Chương 32
Tác giả: NQS
BỊ LÊN ÁN LẦN THỨ TƯ:
Sau khi Pháp xâm chiếm 3 tỉnh miền Tây và ông Giản tự xử, vào tháng 9 âl năm Đinh Mão (1867), Tự Đức khiến phủ Tôn nhân và đình thần nghị công tội Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản. Tự Đức ra dụ chỉ rằng: "Xứ Nam Kỳ 6 tỉnh, khi đầu bởi tại Nguyễn Tri Phương, tôn thất Cáp, Phạm Thế Hiển và Nguyễn Bá Nghi liệu phòng không hết sức; khi giữa bởi tại Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp (Hiệp) nghị hòa khinh bỏ; khi sau lại bởi tại Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản đi sứ không được việc gì; khi sau hết lại bởi tại bọn Phan Thanh Giản, Trương Văn Uyển, Nguyễn Hữu Cơ và Trần Hoán nhơn tuần nhác nhớn nên đến nỗi mất 6 tỉnh ấy. Truyền lập tức nghị tội bọn ấy, dâng lên ta sẽ đoán định". (Sử Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu (viết tắt SQTCBTY); in dịch ban cấp các trường học; năm 1925; trang 362).
♠ Đến tháng 11 âl năm Mậu Thìn (1868) đình thần tâu công tội Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Bá Nghi, Võ Trọng Bình. Sớ tâu gồm có 2 tập; 1 tập nghị xử tội về việc mất 3 tỉnh Nam Kỳ, 1 tập nghị thương công về việc dẹp yên giặc Bắc Kỳ. Tự Đức cho rằng đình nghị chưa được minh chánh mới sửa định lại rằng: Tri Phương và Bá Nghi cho khỏi giáng nhưng đình phong tước; Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp tội "trảm giam hậu đời đời"; Võ trọng Bình xử trí giặc hàng không xong, cũng đình phong tước. (SQTCBTY; đã dẫn; trang 370).
Sách ĐNTLCB cho thấy rằng Tự Đức và triều đình đã đổ hết tội lỗi cho ông Giản về việc để mất 6 tỉnh Nam Kỳ, kết tội: "xét phải tội chết, chưa đủ che được tội" và
nghị án "truy đoạt lại chức hàm và đục bỏ tên ở bia tiến sĩ, để mãi cái án trảm giam hậu". (ĐNTLCB; tập XXXI; Hà Nội 1974; trang 269).
♠ Năm 1886, vua Đồng Khánh lại khai phục nguyên hàm cho ông Giản và khắc lại tên ông ở bia tiến sĩ: cho ông Nguyễn Tri Phương dự thờ trong miếu Hiền lương, Phan Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp (Hiệp), Trương Văn Uyển đều được khai phục nguyên hàm. (SQTCBTY; đã dẫn; trang 436)
♠ Điều cần lưu ý là sách Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu của sử quán triều Nguyễn in dịch vào năm 1925 đã không viết gì về việc Tự Đức lên án kết tội "xét phải tội chết, chưa đủ che được tội" và nghị án "truy đoạt lại chức hàm và đục bỏ tên ở bia tiến sĩ. Tại sao? Phải chăng đây là một trong những chuyện xấu che tốt khoe không được phép gợi lại việc làm sai trái của tiên nhân dòng họ nhà Nguyễn?
♠ Một điểm khác nữa cần lưu ý là dù tiếng tâm và vinh dự của ông Giản đã được phục hồi từ niên hiệu Đồng Khánh thứ nhứt (1886) nhưng vì Đồng Khánh được người Pháp tấn phong lên làm vua (lên ngôi vào tháng 8 âl năm Ất Dậu / 14 tháng 9dl năm 1885) trong khi vua Hàm Nghi vẫn tiếp tục truyền hịch cần vương chống Pháp ở mạng Quảng Bình khiến dư luận lúc đó và về sau nầy cho rằng Đồng Khánh chỉ làm bù nhìn tay sai của người Pháp. Chính vì vậy mà việc Đồng Khánh khai phục nguyên hàm và khắc tên của ông Giản ở bia tiến sĩ không có một tác dụng thuyết phục mạnh mẽ đối với các phong trào chống Pháp vào thời đó cũng như sau nầy.
♠ Theo A.Schreiner, tác giả sách Abrégé de l'Histoire d' Annam phát hành tại Sài Gòn năm 1906, thay vì phải công nhận những hy sinh vô bờ bến của ông Giản thì Triều đình Huế lại bôi bẩn danh phận của ông. Sắc chỉ của Tự Đức ra lệnh nghị tội ông Phan Thanh Giản cho thấy rõ sự sự mù quáng cứng ngắt của các tầng lớp lãnh đạo triều đình nhà Nguyễn; triều đình nầy chỉ biết đỗ lỗi cho những thuộc cấp nhưng không biết được rằng chính sự ngu dốt của tập đoàn lãnh đạo ở Huế cùng với những định chế tồi tệ của đất nước mới chính là nguy cớ gây ra mọi điều khốn khó:
A leur retour dans la capitale, les employés des province occidentales avaient tous été degradés. Quant à Phan Thanh Giảng, au lieu de reconnaitre l'immensité de son sacrifice, la cour déshonnora officiellement sa mémoire. Voici le décret par lequel il est frappé, on ne fait qu'y remarquer l'aveuglement constant de la cour de Huế; invariablement ell s'en prend aux chefs alors que son ignorance propre et les institutions défectueuses du pays seules sont cause de tout la mal.(A.Schreiner; sách đã dẫn; trang 290,291).
