SÁCH DẠY NẤU ĂN CỦA MẸ
Tác giả: Joan Aho Ryan
Mẹ tôi làm bánh mì giỏi nhất thế giới.
Ông Herry James
Vợ chồng tôi sống và làm việc ở nước ngoài khi Mẹ chết. Tôi vội bay về thị trấn nhỏ ở Oklahoma, cảm thấy có lỗi và rất buồn vì chúng tôi đã từng gần gũi. Hoàn cảnh đã buộc chúng tôi xa nhau vài năm gần đây.
Mẹ sống rất đơn giản, chỉ thuê ba căn phòng nhỏ cách vài khu phố nơi bà sinh ra. Bà không để lại cho anh em tôi cái gì, chính xác là không có gì mà để. Vào ngày mẹ chết, chúng tôi đã dọn sạch căn hộ không để lại thứ gì ngoại trừ một thứ.
Đó là cuốn sách nấu ăn của mẹ, được bọc bên ngoài bởi một dải da và mấy mảnh giấy báo. Hầu hết các trang đã ngả vàng vì thời gian, công thức nấu ăn được ghi khắp nơi: thiệp, giấy ghi chú, thư cũ, thiệp chúc mừng, mấy mảnh giấy bỏ đi, hóa đơn cũ hay danh sách mua hàng. Lớp bọc sau và gáy còn nguyên nhưng lớp bọc phía trước đã mòn và sắp rã ra. Dòng chữ Sách nấu ăn đã mờ. Tôi không thể không mang nó về nhà.
Sau đó tôi dành thời gian kiểm tra xem có những gì. Tôi cẩn thận gỡ bỏ lớp da và bìa trước. Trang tiêu đề có màu nâu và khô như cây thuốc lá. Bà ngoại ghi trên đó: “Gửi tặng con gái nhân ngày cưới 5-12-1932.”
Lớp bìa bên trong mẹ chép lại dòng chữ: “Chúa hài lòng với thói quen đáng yêu của con người hơn là những công thức ít ứng dụng.” Tôi hình dung ra mẹ, một cô dâu 17 tuổi, đang cẩn thận viết những dòng chữ này, nghĩ đến những món ăn sẽ nấu và mơ giấc mơ của các cô gái trẻ.
Tôi sang trang, những dòng ghi chú chi tiết về: “Làm cách nào biến cuốn sách thành các công thức nấu ăn hằng ngày”. Gáy cuốn sách được giữ bằng ba cái vòng. Người xây dựng gia đình được khuyên cắt các công thức và dán vào khoảng trống chừa sẵn, ghi chú thứ tự cẩn thận. Mẹ chẳng làm theo lời khuyên này mà dán lung tung trong sách. Chẳng hiểu sao mẹ không thấy nó rối ren.
Tôi quyết định xếp mớ lộn xộn này theo trật tự thời gian, đang làm tôi chợt nhận ra câu chuyện cuộc đời mẹ dần nổi lên từ những mảnh giấy nhỏ này. Nó được kể lại theo cách mà toàn bộ phụ nữ đã kết hôn và nuôi nấng gia đình họ trong thời kỳ suy thoái, trong chiến tranh và những năm sau đó.
Phát hiện cũ nhất đã đem tôi về đến năm 1920. Nó là một tấm phiếu hủy, đằng sau có ghi công thức làm món xà lách trộn. Bà tôi đã ghi lại và truyền cho mẹ. Những công thức khác được ghi hồi mẹ còn trẻ, nó thể hiện tình yêu thời niên thiếu dành cho những thứ ngọt ngào như kẹo và kẹo mềm có cho đường gelatin. Đào bới sâu hơn, tôi thấy công thức làm bánh nhân mứt, mấy loại bánh quy tôi đã từng nướng thời bé, và còn có bánh sinh nhật.
Đó là cái bánh mẹ thường nướng khi có dịp quan trọng như ngày sinh nhật. Nó cao, ngon và trông đẹp mắt. Trong sách còn có công thức “Bánh sinh nhật cho 20 người ăn”, đã từng được ghi trong tạp chí McCall vài năm sau chiến tranh.
Tôi đã nhiều lần làm bánh. Lần nào tôi cũng nhớ đến mẹ và quá khứ, những khoảnh khắc hạnh phúc của bà dành cho tôi.
