Chương 28
Tác giả: Graham Greene
Chúng tôi lại rơi khu rừng với những thân cây cong queo và nứt nẻ, chúc xuống mặt sông, và bay ngang trên cánh đồng bỏ hoang, rồi chiếc máy bay bỗng nhằm thẳng một con thuyền tam bản đang lênh đênh trên mặt nước màu vàng mà lao xuống.
Khẩu đại bác chỉ bắn một quả đạn lửa, và chiếc thuyền tan ra thành nhiều mảnh, bay tung lên rồi rơi xuống như một trận mưa tàn lửa, chúng tôi không cần chờ xem những nạn nhân có ngoi ngóp bơi mong thoát chết không, chúng tôi bay vọt lên và trở về căn cứ. Một lần nữa, như khi ở Phát Diệm, lúc thấy xác đứa nhỏ, tôi lại nghĩ: "Sao mà tôi căm thù chiến tranh thế!". Thật là đáng phẫn nộ khi phải chọn một cái mồi cho thần chết, bay vù qua, chỉ một phát đạn là đủ, và không gặp một sự chống trả nào. Rồi chúng tôi lại tiếp tục đi, sau khi đã đóng góp cái suất nhỏ bé của mình vào tổng số người chết trên đời này.
Tôi cầm lấy ống nghe để hiểu Truand định nói gì.
- Bây giờ bay vòng đi đường khác. Cảnh mặt trời lặn trên những núi đá vôi thật kỳ ảo. Anh thế nào cũng phải khoe với khách cảnh đẹp của trang trại mình.
Trong hơn 100 km, chúng tôi bay theo vệt sáng của mặt trời trên vịnh Hạ Long. Bộ mặt Truand chụp cái mũ như người của sao Hỏa, cúi nhìn những lùm cây đỏ ối chạy dưới kia những ụ và vòm đá xốp, và vết thương của tội giết người không thấy ứa máu nữa.
Tối hôm đó, đại uý Truand cố mời tôi đi tiệm hút, tuy chính hắn không hút. Hắn ưa ngửi thuốc phiện, theo lời hắn, hắn thích cái cảm giác êm ả của nó khi một ngày chấm dứt, nhưng vì nghề nghiệp, hắn không được phép đi xa hơn trong việc tìm sự lắng dịu này. Cũng có dăm sĩ quan hút nhưng họ thuộc về bộ binh. Còn hắn, hắn cần có một giấc ngủ trọn vẹn. Chúng tôi nằm dìa trong một cái vòm nhỏ, trong cả một dẫy vòm giống như phòng ngủ của một ký túc xá, và người Hoa chủ tiệm sửa soạn tiêm thuốc cho tôi. Đó là lần đầu, tôi hút kể từ khi Phượng bỏ tôi. Bên phía đối diện của phòng, một người phụ nữ lai Âu, sau khi đã hút, nằm co đôi chân tuyệt đẹp, đọc một tờ tạp chí in trên giấy láng, và ở trong cái ô cạnh đó, hai người Hoa đứng tuổi bàn chuyện làm ăn, điếu gác một bên, thỉnh thoảng lại uống một hớp nước nhỏ.
- Chiếc thuyền chiều nay là của ai - Tôi hỏi - Nó có làm điều gì hại đâu?
- Biết đâu đấy? - Truand trả lời - Chúng tôi được lệnh thấy cái gì trên các đoạn sông chạy thẳng thì bắn vào cái đó.
Tôi hút điếu thứ nhất. Cố xua đuổi nỗi nhớ những điếu hút ở nhà mình.
- Cuộc ném bom hôm nay - Truand nói tiếp - Không phải là một cuộc ném bom tồi tệ nhất đối với một người như tôi. Họ có thể bắn rơi chúng ta trên ngôi làng. Cả hai bên đều chịu những sự đe doạ ngang nhau. Tôi kinh tởm nhất những vụ ném bom napal. Ném từ trên độ cao 1.000 m, rất an toàn (hắn phác ra một cử chỉ ngao ngán), khu rừng sẽ bốc cháy. Có trời biết được nếu đang ở dưới mặt đất thì người ta thấy được những cái gì. Những kẻ khốn khổ bị thiêu sống, lửa cứ như những đợt sóng dội xuống đầu họ. Lửa ngấm vào họ như nước ngấm. (Hắn lại giận dữ nói tiếp chống lại cả một thế giới không hiểu nổi hắn). Tôi không tiến hành một cuộc chiến tranh nội địa. Anh tưởng tôi đi đánh như vậy cho bọn chủ đồn điền đất đỏ hay sao? Thà ra trước tòa án binh còn hơn! Chúng tôi phải làm mọi kiểu chiến tranh cho các ngài nhưng các ngài đổ hết trách nhiệm lên đầu chúng tôi.
- Còn chiếc thuyền lúc chiều? - Tôi hỏi.
- Cả chiếc thuyền đó nữa. (Hắn nhìn tôi với tay cầm điếu thuốc thứ hai). Tôi thèm được có những cách lẩn trốn thực tế như các anh.
- Anh đâu biết tôi đang lẩn trốn cái gì. Không lẩn trốn cuộc chiến đâu, nó chẳng liên quan gì đến tôi. Tôi không dính vào đó.
- Rồi một ngày nào đó các anh sẽ dính vào tuốt.
- Tôi thì không.
- Chân anh còn tập tễnh đó thôi.
- Họ có quyền bắn vào tôi, nhưng họ đã không bắn. Họ phá một tháp canh. Bao giờ người ta cũng phải phòng ngừa những kẻ đi phá nhà. Ngay cả ở giữa thủ đô nước Anh.
- Rồi một ngày nào đó sẽ xảy ra một việc gì đó. Anh sẽ phải chọn nên đứng về bên nào.
- Không. Tôi sắp trở về Anh.
- Thế còn cái ảnh hôm nọ, anh đã đưa tôi xem?…
- Xin chia buồn.
- Đời là như thế đấy. Người ta chia tay nhau, nhưng vận đỏ lại đến. Việc đó làm tôi tin rằng ở đời còn có công lý.
- Tôi cũng tin là có công lý. Lần đầu tiên tôi ném bom napal, tôi nghĩ: đây là cái làng nơi tôi đã ra đời. Cái nhà này là nhà ông Durba, bạn cố tri của bố tôi, ông chủ lò bánh mì - khi nhỏ tôi rất yêu ông chủ lò bánh mì - tìm cách chạy trốn, kia kìa, ở dưới tôi, giữa những đám lửa do chính tay tôi đốt lên. Những người thuộc phái Visi không ném bom nước mẹ của họ. Tôi thấy tôi tội lỗi hơn họ.
- Thế mà anh cứ tiếp tục.
- Cũng có lúc bị lương tâm cắt rứt. Tôi thì chỉ bị lương tâm giày vò khi đi ném bom napal. Lúc khác tôi nghĩ mình bảo vệ châu Âu. Và anh có biết không, phía bên kia họ có những việc làm ghê gớm.
- Chính vì thế mà tôi không muốn dính vào cái việc này.
- Đây không phải là việc thuộc lý trí hay công lý. Trong một lúc quá bồng bột, chúng ta bị lôi cuốn rồi sau rút ra không được. Chiến tranh, tình yêu… thường người ta cứ đem hai cái đó so sánh nhau. (Cái nhìn buồn bã của hắn chạy qua gian phòng và đọng lại nơi cô gái lại nằm hưởng mọt sự yên tĩnh nhất thời). Tôi mong rằng sự việc chỉ là như thế thôi. Kia là một cô gái phải lựa chọn giữa bên bố và bên mẹ… số phận cô ra sao khi cái sân bay này bị mất? Nước Pháp chỉ là một nửa Tổ quốc của cô ta.
- Sân bay có sắp bị mất không?
- Anh là một nhà báo. Anh hiểu hơn tôi rằng không thể chiến thắng được. Anh hiểu rằng con đường đi Hà Nội đêm nào cũng bị cắt và cài mìn. Anh hiểu rằng mỗi năm chúng tôi mất đứt một khóa sĩ quan đào tạo ở Sansia. Đáng lẽ thua từ năm 1950 rồi đấy. Dlat chỉ vớt vát thêm được hai năm, thế thôi. Nhưng chúng tôi là lính nhà nghề, và chúng tôi phải đánh nhau cho tới khi những nhà chính trị bảo chúng tôi ngừng. Lúc đó, chắc hai bên họp lại để định những điều kiện giống hệt như những điều kiện mà chúng tôi đáng lẽ đạt được ngay từ đầu, và điều đó khiến cho những năm chiến đấu này trở thành cực kỳ vô nghĩa. Cái bộ mặt xấu xí của hắn, khi ném bom đã nháy mắt cho tôi, nay mang một vẻ tàn ác của nhà nghề và giống như một mặt nạ mà ngày lễ Noel trẻ con thường đeo chỉ để hở đôi mắt nhìn anh. Anh không thể hiểu nổi sự phi lý đó. Fowler, anh không phải cùng cánh với chúng tôi.
- Trong đời cũng có những việc khác khiến cho những năm cố gắng trở thành công toi.
Hắn để tay lên đùi tôi, như để bảo vệ cho tôi như hắn là người anh của tôi vậy.
- Tối nay rủ cô kia đi, còn hơn là hút thuốc.
- Tại sao anh biết cô ta sẽ đi?
- Tôi đã ngủ với cô ta, trung uý Peranh cũng vậy. Năm trăm tờ.
- Đắt.
- Ba trăm chắc cũng đi thôi, nhưng trong lúc này chẳng buồn mà cả làm gì.
Tôi theo lời khuyên của anh ta, nhưng thấy không đạt được sự thành cộng nào. Thân thể con người chỉ có thể làm được một số hành động có hạn, mà thân tôi thì đã bị kỷ niệm làm cho thành nguội lạnh. Cái thân thể mà đôi tay tôi được vuốt ve đêm hôm đó tất nhiên không phải chỉ cắn câu vì cái mồi sắc đẹp. Cô ta dùng cùng một loại nước hoa như Phượng và bỗng nhiên, đúng khi tôi sắp ngập vào người cô thì bóng ma của cái gì đó tôi đã đánh mất tỏ ra mạnh dạn hơn, là tấm thân đang nằm dài ra hiến cho tôi. Tôi rời cô ta, nằm ngửa, rồi dần dần, cơn ham muốn nguội đi.
- Xin lỗi nhé - Tôi nói. Và tôi nói tiếp một câu nói dối - Không hiểu sao tôi lại thế.