A.Schreiner cũng cho rằng chính vì sự kết tội ông Phan Thanh Giản lần nầy của triều đình Huế theo lệnh của Tự Đức đã khiến cho các con trai của ông Giản nổi loạn chống lại người Pháp; bởi vì lương tâm sẽ không để cho những người con nầy được yên ổn và vì tự ái và sĩ diện họ sẽ hy sinh tất cả để tái tạo lại hình ảnh của người cha (trong cái nhìn của người dân An Nam), và làm thế nào mà họ có thể nổi loạn được như vậy nếu không phải là để đền bù lại điều tổn hại mà triều đình đã mạo xưng gán tội cho ông Giản. (A.Schreiner; sách đã dẫn; trang 292, 293).
VII /- NGƯỜI PHÁP VÀ ÔNG PHAN THANH GIẢN
♠ Người Pháp bắt đầu biết tên tuổi ông Phan Thanh Giản và ông Lâm Duy Hiệp khi hai ông vào Sài Gòn để khai diễn cuộc thương thuyết với họ vào 26 tháng 5 năm 1862. Ngày 5 tháng 6 dl năm 1862, ông Giản và ông Hiệp đã ký kết hòa ước Nhâm Tuất (1862). Ngày hôm sau, Bonard đã cho phổ biến thông cáo cho các đầu lĩnh quân nghĩa dũng kháng chiến biết rằng hòa ước đã được ký kết, yêu cầu họ phải tuân thủ và ngưng chiến đấu. Triều đình Huế cũng đã cắt cử Phan Thanh Giản đến tỉnh Vĩnh Long và Lâm Duy Hiệp đến tỉnh Bình Thuận để cố gắng hiểu dụ quân kháng chiến ngưng các hoạt động quấy rối. Tuy nhiên người Pháp cho rằng hai ông đã được triều đình Huế giao phó nhiệm vụ giả bộ kêu gọi quân kháng chiến ngưng tiếng súng nhưng phải làm ngơ và ngầm khuyến khích họ tiếp tục đánh phá, và mặc dù ông Phan Thanh Giản là một con người thức thời, thấy xa hiểu rộng, có một tâm hồn cao đẹp đã nhận thức được rằng tiếp tục chiến đấu chống lại người Pháp cũng vô ích mà thôi. Phải chăng ông Giản đã có thực tâm tái lập hòa bình nhưng khốn thay đất nước của ông lại không muốn như thế? Ông đã cực lực can ngăn viên thống soái không nên quá hấp tấp và cam kết là ông sẽ khuyến dụ được các nhóm kháng chiến tuân thủ các điều ký kết trong bản hòa ước Nhâm Tuất. (A. Schreiner; sách đã dẫn; trang 246, 247). Và đó là tình hình rối ren ở Nam Kỳ Hạ ngay sau khi hòa ước Nhâm Tuất vừa được ký kết nhưng chưa được chính phủ hai bên phê chuẩn.
*
Sau khi tạo dựng các hạ tầng cơ sở cần yếu cho việc áp dụng chính sách thuộc địa của người Pháp trên các vùng lãnh thổ đang chiếm đóng và sau khi được tăng viện thêm quân binh từ Thượng Hải (Trung Quốc), Bonard đã tung ra những chiến dịch hành quân bình định, càn quét các nhóm quân kháng chiến và quan trọng hơn hết chiếm đóng tỉnh Gò Công - nơi chôn nhao cắt rún của bà mẹ sinh ra Tự Đức - mà hiện thời là một trung tâm đầu não của kháng chiến quân để tái lập trật tự trị an và tạo áp lực với triều đình Huế trong tiến trình phê chuẩn hòa ước Nhâm Tuất 1862. Kết quả là nghi thức trao đổi hoà ước Nhâm Tuất được phê chuẩn đã tiến hành long trọng tại Huế vào hai ngày 13 và 24 tháng 4 dl năm 1863 để rồi ngay sau đó Tự Đức đã cắt cử Phan Thanh Giản cầm đầu một phái đoàn sứ sang Pháp để mưu tính việc chuộc lại cho bằng được bằng mọi giá các vùng đất ở Nam Kỳ Hạ đang nằm trong tay của người Pháp.
♠ Người Pháp ở Paris và ông Phan Thanh Giản
Trong chuyến đi nầy, vua quan triều đình Pháp đã có một thái độ kính trọng và khâm phục về cung cách đối ứng của Hiệp biện đại học sĩ Phan Thanh Giản: bài đọc diễn văn của ông trầm bổng, khẩn cấp, trân trọng, rung cảm, trách cứ đã gây xúc động cho nhiều người trong buổi tiếp kiến tại điện Tuileries.
