Chương 13
Tác giả: Michael Ende
M omo thức giấc và mở choàng mắt.
Cô phải hồi tưởng một lúc xem mình đang ở đâu. Cô hoang mang khi thấy mình đang ngồi trên một bậc đá cỏ mọc xanh rì của Nhà hát lộ thiên hoang phế. Không phải chỉ mới vài phút trước đây cô còn ở trong ngôi Nhà-Chẳng-Nơi-Nao của thầy Hora ư? Sao bỗng dưng mình lại ở đây?
Trời tối đen và lạnh. Chân trời phía đông vừa chớm hứng ánh bình mình. Momo ớn lạnh, vội kéo sát chiếc áo khoác rộng thùng thình. Cô nhớ tường tận những gì đã trải qua, nhớ đã theo con rùa đi xuyên qua thành phố trong đêm, nhớ khu phố có ánh đèn kỳ lạ với những ngôi nhà sáng lóa, nhớ Ngõ-Chẳng-Bao-Giờ, nhớ đại sảnh với cả rừng đồng hồ, nhớ ly sôcôla và bánh mì phết mật ong, nhớ từng chữ đã trò chuyện với thầy Hora, nhớ câu thầy đã đố. Nhưng nhớ nhất là chuyện cô trải qua dưới mái vòm vàng ròng lộng lẫy. Chỉ cần nhắm mắt lại là những bông hoa muôn màu rực rỡ cô từng thấy hiện ngay trước mắt. Và những thanh âm của mặt trời, mặt trăng, của muôn vạn vì sao vẫn còn âm vang bên tai cô, thậm chí rõ mồm một, rõ đến độ cô có thể ngâm nga theo những âm điệu ấy được.
Rồi trong lúc hồi tưởng thì từ ngữ hình thành trong lòng cô, những từ ngữ thật sự diễn tả được hương thơm và màu sắc của bao loài hao cô chưa từng thấy! Chính những thanh âm trong hồi tưởng của Momo đã phát ra những từ này - thêm một chuyện ly kỳ xảy ra cùng với sự hồi tưởng ấy, đó là: Momo không chỉ tìm thấy trong hồi tưởng kia những gì cô từng thấy từng nghe mà còn nhiều hơn nữa, nhiều hơn nữa. Hàng nghìn bức hình của những đóa Hoa-Giờ mọc lên như từ một chiếc giếng thần không bao giờ cạn kiệt. Từ mỗi bông hoa đều vang lên những từ mới. Momo chỉ cần chăm chú nghe cho thuộc là lặp lại được ngay, thậm chí còn ngâm nga được nữa. Cứ bảo là những từ kia kì lạ với bí ẩn, nhưng hễ nói theo là Momo liền hiểu ngay nghĩa của chúng.
Hóa ra đó là điều thầy Hora muốn nói khi bảo rằng từ ngữ phải mọc lên, phải phát triển trong lòng cô trước đã.
Hay cuối cùng chỉ là một giấc mơ thôi? Phải chăng mọi chuyện đều không xảy ra thật?
Trong khi còn đang ngẫm nghĩ thì Momo thấy giữa bãi đất tròn có một vật gì đang bò. Hóa ra cô rùa đang ung dung bò tìm cỏ để gặm!
Momo liền nhanh nhẹn bước xuống ngồi trên nền đất cạnh con vật. Rùa ta chỉ hơi ngẩm đầu, nhìn cô với đôi mắt đen nhánh già nua rồi thoải mái tiếp tục gặm cỏ.
"Chào em rùa,"- Momo nói.
Trên mai rùa không hiện lên câu trả lời nào.
"Có phải em," Momo hỏi "tối hôm qua đã dẫn chị đến gặp thầy Hora không?"
Vẫn không có câu trả lời. Momo thở dài thất vọng.
"Thật tiếc," cô lẩm bẩm, "hóa ra em chỉ là một con rùa bình thường chứ không phải con rùa... chặc, chị quên mất tên nó rồi. Một cái tên nghe thật hay, nhưng dài và lạ. Chị chưa từng nghe thấy cái tên ấy bao giờ."
"KASSIOPEIA!" Trên mai rùa bỗng hiện lên những chữ cái lập lòe. Momo thích thú lẩm nhẩm đánh vần.
"Phải rồi!" Cô vừa kêu vừa vỗ tay, "đúng cái tên này! Đúng là em rồi? Em chính là con rùa của thầy Hora, phải không?"
"CÒN AI KHÁC NỮA?"
"Nhưng sao em không trả lời chị ngay?"
"EM BẬN ĂN SÁNG" hiện trên mai rùa.
"Chị xin lỗi!" Momo nói. "Chị đâu muốn quấy rầy em. Chị chỉ muốn biết sao bỗng dưng chị lại ở đây?"
"CHỊ MUỐN THẾ MÀ!"Lưng rùa hiện câu trả lời."Lạ thật." Momo lẩm bẩm, "chị không nhớ đấy. Thế còn em Kassiopeia? Sao em không ở lại với thầy Hora mà theo chị về đây?"
"EM MUỐN THẾ" Hiện lên trên mai rùa.
"Cám ơn em." Momo nói, "em thật tốt."
"KHÔNG DÁM," đó là câu đáp. Chừng như rùa ta tạm thời không muốn trò chuyện nữa, vì nó lại lẫm chẫm bò đi để tiếp tục bữa ăn sáng.
Momo ngồi xuống bậc đá, khấp khởi mừng sẽ được gặp lại chú Beppo, anh Gigi và đám bạn trẻ. Có lại thả hồn lắng nghe tiếng nhạc không ngừng nổi lên trong lòng. Và rồi tuy một mình trơ trọi, không có ai nghe, cô vẫn không ngần ngại, không điệu bộ, cất tiếng hát to hơn trong ánh mặt trời lên những lời và âm điệu kia. Và lần này cô như cảm thấy chim chóc, giun dế, cây cối, đến cả những tảng đá xưa cũ cũng đều lắng nghe. Cô không thể nào biết được rằng sẽ có một thời gian dài cô không tìm được ai khác làm thính giả. Cô không thể nào biết được rằng mình chỉ hoài công chờ đợi bạn bè, rằng cô đã đi vắng quá lâu và trong thời gian đó thế giới đã đổi thay.