Cô bạn trả lời tôi một cách dễ thương với một sự thiếu thông cảm đầy dịu dàng:
- Anh đừng lo. Nhiều khi nó thế. Tại thuốc phiện đấy.
- Phải, tại thuốc phiện.
Trời ơi, ước gì đó chỉ là do thuốc phiện mà thôi!
Cái lần đầu tiên tôi trở về Sài Gòn không có ai ra đón, sao mà lạ. Ở sân bay, sao mà tôi muốn có thể nói cho anh lái xe taxi một cái địa điểm khác hơn là phố Catina. Lòng tôi tự hỏi, liệu nỗi đau có vợi đi không so với lúc ra đi? Và tôi cố thuyết phục tôi rằng lòng đã dịu đi rồi đấy. Khi lên tới tầng gác, tôi thấy cửa phòng mở, và tôi như ngừng thở bởi một niềm hy vọng vọng điên rồ. Tôi chầm chậm bước lại cửa phòng. Chừng nào chưa tới cửa, nỗi hy vọng của tôi còn tồn tại. Tôi nghe tiếng ghế cọt kẹt và bước qua ngưỡng cửa, tôi nom thấy một đôi giày, nhưng không phải của phụ nữ. Tôi bước nhanh vào, và thấy Pyle vụng về nhấc cái thân nặng chịch của hắn ra khỏi chiếc ghế bành mà Phượng quen ngồi.
- Chào anh Thomas - Hắn nói.
- Chào Pyle. Làm sao mà vào được nhà thế?
- Tôi gặp Dominge mang thư tín lại cho anh. Tôi đã nói với anh ta cho tôi vào ngồi chờ anh.
- Phượng để quên gì ở đây à?
- Ồ không, nhưng Jo nói rằng anh tới Lãnh sự quán. Tôi nghĩ rằng chúng ta có gì thì nói với nhau ở đây tiện hơn.
- Nói về vấn đề gì?
Hắn phác một cử chỉ lúng túng, như một học sinh phải phát biểu ý kiến trong một buổi lễ chính thức của nhà trường mà không tìm ra được những lời lẽ có vẻ người lớn.
- Vừa qua anh đi vắng à?
- Vâng. Còn anh?
- Ồ, đi nơi này nơi khác một chút.
- Anh vẫn nghịch ngợm với chất nổ dẻo?
Hắn chỉ đáp lại tôi bằng một nụ cười đau khổ.
- Thư từ của anh kia kìa.
Thoáng nhìn tôi đã thấy một lá thư gửi từ tòa báo Lon don và những thư khác trông có vẻ là những bieê lai, một bì thư đề tên người gửi là ngân hàng của tôi.
- Phượng ra sao?- Tôi hỏi.
- Ồ, cô ta vẫn khỏe - Hắn trả lời, môi bỗng khép kín lại như đã lỡ nói quá nhiều.
- Mời anh ngồi, anh Pyle. Tôi xin phép nhìn qua thư gửi từ tòa báo đến xem họ nói gì.
Tôi mở bì thư. Sao mà cái điều không chờ đợi lại đến vào lúc lỡ thời! Ông Tổng biên tập viết rằng ông đã coi trọng lá thư chót với tôi, và do tình hình rối ren ở Đông Dương sau khi Dlad chết và quân Pháp phải rút khỏi Hòa Bình, ông ta hoàn toàn đồng ý với đề nghị của tôi. Ông ta đã cử một biên tập viên tạm thời phụ trách tin đối ngoại và yêu cầu tôi kéo dài thời gian làm việc ở Đông Dương ít ra một năm. Để kết thúc lá thư, ông ta viết một cách hoàn toàn thiếu sự thông cảm, là "vẫn giữ nguyên chỗ cho anh ở đây". Ông ta cứ tưởng như tôi hám công việc, hám tờ báo lắm.
Tôi ngồi xuống trước mặt Pyle và đọc lá thư đến quá muộn. Trong một phút, tôi thấy vô cùng sảng khoái, như khi người ta mới ngủ dậy, chưa kịp nhớ ra điều gì.
- Tin buồn à? Pyle hỏi.
- Không.
Tôi nhầm nghĩ đằng nào cũng không thể xoay chuyển được tình hình. Bản án được coi giảm đi một năm nhưng sao chọi lại được một bản chứng nhận kết hôn.
- Anh chị kết hôn với nhau chưa? - Tôi hỏi.
- Chưa. (Hắn đỏ mặt). Nói thật với anh, tôi mong được nghỉ phép đặc biệt. Như vậy sẽ làm lễ thành hôn ở tại quê nhà, đàng hoàng.
- Cưới ở nhà thì đàng hoàng hơn hay sao?
- Hơn chứ, tôi nghĩ như vậy… thật khó giải thích cho anh việc này, anh Thomas ạ, anh trơ trẽn quá, nhưng tôi làm như vậy để biểu lộ sự kính trọng. Cả bố mẹ tôi cũng sẽ có mặt, tóm lại Phượng chính thức thành một thành viên của gia đình. Điều đó rất quan trọng do quá khứ.
- Quá khứ gì?
- Anh ắt hiểu điều tôi muốn nói. Tôi không muốn để nó sống một mình bên đó với một vết nhơ…
- À, chắc bởi vì anh để cô ta lại bên đó?
- Chắc là như vậy. Bà mẹ tôi là một người đàn bà đáng kính, bà sẽ đưa cô ta đi khắp mọi nơi, giới thiệu cô, sau cùng, anh biết, để cô ta quen dần. Bà sẽ giúp cô chuẩn bị cho tôi một gia đình ấm cúng.
Tôi không rõ nên hay không nên thương hại cho Phượng… cô ao ước biết bao được xem những nhà chọc trời, tượng thần tự do, nhưng cô nào có ngờ dến những việc gì đang chờ cô sau đó: giáo sư Pyle và phu nhân, những bữa ăn sáng tại câu lạc bộ các bà… họ có đi tới dạy cô chơi bài Catana không? Tôi hình dung lại chiếc áo dài trắng của cô, tối đầu tiên gặp nhau ở Đại thế giới, lượn vẻ duyên dáng tuyệt vời trên đôi bàn chân thiếu nữ, và tôi lại hình dung ra cô, một tháng trước đây mặc cả mua thịt tại cửa hàng thịt phố Somer. Liệu cô có thích thú với những cửa hàng thực phẩm nhỏ bé, sạch sẽ và bóng lộn bên nước Anh, ở đó các miếng thịt đều được bọc trong giấy kính, có khi với cả một nhành cần tây. Có thể. Tôi chưa rõ. Điều kỳ lạ là tôi nghe thấy bản thân tôi đang nói cho Pyle nghe điều mà Pyle như đã nói với tôi một tháng trước đây:
- Hãy cư xử với Phượng một cách dịu dàng. Đừng làm cái gì hấp tấp, thô bạo. Cô ta dễ bị tổn thương và sẽ đau khổ đấy, như anh và tôi vậy.
- Nhất định, nhất định rồi, anh Thomas.
- Cô ta mỏng mảnh, bé nhỏ, rất khác với những phụ nữ bên chúng ta, nhưng đừng có nên coi cô như là… một đồ trang sức.
- Lạ thật, anh Thomas ạ, về chiều hướng đi của sự việc, nó ngược hẳn lại với điều dự kiến của chúng ta. Trước khi đến đây, tôi rất sợ cuộc nói chuyện này. Tôi cứ tưởng anh sẽ nổi nóng.
- Tôi đã đủ thời gian để suy nghĩ khi tôi ở miền Bắc. Tôi gặp một người đàn bà… có lẽ đã gặp cái mà anh gặp ở những cô gái làm tiền. Đi được với anh là một điều hay cho cô ta. Còn ở với tôi thì có thể một ngày nào đó, tôi cũng về và để cô ta lại cho một anh chàng như Grand, một người chỉ biết có xác thịt!
- Và không có điều gì cản trở tình bằng hữu của chúng ta, phải không Thomas?
- Không, tất nhiên. Nhưng có điều là tôi không muốn gặp lại Phượng. Cái gì cô để lại trong phòng này là đủ cho tôi rồi. Có lẽ tôi phải đi kiếm một phòng khác… khi nào có thì giờ.
Hắn duỗi chân ra và đứng lên.
- Tôi rất hài lòng, anh Thomas ạ. Không thể nào nói anh hiểu tôi đã hài lòng đến mức nào. Điều này tôi đã nói với anh rồi đấy, tức là tôi rất ân hận rằng không sự không may lại đến với chính anh.
- Nhưng tôi lại hài lòng vì điều này đã đến với anh, Pyle.
Cuộc gặp gỡ đã không theo cái hướng mà tôi đã tính trước: Tuy sự giận dữ có lúc làm tôi đã có những dự kiến nông cạn, nhưng nay chương trình hành động thực sự của tôi đã hình thành. Mặc dầu bị bực vì sự ngây thơ của Pyle, tôi thấy từ nơi sâu kín trong lòng tôi có một quan tòa đã lên tiếng bênh vực cho hắn khi so sánh sự trơ trẽn của tôi với tính lý tưởng hóa, nhưng ý kiến không thể đứng vững của hắn rút ra từ tác phẩm của York Hardin. Tôi có thể có lý khi xét về các hoạt động thực tiễn, nhưng hắn lại có lý vì hắn còn trẻ và trẻ thì hay lầm, và phải chăng hắn là người chồng tốt hơn đối với một phụ nữ trẻ tuổi?
Chúng tôi bắt tay nhau một cách chiếu lệ, nhưng không hiểu có niềm lo ngại nào đó xui tôi đi theo hắn tới tận cầu thang và gọi hắn lại. Có lẽ bên cạnh vị quan tòa lại có cả một nhà tiên tri trong nơi thầm kín của chúng ta, nơi sinh ra những quyết định thật sự.
- Pyle này, đừng có quá tin ở York Hardin.
- York ấy à?
Từ tầng gác dưới, hắn dừng chân và ngẩng đầu lên sửng sốt nhìn tôi.
- Chúng tôi là những nước thực dân già cỗi, nhưng chúng tôi đã có thì giờ học được một vài sự thật. Chúng tôi đã học được rằng đừng có đánh bạc ăn quê diêm. Cái lực lượng thứ ba đó, nó chỉ có trong sách thôi. Tướng Thế chẳng qua chỉ là một tên tướng cướp trong tay có vài ngàn người, hắn không tiêu biểu cho một nền tảng quốc gia dân chủ nào đâu.