Lễ phục uy nghi và ngoạn mục của sứ đoàn đã làm cho mọi người trầm trồ chóa mắt hết lời khen ngợi.
(Les costumes de cérémonie étranges et somptueux des ambassadeurs firent sensation. D’une voix grave et tremblante d’émotion, et en un récitatif plaintif et à moitié chantant, Phan-Thanh-Gian prononça son discours aussitôt traduit par M. Aubaret. Le spectacle de ce beau et noble vieillard, pleurant en quelque sorte les malheursde sa lointaine patrie, causa une impression profonde, et plus d’une des dames de la suite impériale essuya une larme furtive.(Bài viết "L’ambassade de Phan-Thanh-Gian en 1863, d’après les documents français" của A Dalvaux đăng trên Đô Thành Hiếu Cổ Tập San/BAVH 1-3/ 1926 ; trang 73).
En un mot, le succès de la Mission annamite paraissait complet, vuque la Cour de Hué obtenait, selon son désir, la reprise des négociations à peu près sur le pied du statu quo ante.
("L’ambassade de Phan-Thanh-Gian en 1863, d’après les documents français" của A Dalvaux đăng trên Đô Thành Hiếu Cổ Tập San/BAVH 1-3/ 1926 ; trang 74).
Tạm dịch: Nói tóm lại, đoàn sứ An Nam được xem như là đã thành công hoàn toàn, nếu so với mong ước của triều đình Huế là chỉ muốn được thương lượng trở lại về một tình trang đã trở thành thự tế.
*
Phái đoàn sứ Phan Than Giản về đến Sài Gòn ngày 18 tháng 3 dl năm 1864. Đi theo phái đoàn về Sài Gòn còn có phó hạm trưởng Boresse của Pháp được cử làm thanh tra sự vụ người bản xứ. Tất cả đều được thống đốc La Grandière và các người Pháp ở Sài Gòn tiếp đón trọng thể và dù có bất mãn lo âu nhưng họ đã có thái độ kính trọng và khâm phục một cách đặc biệt đối với ông Phan Thanh Giản vì cung cách dấn thân phục vụ của ông cho đất nước Đại Nam.
Tờ báo Le Courier de Saigon (số ra ngày 22 tháng 3 dl năm 1864) đã viết nhiều đề mục ca tụng phái đoàn sứ Đại Nam và mô tả lại những buổi tiệc khoản đãi, những cuộc du ngoạn thăm viếng của phái đoàn quanh vùng Sài Gòn-Chợ Lớn đang đổi mới. Tờ báo có đoạn viết:
Ngày hôm sau, phái đoàn vào Chợ Lớn: họ đi xem các cầu cống, các công trình quy mô chỉnh trang các bến cảng và các đường phố của khu vực rộng lớn nầy.
Ba vị đại sứ đi bộ với hai quan chức người Pháp hộ tống, họ không có lọng che (lọng che là một hình thức biểu hiệu uy quyền của họ) và khi đi ngoài trời họ không ngần ngại trú nắng dưới những cái dù che bình thường đơn sơ. Một đám đông dân chúng bao quanh phái đoàn nhưng không có ai tỏ dấu hiệu la chộ vì hình ảnh giảm cấp quyền uy nầy.)
("L’ambassade de Phan-Thanh-Gian en 1863, d’après les documents français" của A Dalvaux đăng trên Đô Thành Hiếu Cổ Tập San/BAVH 1-3/ 1926 ; trang 76).
♠ Người Pháp so sánh ông Phan Thanh Giản với ông Nguyễn Tri Phương
Sau vụ bạo loạn của nhóm Đông Sơn Thi Tửu (vụ Hồng Bảo/ 16-6-1866) ngay tại Huế, Tự Đức cảm thấy tình hình an ninh bất ổn cho nên đã ra lệnh triệu hồi viên tướng tài ba được mọi người kính trọng là Nguyễn Tri Phương đang thống lãnh việc hành quân diệt trừ thảo khấu ở Bắc Kỳ về phụng mạng tại kinh đô. Nhân viết lại việc nầy, người Pháp đã so sánh và đánh giá hai ông Giản và ông Phương như sau:
Tự Đức, ne sentant plus en sécurité, arrivait à se méfier de tout le monde. Il rappela du Tonkin Nguyễn Tri Phương qui était universellement respecté. Le vaillant mandarin revint à la tête d'un corps de troupe ayant pour tout bagage personnel quelques vêtements, usés par la campagne, qu'un soldat portait déployés au bout d' une lancẹ Nguyễn Tri Phương démontrait ainsi que la guerre ne l' avait pas enrichi, et le désintéressement de ce vieux militaire était aussi réel que celui de son ancien second Phan Thanh Giảng.