Với Gigi- Hướng dẫn viên du lịch thì màu xám đã giải quyết tương đối dễ dàng hơn.
Đầu đuôi như thế này: khoảng một năm trước, ít ngày sau khi Momo đột nhiên biến mất không tông tích, trên báo có một bài dài về Gigi. Tựa đề là "Nhà kể chuyện chân chính cuối cùng." Bài báo còn cho biết có thể nghe gã kể chuyện ở đâu, lúc nào. Người yêu chuộng không thể bỏ qua.
Thế là càng ngày càng có nhiều người tìm đến Nhà hát lộ thiên cổ để được nghe và tận mắt thấy Gigi. Dĩ nhiên gã không phản đối. Gã kể - như xưa nay luôn vẫn kể- những chuyện gã chợt nghĩ ra, rồi cuối cùng ngửa mũ đi quanh; lần nào chiếc mũ cũng đầy những tiền giấy và tiền đồng. Ít lâu sao gã được một hãng du lịch nhận vào làm, lại còn trả gã thêm một khoản tiền để được độc quyền quảng cáo gã như một "kỳ quan". Du khách được chở đến bằng xe buýt để nhìn ngắm gã và chỉ ít lâu sau gã phải giữ đúng thời khắc quy định để những ai đã trả tiền được dịp nghe gã kể chuyện.
Ngay hồi đó Momo đã thấy Gigi không còn thật là Gigi nữa, vì chuyện của gã đã nhạt nhẽo rồi, dù Gigi vẫn kiên quyết không kể hai lần cùng một câu chuyện, tuy người ta sẵn lòng trả thù lao gấp đôi.
Chỉ vài tháng sau Gigi đã không cần phải trình diễn ở Nhà hát lộ thiên cổ và ngửa mũ đi quanh xin tiền nữa. Đài phát thanh đã mời gã, rồi đến Đài truyền hình. Từ đó Gigi kể mỗi tuần ba lần trước hàng triệu khán thính giả những câu chuyện của gã và kiếm được bộn tiền.
Rồi Gigi cũng không còn ở gần Nhà hát lộ thiên cổ nữa, mà dọn về khu phố khác hoàn toàn những kẻ giàu sang, nổi tiếng. Gã thuê một ngôi nhà bề thế, hiện đại nằm giữa một khu vườn rộng được chăm sóc kỹ lưỡng. Gã không lấy tên Gigi nữa, mà đổi thành Girolamo.
Tất nhiên đã từ rất lâu rồi gã thôi không nghĩ ra chuyện mới- như ngày trước nữa. Gã đâu có thì giờ!
Gã bắt đầu dè sẻn với những cốt chuyện mới nghĩ ra. Bây giờ từ một cốt chuyện đôi khi gã xào nấu thành năm chuyện khác nhau.
Rồi khi vẫn thấy chưa đủ để đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng, một ngày nọ gã đã làm cái việc lẽ ra không đươc làm: gã đã kể một trong những câu chuyện vốn dành riêng cho Momo.
Câu chuyện này được người ta nghe vội vã như mọi chuyện khác và rồi lại quên ngay. Người ta tiếp tục đòi hỏi gã thêm chuyện mới. Gigi choáng váng trước nhịp độ này khiến chẳng còn suy tính được gì nữa, mà lần lượt kể hết mọi chuyện vốn dành riêng cho Momo. Khi đã kể nốt câu chuyện chót rồi thì Gigi chợt cảm thấy như gã bị khoét trống rỗng, không nghĩ ra được chuyện gì mới nữa.
Sợ rằng sự thành công lìa bỏ mình, gã bắt đầu xào lại mọi chuyện cũ, chỉ thay tên mới và đổi đôi ba chi tiết. Lạ lùng sao hầu như chẳng ai nhận thấy điều này, hay ít ra nó không ảnh hưởng đến yêu cầu của những kẻ ái mộ gã.
Gigi bám khư khư vào sự thành công như kẻ sắp chết đuối giữ chặt miếng ván. Giờ đây gã quả đã giàu sang danh tiếng rồi, đó chẳng phải là điều trước đây gã vẫn luôn mơ ước sao?
Nhưng đôi khi giữa đêm khuya, nằm đắp chăn lụa trên chiếc giường êm ái, gã lại khao khát một cuộc sống khác, với Momo, với ông già Beppo, với đám trẻ, và trong cuộc sống ấy gã vẫn còn biết thế nào là kể chuyện đúng nghĩa.
Nhưng chẳng còn con đường nào đưa gã về nơi ấy được nữa, vì Momo đã và hiện còn đang mất tích. Thoạt tiên Gigi có vài lần thử tìm cô, sau đó gã không còn chút rảnh rang nào nữa. Giờ thì gã có ba cô thư ký năng nổ; gã đọc chuyện nghĩ ra cho họ ghi chép, còn họ lo việc ký hợp đồng, quảng cáo và sắp xếp lịch làm việc cho gã. Nhưng không thể dành chút ngày giờ nào cho việc tìm kiếm Momo được.. Gigi giờ đây không còn giống Gigi ngày trước được bao nhiêu. Nhưng một ngày nọ, gã thu hết chút ít còn sót lại này, quyết định thức tỉnh. Nay gã là người có tên tuổi rồi, gã tự nhủ, tiếng nói của gã có sức mạnh được hàng triệu người nghe. Ai, nếu không phải gã, có thể nói toạc cho mọi người biết sự thật! Gã muốn kể hết cho mọi người về bọn này! Gã sẽ nói thêm rằng đây không phải là chuyện bịa đặt và yêu cầu khán, thích giả giúp gã tìm kiếm Momo.