Người ta tưởng Pyle là một người đang nhìn qua khe cửa bên trên một hộp thư, nhìn thấy một kẻ định đột nhập liền sập cửa lại, quyết không cho cái con người khó chơi đó vào nhà. Tôi không nhìn thấy tròng mắt anh ta.
- Tôi không hiểu anh định nói gì, anh Thomas.
- Những quả bom xe đạp. Chỉ là một trò chơi, tuy một người đã mất một chân… Nhưng Pyle này, đừng có dựa vào những người như tướng Thế. Họ không cứu phương Đông này thoát khỏi chủ nghĩa cộng sản đâu. Chúng tôi biết tỏng họ rồi, họ và đồng bọn nữa.
- Chúng tôi là những ai?
- Là những người thực dân kiểu cũ.
- Tôi cứ tưởng anh không ở về phía nào.
- Tôi không đứng về phía nào, Pyle ạ. Nhưng nếu có ai trong sở của anh nhất định cứ dùng chất nổ chơi, thì cứ để cho Jo chơi. Anh về nước với Phượng đi. Quên hẳn cái lực lượng thứ ba đi.
- Xin anh tin rằng tôi rất coi trọng lời khuyên của anh, anh Thomas - Hắn nói một cách trịnh trọng - Chắc chúng ta sẽ sớm gặp lại nhau.
- Chắc vậy.
Tuần lễ này tiếp tuần lễ khác trôi qua, nhưng không rõ sao tôi chưa tìm được một căn nhà ở khác. Không phải vì thiếu thì giờ.
Một lần nữa, cơn khủng hoảng hàng năm của cuộc chiến đã qua: Ở miền Bắc mưa phùn ẩm ướt và ngột ngạt đã về, quân Pháp đã rút khỏi Hòa Bình, Bắc Bộ đã qua mùa hành quân vì thóc gạo, và Lào cũng qua mùa hành quân vì thuốc phiện. Mình Dominge có thể dễ dàng đảm nhiệm đưa tin về các sự kiện ở miền Nam. Tôi tự bắt tôi phải đi xem căn hộ tại một ngôi nhà gọi là kiểu mới (nơi làm cuộc triển lãm Paris 1934) tận đầu phố Catina, gần khách sạn Continental. Đó là nhà ở tạm thời của một chủ đồn điền cao cu sắp về nước. Ông ta muốn bán gọn cả nhà lẫn đồ đạc và các thứ trang trí bầy biện bên trong. Những bức tranh phần lớn là phiên bản tranh của phòng tranh Paris từ năm 1880 tới năm 1890. Nhân tố chung quan trọng nhất cho các bức tranh đó là một người đàn bà vú cực kỳ to, tóc búi rất cầu kỳ, các tấm mút-sơ-lin che người một cách hớ hênh bao giờ cũng để lộ bộ mông đồ sộ với cái rãnh, nhưng bao giờ cũng phủ kín bãi chiến trường. Trong phòng tắm, nhà chủ đồn điền tỏ ra mạnh dạn hơn trong khi chọn các bức phiên bản tranh của Rov.
- Ông là một nhà say mê nghệ thuật? - Tôi hỏi.
- Ông ta trả lời tôi bằng một nụ cười thỏa mãn, y như hai chúng tôi là đồng lõa. Ông ta béo sệ, ria đen, đầu hói.
- Những bức tranh có giá trị nhất của tôi, tôi để ở Paris - Ông chủ nói.
Nhà còn có một cái đựng tàn thuốc lá rất lớn và kiểu rất lạ, theo hình một người phụ nữ khỏa thân đội cái bát trên đầu, và những đồ sứ mỹ nghệ vẽ những thiếu nữ trần truồng ôm mấy con cọp. Lạ nhất là tượng một phụ nữ trần tới thắt lưng đang đi xe đạp. Trong phòng ngủ trước chiếc giường rất rộng treo một bức tranh sơn dầu, lồng khung kính, vẽ hai người thiếu nữ, đang ngủ với nhau. Tôi hỏi giá căn nhà không kể bộ sưu tập tranh tượng, nhưng ông chủ muốn bán gộp tất cả với nhau.
- Ông không phải là nhà sưu tập à? - Ông ta hỏi.
- Thú thật là không.
- Tôi có một số sách, có thể để lại với các thứ khác, chỉ trừ các loại này mà tôi định đem về Pháp.
Ông ta mở cái tủ khóa kín và chỉ cho xem sách cảu ông: Có những bộ sách đắt tiền có minh họa như Nana, Alfrodit, Cô gái tự do và cả nhiều tác phẩm của Paul Dcok. Tôi toan hỏi thăm ông có định tự bán mình theo với bộ sưu tập không vì chủ và đồ rất hợp với nhau. Ông ta cũng là của "thời đại".
- Khi người ta sống một mình ở vùng nhiệt đới - Ông ta nói - thì bộ sưu tập là người bạn đời của anh.
Tôi nghĩ tới Phượng, chính vì không có cô ở đây. Bao giờ cũng vậy, khi người ta trốn vào trong bãi sa mạc thì sự yên lặng lại vang lên như hét vào tai.
- Tôi không tin tòa báo của tôi cho phép mua một bộ sưu tập tác phẩm nghệ thuật.
- Không hề gì, tôi sẽ không ghi vào hóa đơn.
Tôi hài lòng vì Pyle chưa được gặp ông này, ông ta có bộ mặt đúng theo kiểu "thực dân cũ" như Pyle quan niệm, bản thân bộ mặt đó cũng đã khiến không ai muốn lại gần. Khi ra khỏi nhà ông ta thì đã mười một giờ rưỡi, và tôi xuống tiệm Pavillon uống một chai bia ướp lạnh. Pavillon là nơi hẹn hò của các bà người Âu, Mỹ, chắc hẳn không gặp Phượng ở đây. Sự thật tôi biết rõ Phượng lúc này đang ở đâu. Cô không phải là người đàn bà thay đổi thói quen. Bởi vậy, khi ra khỏi nhà ông chủ đồn điền tôi sang hè bên kia để tránh cửa hàng bán thức ăn làm bằng sữa, nơi sáng nào Phượng cũng tới uống đại mạch pha sôcôla. Ở bàn bên cạnh tôi, hai cô gái Hoa Kỳ trẻ, sạch sẽ tinh tươm tuy trời nắng bức, đang uống kem cốc. Người nọ và người kia đều đeo bên vai trái những cái xắc giống nhau có gắn huy hiệu chim đại bàng đằng đồng. Đôi cặp chân của họ dài và thon, cũng giống nhau như hệt, họ còn giống nhau ở đôi mũi hơi hếch. Họ ăn kem một cách chăm chú như đang làm một cuộc thí nghiệm trong phòng học. Tôi tự hỏi không hiểu họ có phải là đồng sự của Pyle không và tôi muốn họ cũng cút về nước nốt. Ăn xong, một cô nhìn đồng hồ đeo tay.
- Phải đi thôi - Cô ta nói - để được an toàn.
Tôi tự hỏi, như để giết thì giờ, xem các cô có thể những loại hẹn hò nào.
- Waren đã bảo không thể ở đây quá mười một giờ hai mươi lăm.
- Quá một chút rồi đấy.
- Rất muốn ở lại. Không hiểu là việc gì. Đằng ấy cô hiểu không?
- Không rõ lắm. Nhưng Waren đã dặn là phải đi.
- Cậu có tin sẽ có một cuộc biểu tình không?
- Mình đã xem nhiều biểu tình quá rồi! - Cô kia đáp với vẻ mệt mỏi của những du khách đã chán ngấy với việc tham quan các kiểu nhà thờ.
Cô ta đứng lên, đặt trên bàn tiền mua kem. Trước khi rời quán, cô nhìn quanh một vòng và những tấm gương phản ánh lại dưới tất cả góc độ nét mặt nhìn nghiêng đầy tàn nhang của cô.
Trong phòng, ngoài tôi ra, chỉ còn lại một bà nạ dòng người Pháp, mặc lôi thôi, đang hóa trang lại bộ mặt một cách cẩn thận nhưng hoàn toàn vô ích. Hai cô Mỹ kia chỉ cần thoa một lớp phấn mỏng, điểm qua chút son, đưa qua cái lược một lượt. Trong thoáng lát, các cô nhìn tôi, đó không phải là một cái nhìn của người phụ nữ, mà là cái nhìn của một người đàn ông, nhìn thẳng, chỉ lưỡng lự một giây trước khi quyết định một việc gì. Rồi cô ta đột ngột quay sang phía cô bạn.
- Phải chuồn thôi - Cô ta nói.
Tôi lơ đãng nhìn theo hai cô sánh vai nhau đi ra ngoài đường đang nóng bỏng dưới nắng. Không thể tin rằng một cô nào đó sẽ làm mồi cho một cuộc cuồng si, không thể liên hệ hình ảnh các cô với cảnh chăn gối tơi bời, ướt đầm mồ hôi sau một cuộc vật lộn trong yêu đương. Không biết khi đi ngủ, các cô có mang theo thuốc chống hôi nách vào theo không? Trong một phút tôi thoáng đâm ra thèm muốn cái thế giới vô trùng của họ, khác xa với thế giới nơi tôi đang sống… Bỗng nhiên, không sao hiểu nổi, thế giới đó tan ra từng mảnh. Hai trong số gương treo trên tường bay lại phía tôi và rơi xuống nửa đường. Bà người Pháp ăn mặc lôi thôi ngã ngồi ra giữa đống bàn ghế bị đổ gẫy. Hộp phấn của bà mở nắp sẵn, nguyên vẹn bay đến đỗ trên đầu gối tôi, và lạ kỳ thay, tôi vẫn ngồi nguyên nơi cũ, tuy chiếc bàn của tôi bay đến tận nơi bàn ghế đổ gẫy vây quanh bà. Một thứ tiếng lạ lùng, tiếng nước máy chảy đều đều, vang lên đầy quán, ngoảnh nhìn trước quầy rượu, tôi thấy hàng dẫy chai vỡ dốc hết rượu ra làm thành một dòng nước nhiều màu, rượu Bordeaux đỏ, rượu Sartor màu xanh, rượu hồi màu vàng đục lênh láng mặt đất. Bà người Pháp bình tĩnh và và thẳng lưng lên đưa mắt tìm hộp phấn của bà. Tôi đưa bà hộp phấn và bà vẫn ngồi trên đất, cám ơn tôi một cách trịnh trọng. Tôi thấy tiếng nói của bà rất nhỏ. Tiếng nổ quá gần làm màng nhĩ tôi chưa hồi lại được như cũ.