Ces deux hommes ont fournis des exemples de vertu civique et militaire que l'histoire des peuples d' Occident ne denierait pas et qu'on est heureux de pouvoir signaler au milieu des turpitudes et de la duplicité des mandarins annamites. Nous remarquons toutefois l'extraordinaire dissemblance d'idées entre Phan Thanh Giảng et Nguyễn Tri Phương. Le premier, frappé de la puissance de notre savoir et de notre civilisation, aurait voulu amener ses compatriotes à suivre nos enseignements. Le second, persuadé de la supériorité de l 'éducation chinoise, n' admettait aucune compromission avec la science des hommes d' Occident. Phan Thanh Giảng, était le représentant du progrès éclairé; Nguyễn Tri Phương, celui du conservatisme irréductible; tous deux était convaincus, tou deux était honnêtes. (A. Schreiner; sách đã dẫn; trang 282,283)
Tạm dịch : Tự Đức, vì thấy rằng tình hình an ninh bất ổn cho nên không còn tin cẩn với bất cứ ai cho nên mới triệu hồi ông Nguyễn Tri Phương đang được trọng vọng kính phục khắp nơi từ Bắc kỳ hồi kinh. Vị tướng dũng cảm dẫn đâu đoàn quân trở về với một bó hành trang áo quần cá nhân sờn cũ qua suốt thời gian chiến dịch và do một quân binh hộ vệ xách treo trên đầu một ngọn giáo. Nguyễn Tri Phương cho thấy là chiến tranh không giúp ông giàu sang hơn và thái độ bất cần phú quý của vị lão quan nầy tỏ rõ thực sự không thua gì so với vị quan phụ tá cũ của ông là Phan Thanh Giản(g).
Hai vị quan nầy đã cung cấp những mẫu mực về đức hạnh của một người công dân cũng như đạo đức của một người quân nhân, những mẫu mực đạo đức mà người Tây phương không thể nào chối bỏ không thừa nhận và người ta thật vui sướng vì đã tế nhận ra được những mẫu mực đó giữa những sự ô nhục và sự giả trá lật lọng của các hàng quan lại người An Nam. Song le, chúng ta vẫn nhận thấy được sự khác biệt lớn lao về mặt tư tưởng giữa Phan Thanh Giản(g) và Nguyễn Tri Phương. Ông Phan Thanh Giản(g) thì bị khắc sâu ấn tượng về năng lực hiểu biết và nền văn minh của chúng ta cho nên ông dã mong muốn hướng đưa đồng bào của ông đi theo những đường hướng giáo dục của chúng ta. Còn ông Nguyễn Tri Phương thì lại tin tưởng tính ưu việt của nền giáo giục Trung Hoa cho nên ông nầy đã không hề chịu chấp nhận để cho mình bị lung lạc hư hỏng bởi nền khoa học của người Tây phương. Ông Phan Thanh Giản(g) là đại diện cho sự soi sáng tiến bộ. Còn ông Nguyễn Tri Phương là đại điện cho chủ nghĩa thủ cựu không khoan nhượng. Cả hai người đều tự tín; cả hai người đều chính trực.
Người Pháp với cái chết của ông Phan Thanh Giản
♠ De la Grandière
"Phó Đề đốc, thống đốc kiêm tổng tư lệnh quân lực Nam Kỳ, gởi đến ông trưởng nam của Ngài Phan Thanh Giảng phụ chính khâm sai đại thần của Vương quốc An Nam.
tại Vĩnh Long.
Tôi rất là đau buồn biết được tin về cái chết của Ngài Phan Thanh Giảng thân phụ của ông.
Vương quốc An Nam, mà trong đó ngài Phan Thanh Giảng là một thành viên lỗi lạc hơn hết, đã đánh mất đi một trong những phần vinh quang, trí thức và tình cảm sâu đậm quý mến của vị quan lão thành nầy, nhưng những điều đó vẫn đang lưu lại trong trí óc của tôi cũng như trong trí óc của người Pháp một cách bền vững hơn là sự oán ghét của những quân thù của vị quan lão thành ấy.
Ngoài phụ thân của ông trưởng nam ra, nơi triều đình Huế không còn ai nhận thức được những điều gì cần phải thực hiện để bảo đảm cho người dân có thể sống hạnh phúc và chính là vì vấn đề có liên hệ đến cảm tính cùng với đức tự trọng đã khiến cho vị quan lão thành nầy không còn thiết sống dưới dự chi phối của những hậu quả chính trị sai trái và dẫy đầy trách nhiệm do chính quyền của triều đình nước An Nam tạo ra.
Những biểu lộ chính thức về lòng kính mến và tình bằng hữu của tôi trong lá thư nầy ông cần phải lưu giữ lại trong gia tộc như là một bằng chứng về những cảm tình mà người Pháp sẽ giữ riêng cho phụ thân đáng kính của ông và gia tộc của ông ấy.
Ông hãy tin rằng tôi sẽ cố gắng bằng mọi phương cách mà tôi có được để đảm bảo cho con cháu của vị quan lão thành có được những quyền lợi và chức vị thích hợp với họ trong tương lai.
Xin ông hãy chấp nhận lòng kính trọng rất đặc biệt của tôi.