Cuốn sách dạy nấu ăn cũng đem lại những kỷ niệm buồn. Tôi nhớ khi mẹ đang tạo cho mình một cuộc sống hạnh phúc thì chính cuộc đời bà lại không được như mong muốn. Thời kỳ suy thoái đã ảnh hưởng rất nặng, mọi phụ nữ ở Mỹ đều phải làm việc vội vàng. Bố cố kiếm sống bằng nghề nhạc sĩ nhưng không được nên đành làm cho Tổ chức bảo vệ dân chúng trong một thời gian đến khi trở thành cảnh sát. Đó là thời kỳ bữa ăn được làm từ các lát thịt rẻ tiền (nếu may mắn có thịt) như: khối thịt xông khói, thịt gà tây, xà lách trộn thịt bê, thịt bò trộn bắp và mì ống xà lách. Một bài báo hôm 7/3/1935 có công thức làm món băng tuyết, rất đơn giản chỉ cần vani, đường, trứng và tuyết. Mẹ đã ghi lên bài báo thán từ sau: “Tuyệt!”
Sự mất mát và thời gian khó khăn dường như không làm mẹ chán nản. Bà có những khát vọng rất đơn giản và khiêm tốn. Những gì mẹ muốn chỉ là ngôi nhà nhỏ xinh có cái phòng nhỏ để sống cùng chồng và các con. Khát vọng của bố lại khá khác biệt.
Lật sang trang, tôi phát hiện nhiều món có cân nhắc khá kỹ chuyện tiền nong, tự hỏi làm sao bố có thể đem công thức khá hoàn hảo của món rau cải trộn cà chua chiên áp chảo vào cuốn sách. Có gì đó rất sành điệu trong con người bố. Ông luôn tươi cười trong những bữa ăn rất đạm bạc.
Khi tôi 4 tuổi, chiến tranh ở Châu Âu rất dữ dội, bố được gọi đi phục vụ quân đội ở Hawai. Trong thời kỳ này, người vợ đảm đang của một sĩ quan quân đội đã sưu tập một lượng lớn những công thức nấu ăn có sử dụng dứa. Sau trận Chân Trâu Cảng, tôi và mẹ (lúc đó đang mang thai ba tháng) được di tản đến sống cùng bà ngoại ở Oklahoma. Chúng tôi đã sống tại đây cho đến khi chiến tranh kết thúc.
Mấy mảnh giấy trong giai đoạn này gợi lên những ký ức mạnh mẽ. Làm cách nào duỗi thẳng các dấu mộc của quân đội đã từng là chủ đề chính của báo chí. Mẹ tôi đã làm cách nào. “Một cốc” đường được gạch bỏ trong mọi công thức, thay vào là “nửa cốc” hay có khi “1/4 cốc”. “Kem” bất đắc dĩ thay bằng “sữa”. “Bơ” biến thành “mỡ chiên”. Công thức làm món Bánh Chanh Sủi Lòng Đỏ Trứng có quá nhiều món thay thế, mẹ đã gạch bỏ đổi lại tên khác Bánh Chanh Sủi Đủ Thứ. Mẹ vẫn là người rất hài hước.
Mẹ là người khỏe mạnh, nuôi gà và trồng cả khu vườn lớn. Từ lúc này, tôi thấy xà lách được sử dụng nấu ăn rất nhiều, có đủ cách để chế biến rau, có đủ thứ để làm với trứng và gà. Cuốn sách dạy nấu ăn cũng dày lên từ đó.
Chiến tranh kết thúc. Mặt sau tấm giấy ghi công thức món khoai tây nướng là mẩu quảng cáo xem phim, trên đó có ghi: “Gable quay trở lại và Garson đã tóm anh ta”. Clark Gable cũng như nhiều người khác là những công dân bình thường, bố tôi cũng vậy, họ sẵn sàng bắt đầu một cuộc sống thật sự, một cuộc sống tốt!
Công thức nấu ăn lấy từ bài báo trong giai đoạn này phản ánh một sự thịnh vượng mới. “Hòa tan sáu muỗng bơ”, “Thịt heo mềm”… Những năm tháng khó khăn đã thật sự kết thúc.
Bố tôi là người ghét phải tiêu xài tiết kiệm. Sau chiến tranh ông ngâm mình trong cuộc sống hoan hỉ. Ông khám phá ra thiết bị dò tìm bạch kim, máy khuấy điện, lò nướng thịt, máy lạnh và cả khu vực ngoại thành. Bố tìm được những món ăn nước ngoài: bánh piza, đĩa thức ăn kiểu Tây Ban Nha, bánh thịt chiên dòn Mexico, bánh mì Hy Lạp, chiên xù kiểu Trung Quốc. Ông tìm cho mình cuộc sống mộc mạc, xây một cái sân ngay sau nhà ở Arkansas.
Mẹ rất yêu căn nhà ở Arkansas, cái nhà đầu tiên và cũng là cuối cùng của chúng tôi. Bà đã từng tâm sự rằng ba năm sống trong ngôi nhà đó là quãng thời gian hạnh phúc nhất cuộc đời.