Gã có quyết định vào cái đêm gã tha thiết nhớ những người bạn cũ. Rồi vừa mới hửng đông gã đã ngồi vào sau chiếc bàn giấy đồ sộ định ghi nhớ vắn tắt kể hoạch hành động của mình. Nhưng gã chưa kịp viết chữ nào thì chuông điện thoại đã ré lên. Gã nhấc máy, nghe rồi cứng người vì sợ.
Một giọng nói không có trọng âm, tạm gọi là giọng màu xám tro, nói với gã qua máy mà gã liền cảm thấy buốt giá dâng lên trong người, như từ tủy xương lạnh ra.
"Đừng có mà giở trò!" giọng kia nói. "Bọn ta lấy lòng tốt khuyên mi đấy."
"Ai đó?" Gigi hỏi.
"Mi biết rõ quá mà," giọng kia đáp. "Bọn ta đâu cần phải tự giới thiệu. Tuy mi chưa được hân hạnh làm quen với bọn ta, nhưng mi đã hoàn toàn thuộc về bọn ta từ lâu rồi. Chớ có bảo rằng mi không biết chuyện này đấy!"
"Các người muốn gì ở tôi chứ?"
"Bọn ta không hài lòng về chuyện mi vừa định làm đấy. Hãy ngoan ngoãn dẹp ngay chuyện đó đi, nghe chưa?"
Gigi thu hết can đảm
"Không," gã nói, "tôi không bỏ. Tôi không còn là thằng Gigi-Hướng dẫn viên du lịch tầm thường vô danh nữa. Bây giờ tôi là một nhân vật nổi tiếng. Rồi các người sẽ mở mắt xem có đọ sức nổi với tôi không."
Cái giọng kia cười không thành tiếng mà hai hàm răng của Gigi va vào nhau lập cập.
"Mi chẳng là cái thớ gì." giọng đó nói. "Bọn ta đã tạo nên mi. Mi chỉ là con búp bê băng cao su thôi. Bọn ta đã bơm phồng mi lên đấy. Nếu mi chọc giận thì bọn ta sẽ xì hơi ra ngay. Hay mi tưởng thật rằng nhờ chút tài mọn của mi mà mi được như ngày nay, hử?"
"Phải, đúng như thế," Gigi khàn khàn đáp,
"Tội nghiệp gã Gigi oắt con chưa kìa," giọng kia nói,"mi vẫn cứ mãi ảo tưởng. Trước đây mi là ông hoàng Girolimo dưới lốt của gã Gigi nghèo khổ đáng thương. Còn bây giờ mi là gì nào? Là gã Gigi khốn khổ đáng thương dưới lốt ông hoàng Girolimo. Dẫu sao mi cũng nên biết ơn bọn ta, vì rốt cuộc chính bọn ta đã đáp ứng trọn vẹn mọi ước mơ của mi."
"Không đúng!" Gigi lắp bắp. "Nói láo!"
"Trời ạ!" Giọng nọ đáp rồi lại cười không thành tiếng, "thớ mi mà lại đòi đôi co với bọn ta về sự thật thì hỏi có ngược đời không? Trước kia mi luôn có nhiều châm ngôn hay ho về thật giả lắm mà. Không được đâu, Gigi đáng thương ơi, nếu mi lại định vin vào sự thật thì chẳng ăn thua gì đâu. Mi chỉ giỏi huênh hoang khoác lác, thế mà nổi tiếng được là nhờ có bọn ta trợ giúp, thành ra nói về sự thật thì mi không có thẩm quyền. Đừng có bẻm mép nữa!"
"Các người đã làm gì Momo?" Gigi thì thào.
"Mi bận tâm về chuyện này làm gì cho mệt cái đầu xinh xắn nhưng đần độn của mi! Mi không thể giúp gì con bé được nữa. Mi định kể chuyện vớ vẩn về bọn ta thì lại càng không giúp gì được. Làm như thế thì điều duy nhất mi đạt được là sự thành công rực rỡ của mi đến nhanh bao nhiêu sẽ qua nhanh bấy nhiêu. Dĩ nhiên mi phải tự quyết định thôi. Bọn ta không định ngăn cản mi đóng vai người hùng để rồi tan tành sự nghiệp, nếu mi tha thiết muốn. Nhưng đừng chờ đợi bọn ta tiếp tục giơ tay che chở mi, nếu mi vong ơn như vậy. Thế nào, giàu có và nổi tiếng chẳng sướng hơn nhiều ư?"
"Có chứ," Gigi nghẹn ngào đáp.
"Đấy, thấy chưa! Vậy thì chớ dại mà đụng đến bọn ta, rõ chưa? Hãy cứ tiếp tục kể cho người ta những điều họ muốn nghe là tốt hơn cả!"
"Làm sao giờ đây tôi có thể tiếp tục như thế được nữa, khi đã biết rõ hết cả mọi chuyện?" Gigi gắng gượng nói.
"Ta cho mi một lời khuyên tốt: đừng quá quan trọng hóa mình. Vụ này thật chẳng liên quan gì tới mi. Xét như thế thì mi vẫn tiếp tục làm mọi chuyện một cách tuyệt vời như từ trước tới nay được thôi!"
"Vâng," Gigi thì thầm, mắt nhìn sững đâu đâu, "xét như thế..."
Rồi có tiếng gác máy nên Gigi cũng gác máy luôn. Gã gục đầu trên tấm bàn viết lớn, giấu mặt trong hai cánh tay, người rung lên, nức nở không thành tiếng.
Từ hôm ấy Gigi mất hết mọi tự trọng. Gã từ bỏ ý định kia và tiếp tục làm như từ trước đến nay, nhưng khi sống như thế gã cảm thấy mình giống như một tên đại bịp. Mà gã bịp bợm thật. Trước đây trí tưởng tượng của gã đã dắt gã trên những con đường phiêu bồng và gã cứ việc vô tư đi theo nó. Còn giờ đây gã thành kẻ nói dối như Cuội!
