Ngày 11 tháng 5 â.l (7 tháng 6 d.l năm 1862), đoàn sứ Đại Nam đi thuyền về, đến Huế vào ngày 14 tháng 6 â.l (10/6 d.l/1862).
Xem xong bản định ước 12 khoản, Tự Đức dã quở trách Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp và cho rằng 2 viên quan nầy. Vua nói " thương thay con đỏ của lịch triều, nào có tội gỉ Rất là đau lòng. Hai viên nầy không những là người có tội với triều đình nhà Nguyễn mà còn mắc tội đối với nghìn muôn đời vậy !" rồi đưa xuống cho đình thần bàn xét.
Sau khi bàn xét đình thần phúc tâu như sau: về khoản cắt đất và trả tiền bồi thường chiến tranh thì Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp đã thỏa thuận rồi nhưng phần nhiều chưa hợp. Nhưng vì đây là một bản điều ước mới định, nếu vội sửa đổi ngay, sợ họ còn tức khí, chưa chắc đã nghe theo ngay. Xin đề nghị để 2 viên quan ấy ở gần liên lạc với người Pháp bàn tính để họ châm chước lần lần và cũng là để 2 viên quan đó có dịp chuộc lại lỗi lầm đã nhượng đất và chịu trả quá nhiều tiền bồi thường; đề nghị bắt tội họ vì không chu toàn trách nhiệm được giao phó từ trước.
Tự Đức cho rằng nếu bắt tội Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp thì không thể tìm được người khác có khả năng như họ để nhận lãnh trách nhiệm hoà nghị và do đó giao cho Phan Thanh Giản lãnh tổng đốc Vĩnh Long, Phan Duy Thiếp (Hiệp) lãnh chức tuần phủ Thuận - Khánh nhưng 2 người vẫn phải tiếp tục trách vụ đàm phán với người Pháp để chuộc tội.
Một kẻ lãnh đạo quốc gia có liêm sĩ và đạo đức phải biết nhận trách nhiệm về khả năng cai trị yếu kém của mình với tổ quốc, với dân chúng. Những hàng cộng sự của mình chỉ là cấp thừa hành phải làm theo lệnh của cấp trên khi cấp trên là một kẻ ôm đồm thu tóm hết quyền lực kể cả quyền làm chủ mạng sống của mọi người không phân biệt là hạng thứ dân hay quan đại thần.
Đáng lý câu tuyên bố của Tự Đức phải như sau thì chắc là đúng hơn: "thương thay con đỏ của lịch triều, nào có tội gì? Rất là đau lòng. Không những là Trẫm có tội với triều đình nhà Nguyễn mà còn mắc tội đối với nghìn muôn đời vậy!" Và sau khi đóng tuồng nhận tội như thế rồi Tự Đức lại đóng tuồng tuyên bố tự thoái vị, rồi mấy ông đại thần thần ở Huế giả bộ quỳ lạy ôm chân năng nỉ xin Tự Đức đùng bỏ ngôi, rồi bên ngoài sai quân binh giựt giây cho dân chúng tụ họp biểu tình hoang hô ủng hộ Tự Đức, ủng hộ tập đoàn đình thần ăn không rỗi nghề ở Huế và đã đảo quân xâm lược Pháp thì có lẽ sách sử nhà Nguyễn sẽ để lại cho hậu thế hình ảnh của một ông vua hiền sáng giá biết nhận lãnh trách nhiệm có tên là Tự Đức chăng? Nếu Tự Đức đã làm được như thế thì rất có thể đã gây được xúc động của toàn quân toàn dân và biến họ thành một khối đại đoàn kết dân tộc để chống quân xâm lược phương Tây. Cần gì mà phải trút hết tội lỗi lên đầu ông Phan Thanh Giản và ông Lâm Duy Hiệp!