Sài Gòn ngày 15 tháng 10 dl năm 1867
Ký tên: De la Grandière"
(Xin đọc lại nguyên văn lá thư nầy nơi trang 285)
♠ Paulin Vial, Giám đốc Nha Nội Vụ Nam Kỳ:
Cái chết của Phan Thanh Giảng đã làm vinh danh co một nếp sống trong sạch và cần mẫn....Trong 5 năm, ông là người khôn ngoan,sáng suốt hơn cả trong số những người An Nam, ông đã không ngừng nghỉ chống lại một cách kiên quyết ảnh hưởng của người Pháp chúng ta, có lúc thỏa hiệp với những thành kiến và ảo tưởng của những đồng hương của ông để mong đợi rằng người Pháp chúng ta sẽ bỏ cuộc về việc bảo đảm vật chất do chính lời tuyên bố của Tự Đực chấp nhận quyền tự do của 500,000 tín đồ gia tô đang được chúng ta che chở; tuy nhiên khi được tiếp xúc, ông đã chịu đón nhận nét thu hút về phong tục tập quán của người Pháp chúng ta, nhất là những tư tưởng về tôn giáo. Rốt cuộc rồi ông biết được rằng chúng ta có một đẳng cấp xã hội cao, linh hoạt hơn, khai phóng hơn và độ lượng so với những quốc gia phương Đông; ông biết giá trị những lợi ích của một nền thương mại tự do và giá trị của sự hoà nhập những nền khoa học giữa các dân tộc và bởi vì ông yêu thương những người đồng bào của ông, vì muốn cho họ được hạnh phúc và càng lúc càng cảm thấy tin tưởng về tương lai của họ vì thế ông đã để mặc cho đồng bào của ông tự giải quyết lấy số phận của họ, nhưng không phải là ông không còn vướng bận hối tiếc gì về những điều trong quá khứ, trong thâm sâu của tâm hồn thì ông vẫn còn đang lưỡng lự giữa một bên là cuộc sống mới đang tác động mạnh mẽ vào năng trí của ông và một bên là những hoài niệm xa xưa của con tim lôi kéo ông trở về những nguyên lý mà ông phải theo trong thời xuân trẻ. (Trích dẫn của A. Schreiner; sách đã dẫn; trang 288, 289).
♠ Ed Wyts, hạm trưởng khu trục hạm tham dự trận chiến xâm chiếm 3 tỉnh miền Tây :
( Trích sao từ tập san Revue maritime et coloniale / Bộ Hải Quân và Thuộc Địa/Ministère de la marine et des colonies . Quyển 1, số 1 (1861, janv./févr.)- Tập 128, số 414 (1896, mars); trang 914, 915). Nhà phát hành : Paris : Librairie de L. Hachette, 1861-1896)
Tạm dịch:
Vĩnh Long không phải là một mặt trận xa lạ đối với người Pháp chúng ta. Tỉnh thành nầy, mà chúng ta đã chiếm được và ngay sau đó thuộc về chúng ta bằng một hiệp ước, hồi trước đây đã từng kháng cự mạnh mẽ chống lại chúng ta. Vì vậy chúng ta đã chờ đợi lần nầy sẽ phải là một trận chiến ác liệt. Vậy mà không thấy có một phát súng trọng pháo nào và chiếc tàu chiến Thành đô Huế của người An Nam vẫn câm lặng thả neo nằm yên một chỗ như không có gì xảy ra. Dĩ nhiên là có một vài ông quan lớn của triều đình đã vội vã nhảy lên những chiếc thuyền mành chèo bơi đi thật nhanh và đã bị chúng ta bắt được.
Phan-tan-gian (Phan Thanh Giản) tự mình ra hộ tống hạm Ondine mang hiệu kỳ của đề đốc ủy nhiệm.
Sau cuộc gặp mặt giữa nầy, chúng ta đã đi vào thành với súng trong tay ngay lúc đó chúng ta đã chiếm lấy thành và quân binh của chúng ta liền được phối trí ngay lập tức để canh giữ các kho lúa gạo và đến nay các kho nầy được dùng như là những trại quân của chúng ta.
Đề đốc đã chính thức đến tiếp thâu sự chiếm hữu vào buổi chiều, từ bến tàu đi vào thành, các đội binh xếp thành hàng rào hai bên đường, và hai đại đội lính pháo thủ hải quân đi theo hộ vệ, chia thành từng nhóm đội hình.
Đề đốc đến tận trú dinh của quan kinh lược và được quan kinh lược đứng đón từ cổng dinh.
Tôi đã từng nhìn thấy Phan-tan-gian tại bộ chỉ huy hải quân ở Sài Gòn. Tôi đã từng cảm thấy xúc động vì về dáng vẻ thanh tao và tươi cười của ông khi ông vuốt ve âu yếm một trong những đứa con của viên thống soái,- một đứa bé gái dễ thương-đang trố mắt sửng sốt, lạ lùng nhìn ông trong xiêm y nhung gấm màu xanh và bị chới với mất hướng vì cái nét trịnh trọng đông phương của ông.
Bây giờ thì cái dáng vẻ tươi vui của một vị đại quan đã biến mất và tôi thấy ông già đi, xanh xao và sầu muộn.
Và kể từ đó tôi đã không bao giờ còn được gặp lại ông. Về sau, khi tôi quay trở lại Vĩnh Long thì ông không còn nữa. Ông đã ra đi để gặp lại tổ tiên, nằm an nghỉ bên cạnh họ trong một ngôi làng ở vùng Nam Kỳ Hạ, nơi đó đề đốc ủy nhiệm de la Grandière đã ra lệnh cho thi hành việc tống táng di hài của ông theo lễ nghi quân cách rất long trọng.