Gã biến thành một thằng hề, một con rối của khán giả, gã biết! Gã bắt đầu chán ghét việc mình làm. Thành ra những câu chuyện gã kể cứ càng thêm ngớ ngẩn và ướt át kiểu cải lương. Nhưng chúng lại không làm tổn hại đến sự thành công của gã, ngược lại, người ta bảo đó là phong cách mới và lắm kẻ tìm cách bắt chước gã. Gã trở thành mốt thời thượng lớn. Nhưng Gigi không thấy vui thích chút nào. Vì bây giờ gã đã biết nhờ ai gã mới được thế này. Gã chẳng được chút lợi lộc gì, mà đã mất tất cả.
Nhưng gã vẫn phóng xe hết từ nơi trình diễn này đến nơi khác, vẫn lấy những chuyến bay nhanh nhất, đi đâu đứng đâu gã cũng đều đọc không ngừng cho các cô thư kí ghi chép những câu chuyện cũ của gã dưới lớp vỏ mới. Gã "thành công đến kinh ngạc"- như mọi tờ báo đưa tin.
Gã Gigi mơ mộng đã biến thành gã Girolamo bịp bợm như thế đấy.
Còn với ông già Beppo- Phu quét đường thì bọn người màu xám đã phải tốn công sức đối phó hơn nhiều.
Sau cái đêm Momo biến mất, mỗi khi rảnh việc, ngày nào ông cũng ngồi ở Nhà hát lộ thiên cổ, ngóng chờ cô. Mỗi ngày ông một thêm lo lắng hơn. Cuối cùng, chịu không nổi nữa, ông quyết định đi báo cảnh sát, bất chấp mọi phản đối hợp lý của Gigi.
"Nếu con bé còn sống," ông tự nhủ, "thì dù có bị cảnh sát tống trở lại vào trại mồ côi với cửa sổ có song sắt vẫn tốt hơn là bị bọn người màu xám giam giữ. Con bé đã từng trốn khỏi một trại mồ côi như thế này thì có thể nó sẽ lại trốn được nữa. Có thể mình xin được cho nó khỏi phải vào trại. Nhưng trước hết phải tìm cho ra nó đã."
Thế là ông tới đồn cảnh sát gần nhất bên rìa thành phố. Ông đứng một lúc lâu trước cửa đồn, hai tay xoay xoay mãi vành mũ, rồi mới dám dứt khoát đi vào.
"Ông cần gì?" Viên cảnh sát, đang bận điền một tờ khai dài và phức tạp, hỏi.
Mất một lúc Beppơ mới lên tiếng nổi: "Thưa, đã có một chuyện đáng sợ xảy ra."
"Thế à?", viên cảnh sát vừa tiếp tục viết vừa hỏi, "nhưng chuyện gì mới được chứ?"
"Chuyện liên quan đến bé Momo của chúng tôi," Beppo đáp.
"Một đứa bé à?"
"Vâng, một bé gái."
"Con ông à?"
"Không," Beppo bối rối, "có nghĩa là... vâng, nhưng tôi không phải là bố."
"Không mà lại có nghĩa là vâng!" Viên cảnh sát bực bội nói. "Đứa bé đó là con ai? Ai là bố mẹ nó?"
"Không ai biết cả," Beppo đáp.
"Thế đứa nhỏ đăng ký ở đâu?"
"Đăng ký à?" Beppo hỏi."À, tôi nghĩ rằng ở chỗ chúng tôi. Chúng tôi biết nhau cả."
"Nghĩa là không đăng kí," viên cảnh sát thở dài, nói "Ông biết như thế là cấm chứ? Không đăng ký thì sẽ thành bát nháo hết cả! Đứa bé ở nhà ai?"
"Ở nhà nó," Beppo đáp, "nghĩa là ở Nhà hát lộ thiên cổ. Nhưng hiện nó không còn ở đó nữa. Nó biến mất rồi"
"Khoan đã!" Viên cảnh sát nói, "nếu tôi hiểu không nhầm thì hiện có một bé gái lang thang đang sống ở khu phế tích kia, tên là... ông vừa nói tên gì nhỉ?"
"Dạ, Momo ạ," Beppo đáp.
Viên cảnh sát bắt đầu ghi biên bản.
".. tên là Momo. Momo gì nữa? Xin cho biết họ đầy đủ của đứa bé!"
"Momo thôi, không còn gì hết," Beppo nói.
Viên cảnh sát gãi cằm, chán nản nhìn Beppo.
"Như thế đâu có được, ông bạn. Tôi thật lòng muốn giúp ông, nhưng như thế này thì không lập bản thông báo được. Thôi, ông hãy cho tôi biết tên họ ông là gì cái đã."
"Beppo," Beppo đáp.
"Gì nữa?"
"Dạ, Beppo- Phu quét đường."
"Tôi hỏi tên họ, không hỏi nghề nghiệp!"
"Vừa là họ vừa là nghề nghiệp luôn," Beppo nhẫn nại giải thích.
Viên cảnh sát buông bút, úp mặt vào hai bàn tay,
"Chúa ơi!" Ông ta chán nản lamả bẩm, "Tại sao tôi phải trực ban nhè đúng lúc này."
Rồi ông ta đứng thẳng người, duỗi thẳng vai, mỉm cười khích lệ nhìn ông già, đoạn nói bằng giọng ôn tồn của một người hộ lý: "Thôi, ta để lát nữa ghi lý lịch cũng được. Bây giờ ông hãy kể cho tôi nghe tuần tự việc gì đã xảy ra và sự việc nh ư thế nào."
"Mọi sự à?" Beppo nghi ngại hỏi.
"Mọi sự liên quan đến chuyện này," viên cảnh sát đáp. "Tuy tôi hoàn toàn không có thì giờ, cho tới trưa nay tôi phải điền hết núi đơn này đây, sức lực và đầu óc tôi đã kiệt quệ rồi, nhưng ông cứ việc thong thả kể hết mọi điều ông muốn nói."