Tôi bực bội nghĩ: lại một kiểu đùa nhả với chất nổ. Bây giờ tôi phải viết thế nào đây để ông Heng được hài lòng? Nhưng khi đi đến phố Ganie, nhìn thấy những đám khói nặng nề bốc lên, thì tôi hiểu lần này không phải là một chuyện đùa nữa. Khói bốc ra từ những chiếc xe đang cháy dở tại bãi chứa xe trước nhà hát quốc gia, những mảnh xe vỡ ngổn ngang khắp quảng trường và một người cụt chân nằm cạnh bồn cây cảnh giật nẩy lên từng cơn. Đám đông xô lại từ phố Catina và đại lộ Bona. Tiếng cảnh binh, xe cứu thương kéo chuông liên hồi, xe cứu hỏa dội vào đôi tai còn ù đặc của tôi. Trong một lúc, tôi quên phứt rằng Phượng lúc này chắc đang ở hiệu sữa phía bên kia quảng trường. Làn khói không cho tôi nhìn sang tới nơi đó được.
Tôi tiến lại quảng trường, nhưng một cảnh binh ngăn lại. Cảnh binh đã lập một hàng rao chặn các ngả vào để khỏi ùn người lại, và người ta đã nom thấy những chiếc cáng chở người ra. Tôi van vỉ người cảnh binh cản đường:
- Cho tôi vào. Tôi có quen một người ở đó.
- Xin lùi ra - Hắn nói - Ở đây ai cũng nói là có người quen.
Hắn né để một ông cố đạo vào, tôi định đi theo nhưng người cảnh binh kéo tôi lại. Tôi nói: "Tôi đại diện cho báo chí", vừa nói vừa tìm mãi chiếc ví đựng thẻ nhà báo, nhưng mãi không thấy hay là để quên ở nhà?
- Ít nhất ông cũng cho tôi biết cửa hiệu bán sữa có bị làm sao không? - Tôi hỏi.
Khói đã tan dần, tôi cố nhìn xem, nhưng đám người dày đặc quá, người cảnh binh nói điều gì tôi không nghe rõ.
- Ông bảo gì?
- Hắn nhắc lại:
- Không rõ. Xin lui ra. Ông cản lối những người khiêng cáng đấy.
Hay là tôi đánh rơi chiếc ví ở quán Pavillon? Quay lại phía quán để tìm, tôi nom thấy Pyle. Anh ta gọi to:
- Thomas!
- Pyle, trời ơi, anh có giấy thông hành đặc biệt của lãnh sự quán không? Phượng đang ở hiệu sữa.
- Không đâu! Không đâu - Hắn đáp.
- Có đấy, Pyle. Bao giờ cô ta cũng đi uống ở đó, lúc mười một giờ. Chúng ta phải đi tìm cô ấy.
- Cô ấy không có ở đấy đâu, anh Thomas ạ.
- Sao anh biết? Thông hành của anh đâu?
- Tôi đã báo trước cho cô rằng không được đi đến đó.
Tôi quay lại phía người cảnh binh, định bụng xô anh ta sang một bên và chạy bừa vào. Có lẽ anh ta sẽ nổ súng bắn tôi, nhưng mặc kệ. Bỗng câu "đã báo trước" đập vào nhận thức của tôi. Tôi nắm tay Pyle nói:
- Báo trước à? Anh nói gì? Báo trước?
- Tôi đã bảo cô sáng nay không được đi tới đó.
Những mảnh rời của trò chơi chắp hình được xếp lại trong óc tôi. Tôi hỏi:
- Còn Waren? Waren là ai? Hắn cũng đã báo trước cho hai cô gái?
- Tôi không hiểu anh nói gì?
- À, ra không được để cho người Mỹ nào là nạn nhân phải không?
Một chiếc xe cứu thương từ phố Catina lách tới, người cảnh binh tránh ra cho xe vào quảng trường. Còn người cảnh binh thứ hai đang mắc cãi cọ với ai đó. Tôi đẩy Pyle đi trước, và chúng tôi vào được trước khi họ kịp cản lại.
Chúng tôi đi giữa một đám đông buồn xỉu, cảnh binh ngăn được những người ở chỗ khác xô tới, nhưng không xua đuổi được những người sống sót và những người tới lúc đầu. Những thày thuốc bận rộn không có thể lo cho những người đã chết, và những người đã chết cũng có thể là tài sản của một ai đó, giống như một chiếc ghế là tài sản của anh vậy. Một người đàn bà ngồi xệp trên mặt đất, để trên đùi mình phần còn lại của đứa con nhỏ của bà, vì một sự giữ ý nào đó, bà còn lấy chiếc nón rộng vành của nông dân đậy lên người nó. Bà ta ngồi không động đậy, không nói một lời. Điều đập mạnh vào trí óc tôi trên quảng trường này là sự im lặng. Nó làm tôi nhớ tới một nhà thờ tôi vào giữa lúc làm lễ misa, chỉ nghe tiếng những người đang làm lễ, trừ mấy người Âu lác đác thút thít hay cầu nguyện, rồi lại rơi vào sự im lặng, y như những người đó hổ thẹn trước sự khiêm nhường, nhẫn nại, chỉnh tề của những người châu Á. Bên rìa công viên, thân người cụt chân vẫn nẩy lên như một con gà bị chặt đầu. Đoán theo chiếc áo đang mặc thì anh ta hẳn là một người kéo xe tay.
- Ghê quá - Pyle nói (Hắn nhìn xem cái gì làm ướt đôi giầy hắn và hỏi một cách ghê tởm) - Cái gì thế này?
- Máu đấy - Tôi đáp - Anh chưa nhìn thấy máu bao giờ à?
- Phải đưa đánh giầy trước khi vào gặp ngài bộ trưởng.
Tôi không tin rằng hắn hiểu hết ý nghĩa câu hắn vừa nó. Hắn chứng kiến lần đầu một cuộc chiến tranh thực sự, khi một mình xuôi thuyền đi tới Phát Diệm, hắn đã bị một giấc mơ của thời niên thiếu thúc đẩy, vả lại dưới con mắt hắn, người lính sống hay chết có gì đang quan tâm.
- Anh xem - Tôi hỏi - Một thùng Diolacton đã có thể gây ra những điều gì, khi người ta giao nó cho những kẻ không nên giao. (Tôi đặt tay vào vai hắn, bắt hắn quay ra nhìn chung quanh). Giờ này đúng là lúc quảng trường đầy đàn bà, trẻ em, giờ họ đi mua bán. Tại sao lại chọn đúng giờ này?
Hắn trả lời một cách thảm hại:
- Đáng lẽ phải có một cuộc diễu binh.
- Và các anh định đánh trúng vài đại tá chứ gì? Nhưng Pyle ơi, hôm qua người ta đã quyết tâm hoãn cuộc diễu binh rồi.
- Thế mà tôi không biết.
- Anh không biết ư? (Tôi đẩy hắn bước vào một vũng máu, nơi người ta vừa khiêng một chiếc cáng đi). Anh cần nắm vững tin hơn.
- Hôm qua tôi không có mặt tại Sài Gòn - Hắn vừa nói, vừa cúi xuống đôi giầy - Đáng lẽ họ phải huỷ việc này đi.
- Huỷ để mất cái điều vui thích như thế này ư? Anh tưởng Tướng Thế bỏ qua cơ hội này để chứng minh sự tồn tại của mình ư? Hiệu quả lớn hơn việc đánh vào một cuộc diễu binh đấy. Trong thời chiến, việc đàn bà, trẻ con bị chết gây tiếng vang lớn hơn lính tráng chết, báo chí sẽ làm ồn hơn. Việc này sẽ làm dư luận thế giới hết sức chú trọng. Anh đã làm Tướng Thế nổi bật lên đấy, xin cứ tin chắc là như thế, anh Pyle ạ. Anh hãy nhìn xem cái lực lượng thứ ba và cái nền dân chủ quốc gia đang nhoe nhoét trên chiếc giầy bên phải của anh kia. Đi mà kể cho cô Phượng nghe câu chuyện về những người hy sinh anh dũng của anh… Kia kìa, mấy chục đồng bào của cô ta từ nay không cần ai chăm lo cho họ nữa.
Một ông cố đạo nhỏ bé bụng phệ bước nhanh qua, tay bê một cái gì có khăn phủ kín trên một cái khay. Pyle yên lặng một lúc và tôi cũng chẳng còn gì để nói nữa. Thực ra tôi đã nói nhiều quá rồi. Anh ta tái xám mặt, người như muốn sụp đổ, như sắp ngất, và tôi nghĩ, nói để làm gì nhỉ? Anh ta bao giờ cũng sẽ ngây thơ như vậy. Người ta không thể lên án những kẻ ngây thơ, họ không chịu tội với lương tâm họ. Tất cả những điều có thể làm là theo dõi họ sát sao, hoặc là trừ khử họ đi. Ngây thơ là một sự điên rồ.
- Tướng Thế không bao giờ làm việc này đâu! - Hắn nói, tôi tin chắc rằng ông ta không bao giờ làm. Hẳn có kẻ nào làm, ông không rõ. Bọn cộng sản…
Thiện chí và sự ngu dốt của Pyle đã là một áo giáp không thể xuyên thủng nổi. Tôi để mặc hắn đứng đó và đi ngược phố Catina lên tới chỗ có một ngôi nhà thờ lớn màu hồng xấu ghê gớm sừng sững chắn ngang. Tín đồ đã lớp lớp đổ vào đó, chắc là họ tìm cách làm vững lòng mình bằng cách cầu người chết phù hộ cho những người vừa bị chết.
Khác với những người đó, tôi lại có lý do đầy đủ để mang ơn, vì lẽ Phượng còn sống. Phượng đã chẳng được "báo trước" rồi sao? Nhưng tôi lại nhớ tới cái thân người ở vườn hoa, cái đứa nhỏ trên đùi mẹ. Họ không được báo trước vì họ không phải là những người quan trọng. Và nếu cuộc diễu binh cứ tiến hành thì họ vẫn cứ có mặt ở đó, vì tò mò, để xem những người lính, để nghe những bài diễn văn, để tung những bông hoa. Một quả bom cỡ hai trăm bảng Anh không biết lựa chọn mục tiêu. Bao nhiêu đại tá chết để biện bạch cho việc giết một em bé, một phu xe, khi người ta đang còn mải xây dựng một mặt trận quốc gia dân chủ? Tôi gọi một chiếc xe xích lô gắn máy để chở đến cảng Mỹ Tho.