Người ta nói lại rằng ông tự uống thuốc độc quyên sinh, và trước khi chết ông đã gọi các trai của ông đến đứng quanh và kêu nài họ đừng bao giờ dùng súng đạn@ để chống lại nước Pháp.
Dù đã được trối trăn dặn dò như thế, sau khi ông chết, các người con trai của ông đã tự ý mình cầm đầu những nhóm nổi dậy.
*
Chú giải & khảo luận:
@ Đừng bao giờ dùng súng đạn để chống lại nước Pháp:
Câu viết nầy không thể hiểu là không được chống lại nước Pháp, nhưng đối với riêng chúng tôi hiểu ý câu nầy có nghĩa là nước Đại Nam không có đủ khả năng quân sự để có thể chống lại nước Pháp nhưng phải dùng mưu lược để chống lại họ. Như vậy có thể là ông Giản đã khuyên con trai mình vẫn cứ tiếp tục chống Pháp nhưng không phải chống Pháp bằng còn đường vũ lực. Phải chăng đây là một lời trối khéo léo để qua mặt người Pháp lúc đó đang bao quanh trong những giờ phút cuối cùng của đời ông. Trước mặt họ, ông Giản không thể nào nói một cách tách bạch rằng "các con phải tiếp tục chống lại người Pháp nhưng vì không thể nào thắng họ bằng súng đạn được cho nên các con phải dùng mưu chước khác". Mưu chước khác ở đây tức là phải noi theo và bắt chước sự văn minh tiến bộ của người Pháp rồi dùng sự văn minh tiến bộ đó để đánh trả lại bọn họ.
Vậy các con trai của ông có thấu hiểu lời trối khéo léo của ông hay không? Có thể là họ hiểu ý của ông muốn họ cứ tiếp tục chống Pháp nhưng họ lại thực hành trái ngược với lời khuyên của ông không nên dùng phương tiện quân sự yếu kém của mình để chống lại quân xâm lược và vì thế họ cũng bị sụp đỗ thất bại.
VIII/ - NHỮNG NHÂN VẬT LỊCH SỬ VIỆT NAM VỚI CÁI CHẾT CỦA ÔNG PHAN THANH GIẢN
♠ Điếu văn của ông Phạm Phú Thứ:
"Một thân thờ ba triều, làm quan hơn bốn mươi năm, già hơn bảy mươi tuổi, rất từng trải kinh nghiệm, được tôn trọng và tin cậy trong triều cũng như trong nhân dân. Học rộng phẩm cách tuyệt vời, dù hoàn cảnh trái ngược đến bao nhiêu, ngài cũng không bao giờ là người hại nước. Dù hoàn cảnh ngang trái thế nào, ngài vẫn giữ trọn tấm lòng cao thượng.
"Những bọn hèn đứng thấp chẳng thấy gì, la hét nhảy nhót như mê như say, nào có biết đâu tình thế nước nhà.
"Tiếc cho ý chí của ngài không được thực hiện."
(Nguyễn Văn Ba; Phan Thanh Giản hay Cuộc Hòa Bình dang dở Pháp Việt 15-07-1864; báo Đại Chúng số 116 ; ngày 15/03/2003 đăng trên mạng lưới internet http://www.daichung.com)./)
♠ Điếu văn của Nguyễn Đình Chiểu,
tác giả Lục Vân Tiên :
Non nước tan tành hệ bởi đâu ?
Dàu dàu mây bạc cõi Ngao Châu.
Ba triều công cán vài hàng sớ,
Sáu tỉnh cương thường một gánh thâu.
Ải Bắc ngày trông tin điệp vắng,
Thành Nam đêm lắng tiếng quyên sầu.
Minh sinh chín chữ lòng son tạc,
Trời đất từ đây mặc gió thâu.
(Nguyễn Văn Ba; Phan Thanh Giản hay Cuộc Hòa Bình dang dở Pháp Việt 15-07-1864; báo Đại Chúng số 116 ; ngày 15/03/2003 đăng trên mạng lưới http://www.daichung.com)./ ).
♠ Sách Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện:
"Thanh Giản là người ngay thực, giữ lòng liêm khiết, làm quan cần mẫn, thận trọng, gặp việc dám nói. Trải thờ ba triều, vẫn được yêu quý. Đến khi mang cờ tiết đi Nam, thế không làm sao được, biết tội tự uống thuốc độc chết. Thực là ở vào chỗ người ta khó xự xem tờ sớ để lại thì lòng trung ái chứa chan ở ngoài lời nói"
(Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện; tập 4; Huế 1993; trang 46)
♠ Sách Sử Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu:
"Năm Đinh Hợi, niên hiệu Đồng Khánh, năm đầu (1886), tháng 11 âl, cho Nguyễn Tri Phương dư, thờ trong miếu Hiền Vương, Phan Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp, Trương Văn Uyển đều được khai phục nguyên hàm"
(Sử quán triều Nguyễn; Sử Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu; bản dịch; 1925; trang 432),
♠ Trần Trọng Kim/ VIỆT NAM SỬ LƯỢC :
"Tháng 6 năm đinh -mão (1867) là năm Tự Đức thứ 20, thiếu tướng De la Grandière hội hơn 1,000 ở Mỹ-tho, rồi định ngày kéo sang lấy Vĩnh-long, An-giang và Hà-tiên. Ông Phan thanh Giản biết thế không chống nổi, bảo các quan đành chịu nộp thành trì cho khỏi sự tai hại, rồi ông uống thuốc độc mà tự tận, dặn lại con cái phải cày ruộng mà ăn, chứ không được nhận quan chức gì ở Nam Kỳ.