Ông ta ngả người ra sau, nhắm mắt lại, chẳng khác một người tử vì đạo đang trên giàn hỏa. Rồi ông già Beppo bắt đầu kể bằng cái cách kì quặc và dông dài cả câu chuyện, kể từ lúc Momo đến ở tại Nhà hát lộ thiên cổ, về cá tính độc đáo của cô, cho tới chuyện của bọn người màu xám nơi bãi rác mà chính ông đã nghe lén được.
"Rồi cũng chính đêm đó," Beppo kết thúc, "Momo biến mất."
Viên cảnh sát buồn phiền nhìn ông hồi lâu.
"Nói cách khác," cuối cùng ông ta nói, "đã từng có một cô bé rất không chắc có thực, với sự hiện hữu không thể chứng minh đã bị một loại bóng ma- như ông vừa nói mà ai cũng biết là không có- bắt cóc đem đi tận đâu đâu. Ngay cả việc này cũng không chắc chắn nũa. Vậy mà giờ đây cảnh sát lại phải lo chuyện này ư?"
"Thưa vâng!" Beppo đáp.
Viên cảnh sát cúi tới trước, sẵng giọng: "Ông thở vào mũi tôi xem nào!"
Beppo không hiểu ý viên cảnh sát, ông nhún vai, tuân lệnh thở một hơi vào mặt viên cảnh sát.
Ông ta lắc đầu quầy quậy. "Rõ ràng ông không say rượu."
"Không," Beppo lẩm bẩm, mặt đỏ bừng vì bối rối, "tôi chưa hề say rượu bao giờ."
"Vậy tại sao ông lại kể cho tôi những chuyện vớ vẩn này?" Viên cảnh sát hỏi." Ông cho rằng cảnh sát lẩm cẩm đến nỗi tin ba cái chuyện bịa đặt đó hay sao?"
"Dạ," Beppo thật thà đáp.
Bây giờ thì viên cảnh sát không còn nhẫn nại nổi chút nào nữa. Ông ta đứng bật dậy, đấm mạnh lên tờ đơn dài và phức tạp. "Đủ rồi nhé!" Ông ta đỏ mặt tía tai hét lớn. "Ông cút xéo ngay cho khuất mắt, kẻo tôi cùm ông lại vì tội phỉ báng công quyền!"
"Xin lỗi," Beppo hoảng vía lẩm bẩm, "ý tôi khác. Tôi muốn nói rằng..."
"Xéo!" Viên cảnh sát gào lên.
Beppo quay người đi ra.
Những ngày sau Beppo lại đến nhiều đồn cảnh sát khác. Chuyện diễn ra ở những nơi đó không khác lần đầu này tí nào. Người ta tống cổ ông ra, người ta thân mật khuyên ông về nhà hoặc người ta an ủi ông, để ông đi cho rảnh nợ.
Nhưng lần nọ Beppo gặp một viên chức cao cấp hơn song lại thiếu tính hài hước của các đồng nghiệp. Ông ta nghe hết cả câu chuyện mà mặt vẫn thản nhiên rồi lạnh lùng nói: "Lão già này điên quá. Phải chẩn định xem lão có gây phương hại cho xã hội không. Nhốt lão vào nhà giam!"
Beppo phải nằm nửa ngày trong phòng giam, rồi bị hai viên cảnh sát lôi ra xe như lôi hành lý. Họ chở ông xuyên thành phố, tới một tòa nhà lớn màu trắng, cửa sổ có song sắt. Nhưng đó không phải nhà tù như Beppo thoạt nghĩ, mà là một nhà thương cho những người bệnh tâm thần.
Ở đây người ta khám nghiệm ông tới nơi tới chốn. Ông giáo sư và các hộ lý niềm nở với ông, họ không cười nhạo, không chửi mắng, thậm chí còn tỏ vẻ thích nghe chuyện của ông nữa, nên ông cứ phải kể đi kể lại mãi. Tuy họ không hề phản bác, nhưng Beppo chẳng bao giờ nghĩ rằng họ thật sự tin ông cả. Ông chẳng biết thật ra họ nghĩ thế nào, có điều họ cũng không cho ông về luôn.
Mỗi lần ông hỏi bao giờ được về thì đều nghe trả lời: "Sắp rồi, nhưng bây giờ chúng tôi còn cần ông. Ông nên hiểu là việc nghiên cứu chưa xong, nhưng chúng tôi có tiến bộ."
Beppo lại nghĩ rằng họ đang điều tra xem cô bé Momo hiện bị giam giữ ở đâu nên nhẫn nại.
Họ xếp cho Beppo một cái giường trong một phòng ngủ lớn, cùng với nhiều bệnh nhân khác nữa. Một tối nọ ông thức giấc, thấy trong ánh đèn dự phòng mờ mờ có người đứng ngay bên cạnh giường mình. Mới đầu ông chỉ phát hiện ra đốm lửa đỏ lập lòe của đầu điếu xì gà, nhưng rồi ông nhận ra chiếc mũ cứng tròn và chiếc cặp mà hình dạng kia xách trong bóng tối. Beppo biết ngay đó là một trong những tay áo màu xám. Ông thấy lạnh thấu tim, định kêu cứu.
"Im!" Giọng nói màu xám tro cất lên trong bóng đêm, "tôi được giao trách nhiệm thương lượng với ông. Hãy nghe tôi nói đã; rồi chỉ trả lời khi nào tôi hỏi thôi! Ông đã được nếm chút ít quyền lực của bọn tôi để thấy nó vươn tới tận đâu rồi đấy. Nếu ông muốn nếm thêm nữa thì tùy ông thôi. Mặc dù ông chẳng làm hại được bọn tôi chút xíu nào qua câu chuyện vớ vẩn mà ông bắt mọi người phải nghe, nhưng bọn tôi cũng không thích thú gì. Nói thêm là dĩ nhiên ông đoán đúng hoàn toàn rằng bọn tôi đã bắt giữ cô bạn Momo bé bỏng của ông. Nhưng ông hãy từ bỏ hy vọng hão huyền rằng người ta có thể tìm thấy cô bé ở chỗ bọn tôi. Chẳng bao giờ có chuyện đó được đâu. Còn việc ông định cố gắng giải thoát cô bé thì cũng chẳng làm cho hoàn cảnh đứa nhỏ đáng thương kia dễ chịu hơn đâu. Ông bạn quý hóa ạ, mỗi lần ông thử là một lần cô kia phải trả nợ hết đấy. Vậy thì từ nay về sau ông hãy cân nhắc nên nói gì và làm gì."