Không phải tất cả người hậu thế đều ngây thơ và xuẩn động đến mức độ tin tưởng lời tuyên bố buộc tội thốt ra từ miệng của Tự Đức rồi sẽ hùa theo Tự Đức để làm mốp méo lịch sử.
Câu tuyên bố của Tự Đức cho thấy rõ trong chế độ tập đoàn phong kiến dù ở bất cứ triều đại nào, dù bất cứ ở đâu thì người dân đen luôn luôn là kẻ tôi mọi phục vụ riêng cho gia tộc của kẻ đang nắm quyền cai trị và vận mạng đất nước. Tại sao 2 ông Giản và Hiệp lại có tội với nhà Nguyễn? Bởi vì Tự Đức xem đất nước Đại Nam là tài sản riêng của nhà Nguyễn nhất là những vùng lãnh thổ ở Nam Kỳ Hạ lại còn có những mối dây ràng buộc tình cảm đối với họ Nguyễn nói chung và đặc biệt với Tự Đức nói riêng. Phải chi trên thực tế Tự Đức là một vị minh quân tài đức biết hy sinh đời mình cho quốc gia dân tộc thì lời tuyên bố buộc tội 2 ông Phan, Lâm của vị minh quân sẽ trở thành khuôn vàng thước ngọc, một lời hiệu triệu mạnh mẽ để lôi kéo toàn quân, toàn dân một lòng liều chết chống trả quân xâm lược, nhưng thật tiếc thay người dân Đại Nam, đất nước Đại Nam vào thời đó không có được ông vua xứng đáng gọi là minh quân như thế!
BỊ LÊN ÁN LẦN THỨ NHÌ:
Sau khi chịu tiếp kiến phái đoàn sứ Pháp-Tây Ban Nha để nhận hoà ước Nhâm Tuất đã được Hoàng đế Napoleon III ký chuẩn phê, Tự Đức bằng lòng trao cho đối phương bản hoà ước Nhâm Tuất do chính tay mình chuẩn phê, Tự Đức lại đổ tội cho Phan Thanh Giản và Ông Lâm Duy Hiệp cùng với nhiều người khác và lần nầy kèm theo án phạt trảm giam hậu treo vào cổ 2 ông Phan, Lâm.
Có một điều đáng lưu ý ở đây là những người bị án phạt phải tự động làm tờ tự thú chính họ đã bất lực gây ra cớ sự và lạy xin Tự Đức hãy trừng phạt họ! Nhưng, Tự Đức đâu có độc đoán tự động trách phạt họ! Tự Đức lại giao xuống cho cơ quan pháp ti chấp án! Bởi vì có như vậy hậu thế mới thấy được Tự Đức là một ông vua công minh trong vấn đề xử phạt những kẻ có tội: thật là một ông vua khôn ngoan tột mức! Về việc nầy sách ĐNTLCB của sử quán triều Nguyễn trong tháng 3 âl năm Quý Hợi (1863) ghi chép như sau:
Nguyên binh bộ thượng thư lãnh tuần phủ Thuận Khánh la Lâm Duy Thiếp (Hiệp) mất Bộ lại tâu lên. Vua nói: Duy Thiếp chưa hay lập công chuộc tội, nhưng nghĩ đến người bầy tôi cũ, gia cấp cho hạng lụa màu và tiền, còn xử theo tội gì sau sẽ bàn định.
Bọn Đoàn Thọ, Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành tự cho là đi thương thuyết không được công trạng gì, xin chịu tội. Việc ấy giao xuống cho pháp tư bàn. Khi án dâng lên, Thanh Giản, Duy Thiếp (Hiệp) chiểu theo luật "thừa sai báo cáo quân kỳ" (nghĩa là vâng lệnh đi báo cáo kỳ hạn việc quân). Nghĩ tội trảm giam hậu. Đoàn Thọ, Trần Tiễn Thành so sánh vào luật "vi chế" nghĩ tội phạt trượng, thuộc về tội công chuẩn giáng 4 cấp đổi đi. Phạm Phú Thứ chiểu luật sai lầm ý trong chỉ dụ, giảm mức tội xuống nghĩ phạt trượng, chuẩn giáng 1 cấp lưu dụng.