Bấy giờ ông đã già, đã ngoài 74 tuổi, làm quan thật là thanh liêm nhưng chẳng may gặp phải khi nước có biến, biết thế mình không làm gì được, đem tấm lòng son sắt mà báo đền ơn nước cho hết bổn phận người làm tôi."
(Trần Trọng Kim; Việt Nam Sử Lược; quyển II; trang 265; Bộ Giáo Dục-Trung Tâm Học Liệu xuất bản; lần thứ nhứt; 1971; Sài Gòn.
*Lưu ý: Trần Trọng Kim trước đây đã viết cuốn Việt-Nam Sử-Lược từ thời Hồng Bàng (2879) trước Tây-lịch kỷ-nguyên cho tới năm 1902 sau Tây-lịch (xin đọc Trần Trọng Kim; sách đã dẫn; đoạn cuối trang 347) và được in xuất bản lần thứ nhứt; Trung Bắc Tân Văn; Hà Nội ;1920.
* Chi tiết về việc xuất bản lần thứ nhứt sách VNSL ở Hà Nội vào năm 1920 có các điểm sau đây cần lưu ý:
1/-Tạp chí Quê Hương điện tử đăng rải cuốn “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim viết vào năm 1919, in lần thứ nhất năm 1921, để Bạn đọc tham khảo. ...(ww.quehuong.vnn.vn/so317-2005/uni_lichsu.htm - 210k - Cached - Similar pages ):
Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, in lần thứ nhất. Trung Bắc Tân Văn, Hà Nội 1920
Tạp chí Quê Hương trên internet
của Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài
Tổng biên tập: Đặng Trần Phong
Thư ký số này: Thu Lê
Số ra ngày 4/3/2005 (317)
VIỆT NAM SỬ LƯỢC Trần Trọng Kim
LỜI GIỚI THIỆU CỦA BAN BIÊN TẬP TẠP CHÍ QUÊ HƯƠNG
Sau khi đăng rải cuốn “Tóm tắt Niên biểu lịch sử Việt Nam” do Hà Văn Thư - Trần Hồng Đức biên soạn và cuốn “Lược khảo binh chế Việt Nam qua các thời đại” của Tiên Đàm Nguyễn Tường Phượng, bắt đầu từ số này, tạp chí Quê Hương điện tử đăng rải cuốn “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim viết vào năm 1919, in lần thứ nhất năm 1921, để Bạn đọc tham khảo. Một số chỗ có chữ "(BT)" là do QH biên tâp.
Đây là cuốn Lịch sử Việt Nam đầu tiên được viết bằng chữ quốc ngữ với phương pháp viết mới khác hẳn những cuốn Việt sử bằng chữ Hán Nôm xưa kia, tác giả lúc đó là một nhà giáo có tên tuổi.
Cho tới nay, cuốn Việt Nam sử lược vẫn được đánh giá là ngắn gọn, sinh động và dễ đọc dễ nhớ. (http://www.quehuong.vnn.vn/so317-2005/uni_lichsu.htm )
2/- Như vậy có thể suy định rằng: sách VNSL của Trần Trọng Kim đã có ở miền Bắc nước Việt Nam kể từ năm 1920.
Sách nầy được Bộ Quốc Gia Giáo Dục ở Sài Gòn xuất bản lần thứ nhứt vào năm 1971.
*
BỊ LÊN ÁN LẦN THỨ NĂM :
Sau khi Pháp xâm chiếm 3 tỉnh miền Tây và ông Giản tự xử, vào tháng 9 âl năm Đinh Mão (1867), Tự Đức khiến phủ Tôn nhơn và đình thần nghị công tội Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản. Tự Đức ra dụ chỉ rằng: "Xứ Nam Kỳ 6 tỉnh, khi đầu bởi tại Nguyễn Tri Phương, tôn thất Cáp, Phạm Thế Hiển và Nguyễn Bá Nghi liệu phòng không hết sức; khi giữa bởi tại Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp (Hiệp) nghị hòa khinh bỏ; khi sau lại bởi tại Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản đi sứ không được việc gì; khi sau hết lại bởi tại bọn Phan Thanh Giản, Trương Văn Uyển, Nguyễn Hữu Cơ và Trần Hoán nhơn tuần nhác nhớn nên đến nỗi mất 6 tỉnh ấy. Truyền lập tức nghị tội bọn ấy, dâng lên ta sẽ đoán định". (Sử Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu (viết tắt SQTCBTY); in dịch ban cấp các trường học; năm 1925; trang 362).