Tay màu xám kia nhả vài vòng khói rồi hài lòng ngắm nghía tác dụng lời nói của mình trên Beppo. Ông già quét đường đã tin không sót một lời.
"Ngắn gọn thôi, vì thời gian của tôi rất quý báu," tay màu xám nọ nói tiếp, "tôi ngã giá nhé. Bọn tôi trả ông đứa nhỏ với một điều kiện: ông không bao giờ được hé một lời nào về bọn tôi và việc làm của bọn tôi. Ngoài ra bọn tôi đòi ông, cứ gọi là để chuộc đi, 100000 giờ tiết kiệm. Đừng thắc mắc bọn tôi sở hữu số thời gian ấy bằng cách nào, đó là việc của bọn tôi. Ông chỉ có việc tiết kiệm số thời gian này thôi. Tiết kiệm thế nào là việc của ông. Nếu ông đồng ý thì bọn tôi sẽ lo để ông được thả về trong mấy ngày tới. Bằng không, ông sẽ ở lại đây mãn đời và Momo cũng sẽ ở với bọn tôi mãn đời. Ông suy nghĩ đi. Bọn tôi chỉ rộng lượng lần này thôi đấy. Sao?"
Beppo nuốt nước bọt hai lần rồi đằng hắng: "Đồng ý."
"Biết điều lắm," tay màu xám hài lòng nói, "hãy nhớ là: tuyệt đối im miệng và 100000 giờ. Ngay sau khi bọn tôi có được những thứ này thì ông sẽ nhận được cô bé Momo. Chào ông bạn quý."
Rồi tay màu xám kia rời khỏi căn phòng ngủ. Trong bóng đêm, làn khói hắn để lại phía sau như sáng mờ mờ, tựa ma trơi.
Từ tối hôm ấy Beppo không kể câu chuyện nọ nữa. Rồi khi được hỏi sao trước kia ông lại kể thì Beppo chỉ buồn bã nhún vai. Chỉ vài ngay sau họ thả ông ra.
Song Beppo không về nhà, mà đến thẳng ngôi nhà lớn có cái sân, nơi ông và các đồng nghiệp vẫn nhận chổi và xe cút kít. Ông lấy chổi rồi đi vào thành phố, bắt tay vào việc quét dọn.
Nhưng giờ đây Beppo khong quét theo kiểu mỗi bước một hơi thở, mỗi hơi thở một nhát chổi như trước kia nữa, mà ông hối hả quét; ông chẳng còn thích thú công việc mình làm nữa mà quét chỉ để gom đủ thời gian đi chuộc thôi. Ông đau đớn thấy rõ rằng như thế là đã chối bỏ và phản bội niềm tin mãnh liệt của mình, phải, và luôn cả cuộc sống của mình từ trước đến nay nữa. Ông khổ sở vị thấy chán ghét việc mình làm.
Nếu chỉ vì riêng ông thì Beppo thà chết đói hơn là phản bội chính mình. Nhưng vì ông muốn chuộc Momo, mà đó là cách duy nhất tiết kiệm thời gian mà ông biết.
Ông quét cả ngày lẫn đêm, không hề về nhà. Khi nào quá mệt, ông ngồi bừa xuống những băng ghế trên đường phố hay trên gờ rãnh nước, chợp mắt một lúc ngắn. Rồi ông lại bật dậy, tiếp tục quét. Giữa tầm, ông cũng chỉ nuốt vội chút gì đó cho đỡ đói. Ông không trở về mái lều cạnh Nhà hát lộ thiên nữa.
Ông quét hết tuần này qua tuần khác, hết tháng này qua tháng khác. Hết thu rồi sang đông. Beppo cứ tiếp tục quét.
Rồi sang xuân và lại đến hè. Beppo chẳng chú ý tới nữa, ông chỉ quét rồi lại quét, để dành dụm 100000 giờ tiền chuộc.
Người dân thành phố không có giờ rảnh để chú ý đến ông già nhỏ thó kia. Còn những ai quan tâm, số này rất ít, lại đưa ngón tay gõ lên trán, sau lưng ông, khi ông hổn hển vội vã vung chổi đi qua, như thể đó là tất cả lẽ sống của đời mình. Việc người ta cho ông là dở hơi đâu có gì lạ nên Beppo chẳng hề để ý tới. Chỉ thỉnh thoảng có ai đó hỏi ông sao vội vã vậy thì ông mới ngừng tay một lúc, buồn rầu và sợ hãi nhìn người nọ rồi đặt ngón tay ngang đôi môi.
Nhưng khó khăn nhất cho bọn người màu xám là hướng đám bạn của Momo theo kế hoạch của họ. Sau khi Momo mất tích, đám trẻ vẫn thường cố gắng tụ họp tại Nhà hát lộ thiên cổ. Chúng luôn nghĩ ra trò chơi mới; chỉ cần đôi ba cái thùng, mấy hộp giấy cũ đủ để chúng thực hiện những chuyến du lịch tuyệt vời quanh thế giới hay dựng nên những lâu đài, thành quách. Chúng vẫn cứ bàn tính và kể chuyện cho nhau nghe, nói tóm lại, chúng chơi đùa như vẫn có Momo cùng chơi vậy. Mà thật vậy, lạ lùng sao, mọi chuyện diễn ra như thể Momo vẫn có mặt ở đó.