Chúng tôi lại rơi khu rừng với những thân cây cong queo và nứt nẻ, chúc xuống mặt sông, và bay ngang trên cánh đồng bỏ hoang, rồi chiếc máy bay bỗng nhằm thẳng một con thuyền tam bản đang lênh đênh trên mặt nước màu vàng mà lao xuống.
Khẩu đại bác chỉ bắn một quả đạn lửa, và chiếc thuyền tan ra thành nhiều mảnh, bay tung lên rồi rơi xuống như một trận mưa tàn lửa, chúng tôi không cần chờ xem những nạn nhân có ngoi ngóp bơi mong thoát chết không, chúng tôi bay vọt lên và trở về căn cứ. Một lần nữa, như khi ở Phát Diệm, lúc thấy xác đứa nhỏ, tôi lại nghĩ: "Sao mà tôi căm thù chiến tranh thế!". Thật là đáng phẫn nộ khi phải chọn một cái mồi cho thần chết, bay vù qua, chỉ một phát đạn là đủ, và không gặp một sự chống trả nào. Rồi chúng tôi lại tiếp tục đi, sau khi đã đóng góp cái suất nhỏ bé của mình vào tổng số người chết trên đời này.
Tôi cầm lấy ống nghe để hiểu Truand định nói gì.
- Bây giờ bay vòng đi đường khác. Cảnh mặt trời lặn trên những núi đá vôi thật kỳ ảo. Anh thế nào cũng phải khoe với khách cảnh đẹp của trang trại mình.
Trong hơn 100 km, chúng tôi bay theo vệt sáng của mặt trời trên vịnh Hạ Long. Bộ mặt Truand chụp cái mũ như người của sao Hỏa, cúi nhìn những lùm cây đỏ ối chạy dưới kia những ụ và vòm đá xốp, và vết thương của tội giết người không thấy ứa máu nữa.
Tối hôm đó, đại uý Truand cố mời tôi đi tiệm hút, tuy chính hắn không hút. Hắn ưa ngửi thuốc phiện, theo lời hắn, hắn thích cái cảm giác êm ả của nó khi một ngày chấm dứt, nhưng vì nghề nghiệp, hắn không được phép đi xa hơn trong việc tìm sự lắng dịu này. Cũng có dăm sĩ quan hút nhưng họ thuộc về bộ binh. Còn hắn, hắn cần có một giấc ngủ trọn vẹn. Chúng tôi nằm dìa trong một cái vòm nhỏ, trong cả một dẫy vòm giống như phòng ngủ của một ký túc xá, và người Hoa chủ tiệm sửa soạn tiêm thuốc cho tôi. Đó là lần đầu, tôi hút kể từ khi Phượng bỏ tôi. Bên phía đối diện của phòng, một người phụ nữ lai Âu, sau khi đã hút, nằm co đôi chân tuyệt đẹp, đọc một tờ tạp chí in trên giấy láng, và ở trong cái ô cạnh đó, hai người Hoa đứng tuổi bàn chuyện làm ăn, điếu gác một bên, thỉnh thoảng lại uống một hớp nước nhỏ.
- Chiếc thuyền chiều nay là của ai - Tôi hỏi - Nó có làm điều gì hại đâu?
- Biết đâu đấy? - Truand trả lời - Chúng tôi được lệnh thấy cái gì trên các đoạn sông chạy thẳng thì bắn vào cái đó.
Tôi hút điếu thứ nhất. Cố xua đuổi nỗi nhớ những điếu hút ở nhà mình.
- Cuộc ném bom hôm nay - Truand nói tiếp - Không phải là một cuộc ném bom tồi tệ nhất đối với một người như tôi. Họ có thể bắn rơi chúng ta trên ngôi làng. Cả hai bên đều chịu những sự đe doạ ngang nhau. Tôi kinh tởm nhất những vụ ném bom napal. Ném từ trên độ cao 1.000 m, rất an toàn (hắn phác ra một cử chỉ ngao ngán), khu rừng sẽ bốc cháy. Có trời biết được nếu đang ở dưới mặt đất thì người ta thấy được những cái gì. Những kẻ khốn khổ bị thiêu sống, lửa cứ như những đợt sóng dội xuống đầu họ. Lửa ngấm vào họ như nước ngấm. (Hắn lại giận dữ nói tiếp chống lại cả một thế giới không hiểu nổi hắn). Tôi không tiến hành một cuộc chiến tranh nội địa. Anh tưởng tôi đi đánh như vậy cho bọn chủ đồn điền đất đỏ hay sao? Thà ra trước tòa án binh còn hơn! Chúng tôi phải làm mọi kiểu chiến tranh cho các ngài nhưng các ngài đổ hết trách nhiệm lên đầu chúng tôi.
- Còn chiếc thuyền lúc chiều? - Tôi hỏi.
- Cả chiếc thuyền đó nữa. (Hắn nhìn tôi với tay cầm điếu thuốc thứ hai). Tôi thèm được có những cách lẩn trốn thực tế như các anh.
- Anh đâu biết tôi đang lẩn trốn cái gì. Không lẩn trốn cuộc chiến đâu, nó chẳng liên quan gì đến tôi. Tôi không dính vào đó.
- Rồi một ngày nào đó các anh sẽ dính vào tuốt.
- Tôi thì không.
- Chân anh còn tập tễnh đó thôi.
- Họ có quyền bắn vào tôi, nhưng họ đã không bắn. Họ phá một tháp canh. Bao giờ người ta cũng phải phòng ngừa những kẻ đi phá nhà. Ngay cả ở giữa thủ đô nước Anh.
- Rồi một ngày nào đó sẽ xảy ra một việc gì đó. Anh sẽ phải chọn nên đứng về bên nào.
- Không. Tôi sắp trở về Anh.
- Thế còn cái ảnh hôm nọ, anh đã đưa tôi xem?…
- Xin chia buồn.
- Đời là như thế đấy. Người ta chia tay nhau, nhưng vận đỏ lại đến. Việc đó làm tôi tin rằng ở đời còn có công lý.
- Tôi cũng tin là có công lý. Lần đầu tiên tôi ném bom napal, tôi nghĩ: đây là cái làng nơi tôi đã ra đời. Cái nhà này là nhà ông Durba, bạn cố tri của bố tôi, ông chủ lò bánh mì - khi nhỏ tôi rất yêu ông chủ lò bánh mì - tìm cách chạy trốn, kia kìa, ở dưới tôi, giữa những đám lửa do chính tay tôi đốt lên. Những người thuộc phái Visi không ném bom nước mẹ của họ. Tôi thấy tôi tội lỗi hơn họ.
- Thế mà anh cứ tiếp tục.
- Cũng có lúc bị lương tâm cắt rứt. Tôi thì chỉ bị lương tâm giày vò khi đi ném bom napal. Lúc khác tôi nghĩ mình bảo vệ châu Âu. Và anh có biết không, phía bên kia họ có những việc làm ghê gớm.
- Chính vì thế mà tôi không muốn dính vào cái việc này.
- Đây không phải là việc thuộc lý trí hay công lý. Trong một lúc quá bồng bột, chúng ta bị lôi cuốn rồi sau rút ra không được. Chiến tranh, tình yêu… thường người ta cứ đem hai cái đó so sánh nhau. (Cái nhìn buồn bã của hắn chạy qua gian phòng và đọng lại nơi cô gái lại nằm hưởng mọt sự yên tĩnh nhất thời). Tôi mong rằng sự việc chỉ là như thế thôi. Kia là một cô gái phải lựa chọn giữa bên bố và bên mẹ… số phận cô ra sao khi cái sân bay này bị mất? Nước Pháp chỉ là một nửa Tổ quốc của cô ta.
- Sân bay có sắp bị mất không?
- Anh là một nhà báo. Anh hiểu hơn tôi rằng không thể chiến thắng được. Anh hiểu rằng con đường đi Hà Nội đêm nào cũng bị cắt và cài mìn. Anh hiểu rằng mỗi năm chúng tôi mất đứt một khóa sĩ quan đào tạo ở Sansia. Đáng lẽ thua từ năm 1950 rồi đấy. Dlat chỉ vớt vát thêm được hai năm, thế thôi. Nhưng chúng tôi là lính nhà nghề, và chúng tôi phải đánh nhau cho tới khi những nhà chính trị bảo chúng tôi ngừng. Lúc đó, chắc hai bên họp lại để định những điều kiện giống hệt như những điều kiện mà chúng tôi đáng lẽ đạt được ngay từ đầu, và điều đó khiến cho những năm chiến đấu này trở thành cực kỳ vô nghĩa. Cái bộ mặt xấu xí của hắn, khi ném bom đã nháy mắt cho tôi, nay mang một vẻ tàn ác của nhà nghề và giống như một mặt nạ mà ngày lễ Noel trẻ con thường đeo chỉ để hở đôi mắt nhìn anh. Anh không thể hiểu nổi sự phi lý đó. Fowler, anh không phải cùng cánh với chúng tôi.
- Trong đời cũng có những việc khác khiến cho những năm cố gắng trở thành công toi.
Hắn để tay lên đùi tôi, như để bảo vệ cho tôi như hắn là người anh của tôi vậy.
- Tối nay rủ cô kia đi, còn hơn là hút thuốc.
- Tại sao anh biết cô ta sẽ đi?
- Tôi đã ngủ với cô ta, trung uý Peranh cũng vậy. Năm trăm tờ.
- Đắt.
- Ba trăm chắc cũng đi thôi, nhưng trong lúc này chẳng buồn mà cả làm gì.
Tôi theo lời khuyên của anh ta, nhưng thấy không đạt được sự thành cộng nào. Thân thể con người chỉ có thể làm được một số hành động có hạn, mà thân tôi thì đã bị kỷ niệm làm cho thành nguội lạnh. Cái thân thể mà đôi tay tôi được vuốt ve đêm hôm đó tất nhiên không phải chỉ cắn câu vì cái mồi sắc đẹp. Cô ta dùng cùng một loại nước hoa như Phượng và bỗng nhiên, đúng khi tôi sắp ngập vào người cô thì bóng ma của cái gì đó tôi đã đánh mất tỏ ra mạnh dạn hơn, là tấm thân đang nằm dài ra hiến cho tôi. Tôi rời cô ta, nằm ngửa, rồi dần dần, cơn ham muốn nguội đi.
- Xin lỗi nhé - Tôi nói. Và tôi nói tiếp một câu nói dối - Không hiểu sao tôi lại thế.