♠ Đến tháng 11 âl năm Mậu Thìn (1868) đình thần tâu công tội Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Bá Nghi, Võ Trọng Bình. Sớ tâu gồm có 2 tập; 1 tập nghị xử tội về việc mất 3 tỉnh Nam Kỳ, 1 tập nghị thương công về việc dẹp yên giặc Bắc Kỳ. Tự Đức cho rằng đình nghị chưa được minh chánh mới sửa định lại rằng: Tri Phương và Bá Nghi cho khỏi giáng nhưng đình phong tước; Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp tội "trảm giam hậu đời đời"; Võ trọng Bình xử trí giặc hàng không xong, cũng đình phong tước. (SQTCBTY; đã dẫn; trang 370).
Sách ĐNTLCB cho thấy rằng Tự Đức và triều đình đã đổ hết tội lỗi cho ông Giản về việc để mất 6 tỉnh Nam Kỳ, kết tội: "xét phải tội chết, chưa đủ che được tội" và
nghị án "truy đoạt lại chức hàm và đục bỏ tên ở bia tiến sĩ, để mãi cái án trảm giam hậu". (ĐNTLCB; tập XXXI; Hà Nội 1974; trang 269).
♠ Năm 1886, vua Đồng Khánh lại khai phục nguyên hàm cho ông Giản và khắc lại tên ông ở bia tiến sĩ: cho ông Nguyễn Tri Phương dự thờ trong miếu Hiền lương, Phan Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp (Hiệp), Trương Văn Uyển đều được khai phục nguyên hàm. (SQTCBTY; đã dẫn; trang 436)
♠ Điều cần lưu ý là sách Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu của sử quán triều Nguyễn in dịch vào năm 1925 đã không viết gì về việc Tự Đức lên án kết tội "xét phải tội chết, chưa đủ che được tội" và nghị án "truy đoạt lại chức hàm và đục bỏ tên ở bia tiến sĩ. Tại sao? Phải chăng đây là một trong những chuyện xấu che tốt khoe không được phép gợi lại việc làm sai trái của tiên nhân dòng họ nhà Nguyễn?
♠ Một điểm khác nữa cần lưu ý là dù tiếng tâm và vinh dự của ông Giản đã được phục hồi từ niên hiệu Đồng Khánh thứ nhứt (1886) nhưng vì Đồng Khánh được người Pháp tấn phong lên làm vua (lên ngôi vào tháng 8 âl năm Ất Dậu / 14 tháng 9dl năm 1885) trong khi vua Hàm Nghi vẫn tiếp tục truyền hịch cần vương chống Pháp ở mạng Quảng Bình khiến dư luận lúc đó và về sau nầy cho rằng Đồng Khánh chỉ làm bù nhìn tay sai của người Pháp. Chính vì vậy mà việc Đồng Khánh khai phục nguyên hàm và khắc tên của ông Giản ở bia tiến sĩ không có một tác dụng thuyết phục mạnh mẽ đối với các phong trào chống Pháp vào thời đó cũng như sau nầy.
♠ Theo A.Schreiner, tác giả sách Abrégé de l'His-
toire d' Annam phát hành tại Sài Gòn năm 1906, thay vì phải công nhận những hy sinh vô bờ bến của ông Giản thì Triều đình Huế lại bôi bẩn danh phận của ông. Sắc chỉ của Tự Đức ra lệnh nghị tội ông Phan Thanh Giản cho thấy rõ sự sự mù quáng cứng ngắt của các tầng lớp lãnh đạo triều đình nhà Nguyễn; triều đình nầy chỉ biết đỗ lỗi cho những thuộc cấp nhưng không biết được rằng chính sự ngu dốt của tập đoàn lãnh đạo ở Huế cùng với những định chế tồi tệ của đất nước mới chính là nguy cớ gây ra mọi điều khốn khó:
A leur retour dans la capitale, les employés des province occidentales avaient tous été degradés. Quant à Phan Thanh Giảng, au lieu de reconnaitre l'immensité de son sacrifice, la cour déshonnora officiellement sa mémoire. Voici le décret par lequel il est frappé, on ne fait qu'y remarquer l'aveuglement constant de la cour de Huế; invariablement ell s'en prend aux chefs alors que son ignorance propre et les institutions défectueuses du pays seules sont cause de tout la mal.(A.Schreiner; sách đã dẫn; trang 290,291).
A.Schreiner cũng cho rằng chính vì sự kết tội ông Phan Thanh Giản lần nầy của triều đình Huế theo lệnh của Tự Đức đã khiến cho các con trai của ông Giản nổi loạn chống lại người Pháp; bởi vì lương tâm sẽ không để cho những người con nầy được yên ổn và vì tự ái và sĩ diện họ sẽ hy sinh tất cả để tái tạo lại hình ảnh của người cha (trong cái nhìncủa người dân An Nam), và làm thế nào mà họ có thể nổi loạn được như vậy nếu không phải là để đền bù lại điều tổn hại mà triều đình đã mạo xưng gán tội cho ông Giản. (A.Schreiner; sách đã dẫn; trang 292, 293).