Hơn nữa đám trẻ không mảy may nghi ngờ một khoảng khắc nào rằng Momo sẽ không trở lại. Chúng thấy đề cập tới việc này là thừa và vô nghĩa. Chính sự vững tin ngầm ấy đã gắn bó chúng với nhau: Momo vẫn luôn là một đứa trong bọn chúng là điểm trung tâm của cả bọn mà chúng ngầm công nhận, dù cô có mặt hay không.
Về điểm này thì bọn người màu xám chằng làm gì nổi.
Không trực tiếp ảnh hưởng được trên đám trẻ này để tách chúng khỏi Momo thì họ phải đạt cho kỳ được bằng đường vòng thôi. Đường vòng này chính là người lớn, những kẻ có quyền trên lũ trẻ. Không phải mọi người lớn, tất nhiên rồi, nhưng những người có khả năng làm đồng lõa cho họ thì tiếc thay lại không phải là ít đâu. Đúng là bọn người màu xám đã dùng chính vũ khí của lũ trẻ để trị lại chúng.
Thế là đột nhiên có vài người lớn nhớ lại lần lũ trẻ diễu hành, nhớ lại những biểu ngữ và bích chương của chúng.
"Chúng ta phải làm gì mới được," họ nói, "không thể nào bào chữa cho chuyện ngày càng có thêm nhiều đứa trẻ bị bỏ bê ở nhà một mình. Đây không phải là trách các bậc phụ huynh bởi vì chính đời sống văn minh hiên đại đã không có thì giờ chăm lo con cái đến nơi đến chốn. Nhưng Ủy ban Hành chính của thành phố phải quan tâm đến việc này."
"Cũng không thể bào chữa."- những người khác nói," cho chuyện việc giao thông vốn thông suốt lại bị những đứa trẻ luẩn quẩn phất phơ gây ách tắc được. Thiệt hại do tai nạn giao thông gây ra bởi trẻ nhỏ càng ngày càng tăng, mà số tiền này ta có thể dùng vào việc khác hợp lí hơn."
"Trẻ con thiếu sự giám sát," lại có những người khác nói, "sẽ thoái hóa đạo đức và trở thành tội phạm. Ủy ban Hành chính của thành phố phải lo làm cách nào tóm hết bọn này. Phải xây trại trừng giới để giáo dục chúng thành những thành viên hữu ích và có năng lực cho xã hội."
Rồi lại có những người khác nói; "Trẻ nhỏ là tài nguyên con người của tương lai. Tương lai sẽ là thời đại của động cơ phản lực và óc điện tử. Sẽ cần đến cả một đạo quân chuyên gia và thợ chuyên môn để sử dụng những máy móc này. Nhưng thay vì chuẩn bị con em chúng ta cho thế giới ngày mai thì chúng ta vẫn còn mải để cho nhiều cháu phí hoài những năm tháng quý báu của chúng vào những trò chơi vô bổ. Thật là nhục nhã cho nền văn minh của chúng ta và là tội ác đối với loài người trong tương lại!"
Những luận điệu này khiến những kẻ tiết kiệm thời gian thấy sáng tỏ vô cùng. Và vì thành phố đã có rất nhiều người tiết kiệm thời gian, nên họ nhanh chóng thuyết phục được Ủy ban Hành chính về việc cần thiết phải làm gì đấy cho nhiều đứa trẻ thiếu người chăm sóc.
Thế là mọi khu phố đều thành lập những Kho Giữ Trẻ. Đó là những ngôi nhà to mà mọi đứa trẻ thiếu người chăm sóc đều phải được gửi đến và có thể được đón ra tùy điều kiện. Nghiêm cấm trẻ chơi ngoài đường phố, công viên hay bất cứ đâu khác. Đứa trẻ nào bị bắt gặp thì sẽ có ngay người đưa tới Kho Giữ Trẻ gần nhất. Và cha mẹ của chúng phải tính đến chuyện sẽ bị phạt nặng.
Đám bạn của Momo cũng không tránh khỏi quy định mới này. Chúng bị tách khỏi này, rồi bị tống vào các Kho Giữ Trẻ khác nhau tùy theo chúng ở khu phố nào. Ở những chỗ này thì chúng đừng hòng được phép tự nghĩ ra trò chơi nữa. Trò chơi là do các giám thị quy định, và chỉ những trò chơi nào mà chúng có thể học được chút gì bổ ích thôi.
Dĩ nhiên, nếu chỉ chơi như thế thì chúng sẽ quên những điều như: biết vui, biết phấn khởi và biết mơ mộng.
Dần dà lũ trẻ sẽ có bộ mặt của những kẻ tiết kiệm thời gian tí hon thì chúng chẳng còn nghĩ ra được trò gì nữa.
Chuyện duy nhất chúng vẫn còn có thể làm được là ồn ào, nhưng tất nhiên đó không phải là thứ ồn ào vui nhộn, mà là giận dữ và phá phách.
Còn bọn người màu xám không tự tìm gặp một đứa nhỏ nào hết. Tấm lưới họ bủa vây trên thành phố lớn này giờ đây đã ken dày và xem chừng không xẻ rách nổi. Ngay những đứa trẻ tinh ranh nhất cũng không chui qua được. Kế hoạch của bọn người màu xám đã thực hiện xong. Mọi chuyện đã chuẩn bị đâu vào đấy để chờ đón Momo trở về.
Từ ấy, Nhà hát lộ thiên cổ nằm trơ đó, đầy hoang vắng.
Và thế là giờ đây Momo ngồi trên bậc đá ngóng chờ các bạn. Cô đã ngồi chờ như thế suốt ngày, ngay từ lúc trở về. Nhưng không một ai tới cả. Không một ai.
Mặt trời đã ngả về hướng tây. Bóng đã đổ dài và trời đã lạnh.