Tuy nhiên, người bố lãng mạn của tôi quyết định từ bỏ thứ trang phục xoàng xĩnh và công việc văn phòng tại Đơn vị quản lý cựu chiến binh để trở thành một nông dân lịch lãm. Ông thất bại nên lập tức dời cả nhà sang sống ở Costarica. Bộ sưu tập nấu ăn của mẹ ghi thêm dòng chữ gạo và đậu, một món ăn để nhớ về nơi đó. Một lần nữa, giấc mơ của bố không thành hiện thực, chúng tôi quay về Mỹ, dù nghèo nhưng được sống cùng nhau.
Không phải tất cả những khám phá của tôi ngày đó đều dễ sắp xếp. Những manh mối về cuộc sống sau này của mẹ rất khó nhận ra. Tôi biết mình phải tìm cái gì. Chắc chắn có công thức làm nên những bữa tối thân mật, có ánh nến lung linh dành cho bố và mẹ sau khi anh em tôi có cuộc sống riêng.
Nhưng chúng không có trong cuốn sách dạy nấu ăn của mẹ. Bố tôi luôn mơ thoát ra khỏi cuộc sống của mẹ để đi vào những cuộc phiêu lưu kỳ bí. Người anh tôi sau nhiều năm ở Việt Nam, đã chọn lấy nghề lính. Công việc đã đem vợ chồng tôi đi xa nhà hàng ngàn dặm. Chúng tôi vẫn hay bảo mẹ cùng đến sống nhưng bà cứ từ chối, viện cớ muốn có cuộc sống riêng.
Tôi muốn nghĩ những năm sau này tại quê nhà, nếu không hạnh phúc thì cũng là quãng thời gian mãn nguyện với cuộc sống. Chắc họ rất bận rộn. Tôi chỉ tìm thấy hai mảnh giấy nhỏ. Cả hai không ghi công thức nấu ăn nhưng có liên quan đến đồ ăn.
Một cái là bài báo của Wichita, người này vô tình vào một quán cà phê nhỏ nơi mẹ tôi làm nghề nướng bánh. Bài báo chộp lấy ngay công thức nướng bánh quế tuyệt hảo của mẹ và những món khác như: đậu phộng chiên, bánh kẹp, bánh quế nhân. Mẹ trở thành người nổi tiếng ở địa phương. Việc tôn vinh khả năng nấu nướng đã làm bà hạnh phúc hơn những niềm vinh dự khác mẹ từng nhận được.
Cuối cùng là mảnh giấy mua hàng. Có lẽ mẹ đã viết vào buổi sáng được chuyển đến bệnh viện và không bao giờ quay về nữa. Tôi tìm thấy nó trên nóc tủ lạnh cái ngày chúng tôi thu dọn căn hộ và vô tình cho nó vào trang đầu cuốn sách. Giống nhiều phụ nữ đương thời, mẹ tôn trọng các món ăn và tìm thấy sự ngon miệng trong cả những món đơn giản nhất. Dù Mẹ thích thí nghiệm và yêu các món nước ngoài, nhưng mẹ vẫn hạnh phúc với các bữa rất đơn giản. Danh sách mua hàng cuối cùng là cái tôi quý nhất, nó ghi “Trứng, khoai tây, đậu, gạo.”
Có một cây hồ đào mọc trong cái hẻm sau căn hộ nhỏ của mẹ. Nó không phải của ai cả. Mẹ lại có thói quen tiết kiệm nên nhặt mấy quả rơi gói chúng lại mỗi khi xem tivi. Cái ngày sau lễ tang, tôi với dì vô bếp bắt gặp người anh đang đứng trước tủ lạnh cầm hộp hồ đào. Mặt anh tôi trông rất buồn.
Chúng tôi đứng nhìn cái hũ, rồi dì nói: “Dì nói với cháu rồi. Sao chúng ta không đem nó về làm bánh hồ đào cho bữa tối.”
Dù sự kiện đau buồn này đã đem chúng tôi lại gần nhau sau nhiều năm xa cách, nhưng không khí trong gian bếp nhà dì vẫn rất phấn khởi. Cái bánh đang nướng, căn phòng ấm áp và sáng sủa, mùi bánh bốc ra rất ngon. Đó là một ngày vào tháng 11, trời đã tối và không khí mùa đông ớn lạnh lan tỏa khắp nơi. Chú và mấy người anh em họ đã đến, rất hạnh phúc và ấm áp trong căn bếp.
Dì nói: “Mẹ cháu chắc thích nó lắm.”
Cháu cũng nghĩ thế. Mẹ sẽ thích lắm.
Sydney Flynn