Vua gia ơn cho Thanh Giản giảm xuống tội cách lưu; Thọ và Tiễn Thành xuống tội giáng chức lưu dùng. Duy Thiếp đã chết, truy đoạt lại chức hàm; Nguyễn Quang, Đặng Hạnh, Phạm Ý, Lê Tuấn cũng đều cho giáng, phạt có thứ bậc khác nhau. (ĐNTLCB;đệ tứ kỷ; quyển XXVIII; bản dịch; trang 14, 15; Hà Nội; 1974).
Hậu thế sẽ thắc mắc: tại sao đã biết là kẻ địch ép bức nhưng khi mặt đối mặt với kẻ thù nơi điện Thái Hòa, vị vua "khôn ngoan và kiên cường" của thần dân nước Đại Nam không ngó thẳng vào mặt kẻ địch để tố cáo bọn họ là một nhóm người xâm lăng cướp nước rồi cầm bản hòa ước có chữ ký của hoàng đế Napoléon III quăng xuống đất và truyền lệnh quân binh tống khứ bọn họ ra khỏi điện Thái Hòa?
Tại sao không đem ông Giản, ông Hiệp ra chém ngay đi cho rồi mà còn bày trò trảm giam hậu để làm gì? Cần gì phải chém ngay cho mang tiếng là hung bạo bất nhân, cứ để đó, trước sau gì rồi thì hai kẻ tử tội nầy cũng phải chết nhưng họ phải tự xử, tự tìm lấy cái chết cho mình chứ không phải do tay vị hoàng đế nhân từ sát hạ! Và đúng như ý muốn của Tự Đức, bởi vì tử tội Lâm Duy Hiệp đã "bị bệnh dịch tả" chết ngay vào lúc trao đổi hòa ước Nhâm Tuất, một cái chết rất đáng nghi ngờ, rất đáng dị nghị: phải chăng ông Hiệp đã tự xử lấy đời mình nhưng sử sách nhà Nguyễn lại lắp liếm viết rằng ông bị chết vì bị nhiễm lây bệnh dịch tả đang hoành hành lan tràn khắp miền Trung Kỳ vào lúc đó?
Đọc lại sử phong kiến Việt Nam, các kẻ bị gọi là kẻ thù hay bị coi là nguy hại cho một ông vua hay một triều đại thường bị án tử hình giam hậu nhưng hầu hết các tử tội đều tự xử lấy bằng cách uống thuốc độc hoặc tự treo cổ lúc còn bị giam giữ trong ngục chờ ngày lên đoạn lầu đài! Người ta sẽ tự hỏi trong ngục làm sao có sẵn thuốc độc hay dây thừng để kẻ tử tội tự xử nếu các thủ hạ của nhà vua không mang các thứ đó để sẵn trong ngục? Còn cái chết của ông Lâm Duy Hiệp sao lại trùng hợp một cách lạ lùng với bản án tử hình giam hậu mà pháp ti của triều đình Huế và Tự Đức sắp treo vào cổ ông Hiệp sau khi nghi thức chuẩn phê hòa ước Nhâm Tuất hoàn tất tại Huế. Đây có thể là một nghi án xin để người sau truy cứu thực hư.
Đổ tội, kết án trảm giam hậu ông Phan Thanh Giản nhưng không giam ông vào ngục thất để chờ giờ hành quyết nhưng lại buộc ông phải tiếp tục cái công tác mà không có một ông đại thần "tài giỏi" nào ở triều đình Huế dám tình nguyện đảm nhận và mặc dù ông Giản lúc nầy gần 70 đã nhiều lần xin Tự Đức cho được mãn nhiệm nghĩ hưu nhưng bị từ chối.