Cuối cùng Momo đứng dậy. Cô đói, vì không có ai nghĩ đến chuyện đem đồ ăn thức uống cho bé nữa. Chưa từng có chuyện như thế này! Bữa nay, có lẽ cả anh Gigi và chú Beppo cũng đã quên mất cô rồi cũng nên. Nhưng, Momo nghĩ, hẳn đây chỉ là sơ ý thôi, một ngẫu nhiên đáng tiếc nào đấy thôi, rồi mai sẽ được giải thích rõ ngay ấy mà.
Momo bước tới chỗ con rùa đang ngủ, rụt kín cả đầu với chân. Cô ngồi xuống bên cạnh, rụt rè dùng đốt giữa ngón tay gõ nhẹ lên mai rùa. Rùa ta liền thò đầu ra nhìn cô.
"Chị xin lỗi," Momo nói, "đã đánh thức em. nhưng em có thể cho chị biết tại sao cả ngày hôm nay chẳng thấy bạn nào của chị tới đây vậy?"
Trên mai rùa hiện lên mấy chứ :"KHÔNG CÒN AI Ở ĐÂY CẲ."
Momo đọc mà không hiểu mấy chứ kia muốn nói gì.
"Thế à," cô vững tin nói, "chuyện này rồi ngày mai sẽ rõ cả thôi. Ngày mai các bạn chị chắc chắn sẽ đến mà."
"KHÔNG BAO GIỜ NỮA ĐÂU," đó là câu trả lời.
Momo nhìn đăm đăm mấy chữ sáng mờ kia một lúc.
"Em nói sao?" Cuối cùng cô hốt hoảng hỏi. "Có chuyện gì xảy ra với các bạn của chị?"
"ĐI HẾT RỒI," cô đọc.
Momo lắc đầu quầy quậy. "Không thể được," cô khẽ nói, "lẽ nào lại thế được. Chắc chắn em nhầm rồi, Kassiopeia ạ. Hôm qua tất cả còn họp đông đủ ở đây, rồi chẳng đi đến quyết định nào mà."
"CHỊ NGỦ LẤU QUÁ ĐẤY," Kassiopeia đáp.
Momo nhớ lại thầy Hora đã bảo rằng cô phải ngủ suốt một vòng quay của mặt trời, giống như hạt ngũ cốc ngủ trong lòng đất. Khi đồng ý ngủ, cô không nghĩ như thế là bao lâu. Giờ đây cô mới bắt đầu vỡ lẽ.
"Bao lau?" Cô thì thầm hỏi.
"NĂM VÀ NGÀY."
Phải mất một lúc Momo mới hiểu được câu trả lời này.
"Nhưng chú Beppo và anh Gigi," cuối cùng cô lắp bắp, "hai người đó nhất định còn đợi chị mà!"
"CHẲNG CÒN AI CẲ" hiện lên mai rùa.
"Sao có thể như thế được nhỉ?" Đôi môi Momo run run. "Đâu thể nào tất cả biết mất dễ dàng như thế được, tất cả đã...."
Trên mai Kasssiopeia chậm chạp hiện lên chữ: "QUA RỒI"
Lần đầu tiên trong đời Momo hiểu với tất cả phũ phàng hai chữ này nghĩa là gì. Trái tim cô trĩu buồn hơn bao giờ hết.
"Nhưng mình," cô sững sờ lẩm bẩm, "mình vẫn còn đây..."
Momo muốn bật khóc mà không nổi.
Một lát sau cô cảm thấy con rùa cọ vào đôi chân trần không giày dép của mình.
"EM Ở BÊN CHỊ MÀ!" hiện lên trên mai nó.
"Ừ," Momo mỉm cười can đảm, "Kassiopeia, em ở bên chị. Chị mừng lắm. Thôi, ta đi ngủ đi." Cô nâng con rùa lên, chui qua lỗ hổng nơi bờ tường xuống phòng mình. Dưới ánh chiều tà, Momo thấy tất cả vẫn y như khi mình rời khỏi đây. (Lúc ấy Beppo đã lại dọn dẹp căn phòng). Nhưng chỗ nào cũng một lớp bụi dày, mang nhện giăng khắp nơi.
Trên chiếc bàn con ghép bằng gỗ thùng có một phong thư tựa như chiếc hộp thiếc. Cả phong thư cũng đầy tơ nhện.
Trên bì thư viết "Gửi Momo".
Trái tim Momo rộn lên. Cô chưa từng nhận được một bức thư nào. Cô cầm lá thư trong tay, lật tới lật lui ngắm nghía, rồi mở phong bì lấy ra một mảnh giấy.
"Momo thân quý!" Cô đọc. "Anh đã dọn đi chỗ khác rồi. Khi trở về, nhớ tìm anh ngay nhé. Anh lo cho em lắm đấy. Thiếu em nhiều. Mong rằng em không gặp rủi ro gì. Khi nào đói thì em hãy lại chỗ Nino nhé. Anh ấy sẽ gửi giấy tính tiền và anh sẽ thanh toán hết. Cứ việc ăn thả cửa, em hiểu không? Mọi chuyện khác Nino sẽ kể em biết. Hãy nhớ đến anh! Anh cũng nhớ đến em!
Mãi mãi là của em
Gigi"
Mãi một lúc Momo mới đánh vần hết bức thư này, tuy hiển nhiên là Gigi đã hết sức cố viết nắn nót và rõ ràng. Cô vừa đọc xong thì tia sáng sót lại trong ngày cũng vừa tắt ngấm..
Nhưng Momo lại thấy được an ủi nhiều. Cô nhắc con rùa, đặt lên giường ngay canh mình. Trong khi đắp tấm chăn đầy bụi bậm, cô khẽ nói: "Em thấy chưa Kassiopeia, chị đâu có cô độc."
Nhưng con rùa hình như đã ngủ rồi. Còn Momo khi đọc thư, như thấy Gigi rõ mồn một trước mắt nên chẳng hề nghĩ rằng bức thư kia đã nằm đây suốt gần một năm trời.
Momo áp má vào tờ giấy. Giờ đây cô không còn thấy lạnh nữa.