Cô bạn trả lời tôi một cách dễ thương với một sự thiếu thông cảm đầy dịu dàng:
- Anh đừng lo. Nhiều khi nó thế. Tại thuốc phiện đấy.
- Phải, tại thuốc phiện.
Trời ơi, ước gì đó chỉ là do thuốc phiện mà thôi!
Cái lần đầu tiên tôi trở về Sài Gòn không có ai ra đón, sao mà lạ. Ở sân bay, sao mà tôi muốn có thể nói cho anh lái xe taxi một cái địa điểm khác hơn là phố Catina. Lòng tôi tự hỏi, liệu nỗi đau có vợi đi không so với lúc ra đi? Và tôi cố thuyết phục tôi rằng lòng đã dịu đi rồi đấy. Khi lên tới tầng gác, tôi thấy cửa phòng mở, và tôi như ngừng thở bởi một niềm hy vọng vọng điên rồ. Tôi chầm chậm bước lại cửa phòng. Chừng nào chưa tới cửa, nỗi hy vọng của tôi còn tồn tại. Tôi nghe tiếng ghế cọt kẹt và bước qua ngưỡng cửa, tôi nom thấy một đôi giày, nhưng không phải của phụ nữ. Tôi bước nhanh vào, và thấy Pyle vụng về nhấc cái thân nặng chịch của hắn ra khỏi chiếc ghế bành mà Phượng quen ngồi.
- Chào anh Thomas - Hắn nói.
- Chào Pyle. Làm sao mà vào được nhà thế?
- Tôi gặp Dominge mang thư tín lại cho anh. Tôi đã nói với anh ta cho tôi vào ngồi chờ anh.
- Phượng để quên gì ở đây à?
- Ồ không, nhưng Jo nói rằng anh tới Lãnh sự quán. Tôi nghĩ rằng chúng ta có gì thì nói với nhau ở đây tiện hơn.
- Nói về vấn đề gì?
Hắn phác một cử chỉ lúng túng, như một học sinh phải phát biểu ý kiến trong một buổi lễ chính thức của nhà trường mà không tìm ra được những lời lẽ có vẻ người lớn.
- Vừa qua anh đi vắng à?
- Vâng. Còn anh?
- Ồ, đi nơi này nơi khác một chút.
- Anh vẫn nghịch ngợm với chất nổ dẻo?
Hắn chỉ đáp lại tôi bằng một nụ cười đau khổ.
- Thư từ của anh kia kìa.
Thoáng nhìn tôi đã thấy một lá thư gửi từ tòa báo Lon don và những thư khác trông có vẻ là những bieê lai, một bì thư đề tên người gửi là ngân hàng của tôi.
- Phượng ra sao?- Tôi hỏi.
- Ồ, cô ta vẫn khỏe - Hắn trả lời, môi bỗng khép kín lại như đã lỡ nói quá nhiều.
- Mời anh ngồi, anh Pyle. Tôi xin phép nhìn qua thư gửi từ tòa báo đến xem họ nói gì.
Tôi mở bì thư. Sao mà cái điều không chờ đợi lại đến vào lúc lỡ thời! Ông Tổng biên tập viết rằng ông đã coi trọng lá thư chót với tôi, và do tình hình rối ren ở Đông Dương sau khi Dlad chết và quân Pháp phải rút khỏi Hòa Bình, ông ta hoàn toàn đồng ý với đề nghị của tôi. Ông ta đã cử một biên tập viên tạm thời phụ trách tin đối ngoại và yêu cầu tôi kéo dài thời gian làm việc ở Đông Dương ít ra một năm. Để kết thúc lá thư, ông ta viết một cách hoàn toàn thiếu sự thông cảm, là "vẫn giữ nguyên chỗ cho anh ở đây". Ông ta cứ tưởng như tôi hám công việc, hám tờ báo lắm.
Tôi ngồi xuống trước mặt Pyle và đọc lá thư đến quá muộn. Trong một phút, tôi thấy vô cùng sảng khoái, như khi người ta mới ngủ dậy, chưa kịp nhớ ra điều gì.
- Tin buồn à? Pyle hỏi.
- Không.
Tôi nhầm nghĩ đằng nào cũng không thể xoay chuyển được tình hình. Bản án được coi giảm đi một năm nhưng sao chọi lại được một bản chứng nhận kết hôn.
- Anh chị kết hôn với nhau chưa? - Tôi hỏi.
- Chưa. (Hắn đỏ mặt). Nói thật với anh, tôi mong được nghỉ phép đặc biệt. Như vậy sẽ làm lễ thành hôn ở tại quê nhà, đàng hoàng.
- Cưới ở nhà thì đàng hoàng hơn hay sao?
- Hơn chứ, tôi nghĩ như vậy… thật khó giải thích cho anh việc này, anh Thomas ạ, anh trơ trẽn quá, nhưng tôi làm như vậy để biểu lộ sự kính trọng. Cả bố mẹ tôi cũng sẽ có mặt, tóm lại Phượng chính thức thành một thành viên của gia đình. Điều đó rất quan trọng do quá khứ.
- Quá khứ gì?
- Anh ắt hiểu điều tôi muốn nói. Tôi không muốn để nó sống một mình bên đó với một vết nhơ…
- À, chắc bởi vì anh để cô ta lại bên đó?
- Chắc là như vậy. Bà mẹ tôi là một người đàn bà đáng kính, bà sẽ đưa cô ta đi khắp mọi nơi, giới thiệu cô, sau cùng, anh biết, để cô ta quen dần. Bà sẽ giúp cô chuẩn bị cho tôi một gia đình ấm cúng.
Tôi không rõ nên hay không nên thương hại cho Phượng… cô ao ước biết bao được xem những nhà chọc trời, tượng thần tự do, nhưng cô nào có ngờ dến những việc gì đang chờ cô sau đó: giáo sư Pyle và phu nhân, những bữa ăn sáng tại câu lạc bộ các bà… họ có đi tới dạy cô chơi bài Catana không? Tôi hình dung lại chiếc áo dài trắng của cô, tối đầu tiên gặp nhau ở Đại thế giới, lượn vẻ duyên dáng tuyệt vời trên đôi bàn chân thiếu nữ, và tôi lại hình dung ra cô, một tháng trước đây mặc cả mua thịt tại cửa hàng thịt phố Somer. Liệu cô có thích thú với những cửa hàng thực phẩm nhỏ bé, sạch sẽ và bóng lộn bên nước Anh, ở đó các miếng thịt đều được bọc trong giấy kính, có khi với cả một nhành cần tây. Có thể. Tôi chưa rõ. Điều kỳ lạ là tôi nghe thấy bản thân tôi đang nói cho Pyle nghe điều mà Pyle như đã nói với tôi một tháng trước đây:
- Hãy cư xử với Phượng một cách dịu dàng. Đừng làm cái gì hấp tấp, thô bạo. Cô ta dễ bị tổn thương và sẽ đau khổ đấy, như anh và tôi vậy.
- Nhất định, nhất định rồi, anh Thomas.
- Cô ta mỏng mảnh, bé nhỏ, rất khác với những phụ nữ bên chúng ta, nhưng đừng có nên coi cô như là… một đồ trang sức.
- Lạ thật, anh Thomas ạ, về chiều hướng đi của sự việc, nó ngược hẳn lại với điều dự kiến của chúng ta. Trước khi đến đây, tôi rất sợ cuộc nói chuyện này. Tôi cứ tưởng anh sẽ nổi nóng.
- Tôi đã đủ thời gian để suy nghĩ khi tôi ở miền Bắc. Tôi gặp một người đàn bà… có lẽ đã gặp cái mà anh gặp ở những cô gái làm tiền. Đi được với anh là một điều hay cho cô ta. Còn ở với tôi thì có thể một ngày nào đó, tôi cũng về và để cô ta lại cho một anh chàng như Grand, một người chỉ biết có xác thịt!
- Và không có điều gì cản trở tình bằng hữu của chúng ta, phải không Thomas?
- Không, tất nhiên. Nhưng có điều là tôi không muốn gặp lại Phượng. Cái gì cô để lại trong phòng này là đủ cho tôi rồi. Có lẽ tôi phải đi kiếm một phòng khác… khi nào có thì giờ.
Hắn duỗi chân ra và đứng lên.
- Tôi rất hài lòng, anh Thomas ạ. Không thể nào nói anh hiểu tôi đã hài lòng đến mức nào. Điều này tôi đã nói với anh rồi đấy, tức là tôi rất ân hận rằng không sự không may lại đến với chính anh.
- Nhưng tôi lại hài lòng vì điều này đã đến với anh, Pyle.
Cuộc gặp gỡ đã không theo cái hướng mà tôi đã tính trước: Tuy sự giận dữ có lúc làm tôi đã có những dự kiến nông cạn, nhưng nay chương trình hành động thực sự của tôi đã hình thành. Mặc dầu bị bực vì sự ngây thơ của Pyle, tôi thấy từ nơi sâu kín trong lòng tôi có một quan tòa đã lên tiếng bênh vực cho hắn khi so sánh sự trơ trẽn của tôi với tính lý tưởng hóa, nhưng ý kiến không thể đứng vững của hắn rút ra từ tác phẩm của York Hardin. Tôi có thể có lý khi xét về các hoạt động thực tiễn, nhưng hắn lại có lý vì hắn còn trẻ và trẻ thì hay lầm, và phải chăng hắn là người chồng tốt hơn đối với một phụ nữ trẻ tuổi?
Chúng tôi bắt tay nhau một cách chiếu lệ, nhưng không hiểu có niềm lo ngại nào đó xui tôi đi theo hắn tới tận cầu thang và gọi hắn lại. Có lẽ bên cạnh vị quan tòa lại có cả một nhà tiên tri trong nơi thầm kín của chúng ta, nơi sinh ra những quyết định thật sự.
- Pyle này, đừng có quá tin ở York Hardin.
- York ấy à?
Từ tầng gác dưới, hắn dừng chân và ngẩng đầu lên sửng sốt nhìn tôi.
- Chúng tôi là những nước thực dân già cỗi, nhưng chúng tôi đã có thì giờ học được một vài sự thật. Chúng tôi đã học được rằng đừng có đánh bạc ăn quê diêm. Cái lực lượng thứ ba đó, nó chỉ có trong sách thôi. Tướng Thế chẳng qua chỉ là một tên tướng cướp trong tay có vài ngàn người, hắn không tiêu biểu cho một nền tảng quốc gia dân chủ nào đâu.
Người ta tưởng Pyle là một người đang nhìn qua khe cửa bên trên một hộp thư, nhìn thấy một kẻ định đột nhập liền sập cửa lại, quyết không cho cái con người khó chơi đó vào nhà. Tôi không nhìn thấy tròng mắt anh ta.
- Tôi không hiểu anh định nói gì, anh Thomas.
- Những quả bom xe đạp. Chỉ là một trò chơi, tuy một người đã mất một chân… Nhưng Pyle này, đừng có dựa vào những người như tướng Thế. Họ không cứu phương Đông này thoát khỏi chủ nghĩa cộng sản đâu. Chúng tôi biết tỏng họ rồi, họ và đồng bọn nữa.
- Chúng tôi là những ai?
- Là những người thực dân kiểu cũ.
- Tôi cứ tưởng anh không ở về phía nào.
- Tôi không đứng về phía nào, Pyle ạ. Nhưng nếu có ai trong sở của anh nhất định cứ dùng chất nổ chơi, thì cứ để cho Jo chơi. Anh về nước với Phượng đi. Quên hẳn cái lực lượng thứ ba đi.
- Xin anh tin rằng tôi rất coi trọng lời khuyên của anh, anh Thomas - Hắn nói một cách trịnh trọng - Chắc chúng ta sẽ sớm gặp lại nhau.
- Chắc vậy.
Tuần lễ này tiếp tuần lễ khác trôi qua, nhưng không rõ sao tôi chưa tìm được một căn nhà ở khác. Không phải vì thiếu thì giờ.
Một lần nữa, cơn khủng hoảng hàng năm của cuộc chiến đã qua: Ở miền Bắc mưa phùn ẩm ướt và ngột ngạt đã về, quân Pháp đã rút khỏi Hòa Bình, Bắc Bộ đã qua mùa hành quân vì thóc gạo, và Lào cũng qua mùa hành quân vì thuốc phiện. Mình Dominge có thể dễ dàng đảm nhiệm đưa tin về các sự kiện ở miền Nam. Tôi tự bắt tôi phải đi xem căn hộ tại một ngôi nhà gọi là kiểu mới (nơi làm cuộc triển lãm Paris 1934) tận đầu phố Catina, gần khách sạn Continental. Đó là nhà ở tạm thời của một chủ đồn điền cao cu sắp về nước. Ông ta muốn bán gọn cả nhà lẫn đồ đạc và các thứ trang trí bầy biện bên trong. Những bức tranh phần lớn là phiên bản tranh của phòng tranh Paris từ năm 1880 tới năm 1890. Nhân tố chung quan trọng nhất cho các bức tranh đó là một người đàn bà vú cực kỳ to, tóc búi rất cầu kỳ, các tấm mút-sơ-lin che người một cách hớ hênh bao giờ cũng để lộ bộ mông đồ sộ với cái rãnh, nhưng bao giờ cũng phủ kín bãi chiến trường. Trong phòng tắm, nhà chủ đồn điền tỏ ra mạnh dạn hơn trong khi chọn các bức phiên bản tranh của Rov.
- Ông là một nhà say mê nghệ thuật? - Tôi hỏi.
- Ông ta trả lời tôi bằng một nụ cười thỏa mãn, y như hai chúng tôi là đồng lõa. Ông ta béo sệ, ria đen, đầu hói.
- Những bức tranh có giá trị nhất của tôi, tôi để ở Paris - Ông chủ nói.
Nhà còn có một cái đựng tàn thuốc lá rất lớn và kiểu rất lạ, theo hình một người phụ nữ khỏa thân đội cái bát trên đầu, và những đồ sứ mỹ nghệ vẽ những thiếu nữ trần truồng ôm mấy con cọp. Lạ nhất là tượng một phụ nữ trần tới thắt lưng đang đi xe đạp. Trong phòng ngủ trước chiếc giường rất rộng treo một bức tranh sơn dầu, lồng khung kính, vẽ hai người thiếu nữ, đang ngủ với nhau. Tôi hỏi giá căn nhà không kể bộ sưu tập tranh tượng, nhưng ông chủ muốn bán gộp tất cả với nhau.
- Ông không phải là nhà sưu tập à? - Ông ta hỏi.
- Thú thật là không.
- Tôi có một số sách, có thể để lại với các thứ khác, chỉ trừ các loại này mà tôi định đem về Pháp.
Ông ta mở cái tủ khóa kín và chỉ cho xem sách cảu ông: Có những bộ sách đắt tiền có minh họa như Nana, Alfrodit, Cô gái tự do và cả nhiều tác phẩm của Paul Dcok. Tôi toan hỏi thăm ông có định tự bán mình theo với bộ sưu tập không vì chủ và đồ rất hợp với nhau. Ông ta cũng là của "thời đại".
- Khi người ta sống một mình ở vùng nhiệt đới - Ông ta nói - thì bộ sưu tập là người bạn đời của anh.
Tôi nghĩ tới Phượng, chính vì không có cô ở đây. Bao giờ cũng vậy, khi người ta trốn vào trong bãi sa mạc thì sự yên lặng lại vang lên như hét vào tai.
- Tôi không tin tòa báo của tôi cho phép mua một bộ sưu tập tác phẩm nghệ thuật.
- Không hề gì, tôi sẽ không ghi vào hóa đơn.
Tôi hài lòng vì Pyle chưa được gặp ông này, ông ta có bộ mặt đúng theo kiểu "thực dân cũ" như Pyle quan niệm, bản thân bộ mặt đó cũng đã khiến không ai muốn lại gần. Khi ra khỏi nhà ông ta thì đã mười một giờ rưỡi, và tôi xuống tiệm Pavillon uống một chai bia ướp lạnh. Pavillon là nơi hẹn hò của các bà người Âu, Mỹ, chắc hẳn không gặp Phượng ở đây. Sự thật tôi biết rõ Phượng lúc này đang ở đâu. Cô không phải là người đàn bà thay đổi thói quen. Bởi vậy, khi ra khỏi nhà ông chủ đồn điền tôi sang hè bên kia để tránh cửa hàng bán thức ăn làm bằng sữa, nơi sáng nào Phượng cũng tới uống đại mạch pha sôcôla. Ở bàn bên cạnh tôi, hai cô gái Hoa Kỳ trẻ, sạch sẽ tinh tươm tuy trời nắng bức, đang uống kem cốc. Người nọ và người kia đều đeo bên vai trái những cái xắc giống nhau có gắn huy hiệu chim đại bàng đằng đồng. Đôi cặp chân của họ dài và thon, cũng giống nhau như hệt, họ còn giống nhau ở đôi mũi hơi hếch. Họ ăn kem một cách chăm chú như đang làm một cuộc thí nghiệm trong phòng học. Tôi tự hỏi không hiểu họ có phải là đồng sự của Pyle không và tôi muốn họ cũng cút về nước nốt. Ăn xong, một cô nhìn đồng hồ đeo tay.
- Phải đi thôi - Cô ta nói - để được an toàn.
Tôi tự hỏi, như để giết thì giờ, xem các cô có thể những loại hẹn hò nào.
- Waren đã bảo không thể ở đây quá mười một giờ hai mươi lăm.
- Quá một chút rồi đấy.
- Rất muốn ở lại. Không hiểu là việc gì. Đằng ấy cô hiểu không?
- Không rõ lắm. Nhưng Waren đã dặn là phải đi.
- Cậu có tin sẽ có một cuộc biểu tình không?
- Mình đã xem nhiều biểu tình quá rồi! - Cô kia đáp với vẻ mệt mỏi của những du khách đã chán ngấy với việc tham quan các kiểu nhà thờ.
Cô ta đứng lên, đặt trên bàn tiền mua kem. Trước khi rời quán, cô nhìn quanh một vòng và những tấm gương phản ánh lại dưới tất cả góc độ nét mặt nhìn nghiêng đầy tàn nhang của cô.
Trong phòng, ngoài tôi ra, chỉ còn lại một bà nạ dòng người Pháp, mặc lôi thôi, đang hóa trang lại bộ mặt một cách cẩn thận nhưng hoàn toàn vô ích. Hai cô Mỹ kia chỉ cần thoa một lớp phấn mỏng, điểm qua chút son, đưa qua cái lược một lượt. Trong thoáng lát, các cô nhìn tôi, đó không phải là một cái nhìn của người phụ nữ, mà là cái nhìn của một người đàn ông, nhìn thẳng, chỉ lưỡng lự một giây trước khi quyết định một việc gì. Rồi cô ta đột ngột quay sang phía cô bạn.
- Phải chuồn thôi - Cô ta nói.
Tôi lơ đãng nhìn theo hai cô sánh vai nhau đi ra ngoài đường đang nóng bỏng dưới nắng. Không thể tin rằng một cô nào đó sẽ làm mồi cho một cuộc cuồng si, không thể liên hệ hình ảnh các cô với cảnh chăn gối tơi bời, ướt đầm mồ hôi sau một cuộc vật lộn trong yêu đương. Không biết khi đi ngủ, các cô có mang theo thuốc chống hôi nách vào theo không? Trong một phút tôi thoáng đâm ra thèm muốn cái thế giới vô trùng của họ, khác xa với thế giới nơi tôi đang sống… Bỗng nhiên, không sao hiểu nổi, thế giới đó tan ra từng mảnh. Hai trong số gương treo trên tường bay lại phía tôi và rơi xuống nửa đường. Bà người Pháp ăn mặc lôi thôi ngã ngồi ra giữa đống bàn ghế bị đổ gẫy. Hộp phấn của bà mở nắp sẵn, nguyên vẹn bay đến đỗ trên đầu gối tôi, và lạ kỳ thay, tôi vẫn ngồi nguyên nơi cũ, tuy chiếc bàn của tôi bay đến tận nơi bàn ghế đổ gẫy vây quanh bà. Một thứ tiếng lạ lùng, tiếng nước máy chảy đều đều, vang lên đầy quán, ngoảnh nhìn trước quầy rượu, tôi thấy hàng dẫy chai vỡ dốc hết rượu ra làm thành một dòng nước nhiều màu, rượu Bordeaux đỏ, rượu Sartor màu xanh, rượu hồi màu vàng đục lênh láng mặt đất. Bà người Pháp bình tĩnh và và thẳng lưng lên đưa mắt tìm hộp phấn của bà. Tôi đưa bà hộp phấn và bà vẫn ngồi trên đất, cám ơn tôi một cách trịnh trọng. Tôi thấy tiếng nói của bà rất nhỏ. Tiếng nổ quá gần làm màng nhĩ tôi chưa hồi lại được như cũ.
Tôi bực bội nghĩ: lại một kiểu đùa nhả với chất nổ. Bây giờ tôi phải viết thế nào đây để ông Heng được hài lòng? Nhưng khi đi đến phố Ganie, nhìn thấy những đám khói nặng nề bốc lên, thì tôi hiểu lần này không phải là một chuyện đùa nữa. Khói bốc ra từ những chiếc xe đang cháy dở tại bãi chứa xe trước nhà hát quốc gia, những mảnh xe vỡ ngổn ngang khắp quảng trường và một người cụt chân nằm cạnh bồn cây cảnh giật nẩy lên từng cơn. Đám đông xô lại từ phố Catina và đại lộ Bona. Tiếng cảnh binh, xe cứu thương kéo chuông liên hồi, xe cứu hỏa dội vào đôi tai còn ù đặc của tôi. Trong một lúc, tôi quên phứt rằng Phượng lúc này chắc đang ở hiệu sữa phía bên kia quảng trường. Làn khói không cho tôi nhìn sang tới nơi đó được.
Tôi tiến lại quảng trường, nhưng một cảnh binh ngăn lại. Cảnh binh đã lập một hàng rao chặn các ngả vào để khỏi ùn người lại, và người ta đã nom thấy những chiếc cáng chở người ra. Tôi van vỉ người cảnh binh cản đường:
- Cho tôi vào. Tôi có quen một người ở đó.
- Xin lùi ra - Hắn nói - Ở đây ai cũng nói là có người quen.
Hắn né để một ông cố đạo vào, tôi định đi theo nhưng người cảnh binh kéo tôi lại. Tôi nói: "Tôi đại diện cho báo chí", vừa nói vừa tìm mãi chiếc ví đựng thẻ nhà báo, nhưng mãi không thấy hay là để quên ở nhà?
- Ít nhất ông cũng cho tôi biết cửa hiệu bán sữa có bị làm sao không? - Tôi hỏi.
Khói đã tan dần, tôi cố nhìn xem, nhưng đám người dày đặc quá, người cảnh binh nói điều gì tôi không nghe rõ.
- Ông bảo gì?
- Hắn nhắc lại:
- Không rõ. Xin lui ra. Ông cản lối những người khiêng cáng đấy.
Hay là tôi đánh rơi chiếc ví ở quán Pavillon? Quay lại phía quán để tìm, tôi nom thấy Pyle. Anh ta gọi to:
- Thomas!
- Pyle, trời ơi, anh có giấy thông hành đặc biệt của lãnh sự quán không? Phượng đang ở hiệu sữa.
- Không đâu! Không đâu - Hắn đáp.
- Có đấy, Pyle. Bao giờ cô ta cũng đi uống ở đó, lúc mười một giờ. Chúng ta phải đi tìm cô ấy.
- Cô ấy không có ở đấy đâu, anh Thomas ạ.
- Sao anh biết? Thông hành của anh đâu?
- Tôi đã báo trước cho cô rằng không được đi đến đó.
Tôi quay lại phía người cảnh binh, định bụng xô anh ta sang một bên và chạy bừa vào. Có lẽ anh ta sẽ nổ súng bắn tôi, nhưng mặc kệ. Bỗng câu "đã báo trước" đập vào nhận thức của tôi. Tôi nắm tay Pyle nói:
- Báo trước à? Anh nói gì? Báo trước?
- Tôi đã bảo cô sáng nay không được đi tới đó.
Những mảnh rời của trò chơi chắp hình được xếp lại trong óc tôi. Tôi hỏi:
- Còn Waren? Waren là ai? Hắn cũng đã báo trước cho hai cô gái?
- Tôi không hiểu anh nói gì?
- À, ra không được để cho người Mỹ nào là nạn nhân phải không?
Một chiếc xe cứu thương từ phố Catina lách tới, người cảnh binh tránh ra cho xe vào quảng trường. Còn người cảnh binh thứ hai đang mắc cãi cọ với ai đó. Tôi đẩy Pyle đi trước, và chúng tôi vào được trước khi họ kịp cản lại.
Chúng tôi đi giữa một đám đông buồn xỉu, cảnh binh ngăn được những người ở chỗ khác xô tới, nhưng không xua đuổi được những người sống sót và những người tới lúc đầu. Những thày thuốc bận rộn không có thể lo cho những người đã chết, và những người đã chết cũng có thể là tài sản của một ai đó, giống như một chiếc ghế là tài sản của anh vậy. Một người đàn bà ngồi xệp trên mặt đất, để trên đùi mình phần còn lại của đứa con nhỏ của bà, vì một sự giữ ý nào đó, bà còn lấy chiếc nón rộng vành của nông dân đậy lên người nó. Bà ta ngồi không động đậy, không nói một lời. Điều đập mạnh vào trí óc tôi trên quảng trường này là sự im lặng. Nó làm tôi nhớ tới một nhà thờ tôi vào giữa lúc làm lễ misa, chỉ nghe tiếng những người đang làm lễ, trừ mấy người Âu lác đác thút thít hay cầu nguyện, rồi lại rơi vào sự im lặng, y như những người đó hổ thẹn trước sự khiêm nhường, nhẫn nại, chỉnh tề của những người châu Á. Bên rìa công viên, thân người cụt chân vẫn nẩy lên như một con gà bị chặt đầu. Đoán theo chiếc áo đang mặc thì anh ta hẳn là một người kéo xe tay.
- Ghê quá - Pyle nói (Hắn nhìn xem cái gì làm ướt đôi giầy hắn và hỏi một cách ghê tởm) - Cái gì thế này?
- Máu đấy - Tôi đáp - Anh chưa nhìn thấy máu bao giờ à?
- Phải đưa đánh giầy trước khi vào gặp ngài bộ trưởng.
Tôi không tin rằng hắn hiểu hết ý nghĩa câu hắn vừa nó. Hắn chứng kiến lần đầu một cuộc chiến tranh thực sự, khi một mình xuôi thuyền đi tới Phát Diệm, hắn đã bị một giấc mơ của thời niên thiếu thúc đẩy, vả lại dưới con mắt hắn, người lính sống hay chết có gì đang quan tâm.
- Anh xem - Tôi hỏi - Một thùng Diolacton đã có thể gây ra những điều gì, khi người ta giao nó cho những kẻ không nên giao. (Tôi đặt tay vào vai hắn, bắt hắn quay ra nhìn chung quanh). Giờ này đúng là lúc quảng trường đầy đàn bà, trẻ em, giờ họ đi mua bán. Tại sao lại chọn đúng giờ này?
Hắn trả lời một cách thảm hại:
- Đáng lẽ phải có một cuộc diễu binh.
- Và các anh định đánh trúng vài đại tá chứ gì? Nhưng Pyle ơi, hôm qua người ta đã quyết tâm hoãn cuộc diễu binh rồi.
- Thế mà tôi không biết.
- Anh không biết ư? (Tôi đẩy hắn bước vào một vũng máu, nơi người ta vừa khiêng một chiếc cáng đi). Anh cần nắm vững tin hơn.
- Hôm qua tôi không có mặt tại Sài Gòn - Hắn vừa nói, vừa cúi xuống đôi giầy - Đáng lẽ họ phải huỷ việc này đi.
- Huỷ để mất cái điều vui thích như thế này ư? Anh tưởng Tướng Thế bỏ qua cơ hội này để chứng minh sự tồn tại của mình ư? Hiệu quả lớn hơn việc đánh vào một cuộc diễu binh đấy. Trong thời chiến, việc đàn bà, trẻ con bị chết gây tiếng vang lớn hơn lính tráng chết, báo chí sẽ làm ồn hơn. Việc này sẽ làm dư luận thế giới hết sức chú trọng. Anh đã làm Tướng Thế nổi bật lên đấy, xin cứ tin chắc là như thế, anh Pyle ạ. Anh hãy nhìn xem cái lực lượng thứ ba và cái nền dân chủ quốc gia đang nhoe nhoét trên chiếc giầy bên phải của anh kia. Đi mà kể cho cô Phượng nghe câu chuyện về những người hy sinh anh dũng của anh… Kia kìa, mấy chục đồng bào của cô ta từ nay không cần ai chăm lo cho họ nữa.
Một ông cố đạo nhỏ bé bụng phệ bước nhanh qua, tay bê một cái gì có khăn phủ kín trên một cái khay. Pyle yên lặng một lúc và tôi cũng chẳng còn gì để nói nữa. Thực ra tôi đã nói nhiều quá rồi. Anh ta tái xám mặt, người như muốn sụp đổ, như sắp ngất, và tôi nghĩ, nói để làm gì nhỉ? Anh ta bao giờ cũng sẽ ngây thơ như vậy. Người ta không thể lên án những kẻ ngây thơ, họ không chịu tội với lương tâm họ. Tất cả những điều có thể làm là theo dõi họ sát sao, hoặc là trừ khử họ đi. Ngây thơ là một sự điên rồ.
- Tướng Thế không bao giờ làm việc này đâu! - Hắn nói, tôi tin chắc rằng ông ta không bao giờ làm. Hẳn có kẻ nào làm, ông không rõ. Bọn cộng sản…
Thiện chí và sự ngu dốt của Pyle đã là một áo giáp không thể xuyên thủng nổi. Tôi để mặc hắn đứng đó và đi ngược phố Catina lên tới chỗ có một ngôi nhà thờ lớn màu hồng xấu ghê gớm sừng sững chắn ngang. Tín đồ đã lớp lớp đổ vào đó, chắc là họ tìm cách làm vững lòng mình bằng cách cầu người chết phù hộ cho những người vừa bị chết.
Khác với những người đó, tôi lại có lý do đầy đủ để mang ơn, vì lẽ Phượng còn sống. Phượng đã chẳng được "báo trước" rồi sao? Nhưng tôi lại nhớ tới cái thân người ở vườn hoa, cái đứa nhỏ trên đùi mẹ. Họ không được báo trước vì họ không phải là những người quan trọng. Và nếu cuộc diễu binh cứ tiến hành thì họ vẫn cứ có mặt ở đó, vì tò mò, để xem những người lính, để nghe những bài diễn văn, để tung những bông hoa. Một quả bom cỡ hai trăm bảng Anh không biết lựa chọn mục tiêu. Bao nhiêu đại tá chết để biện bạch cho việc giết một em bé, một phu xe, khi người ta đang còn mải xây dựng một mặt trận quốc gia dân chủ? Tôi gọi một chiếc xe xích lô gắn máy để chở đến cảng Mỹ Tho.