watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Miền Thơ Ấu-Lời nói đầu - tác giả Vũ Thư Hiên Vũ Thư Hiên

Vũ Thư Hiên

Lời nói đầu

Tác giả: Vũ Thư Hiên

Tôi sung sướng được viết lời tựa cho ấn bản Miền Thơ ấu tại hải ngoại.
Đối với tôi đây là một niềm vui bất ngờ.
Khi đặt bút viết những dòng đầu tiên của cuốn sách mà hôm nay bạn đang cầm trong tay, tôi không dám tin rằng sẽ có ngày nó được thấy ánh sáng mặt trời. Lại càng không thể hình dung được rồi đây nó sẽ tới tay những người con bất hạnh của nước Việt đau thương giờ đây lưu lạc bốn phương trời.
Đối với tôi, cuốn sách này có ý nghĩa đặc biệt. Một thời nó đã là người bạn tâm tình, là cái nạng cho tôi vịn vào mà đi trên con đường vô định.
Tại Hỏa Lò Hà nội, một viên chấp pháp đã nói với tôi một câu thế này: "Anh bảo anh không sợ chết. Thế thì tôi phải nói để anh biết rằng có những cái còn đáng sợ hơn cái chết. ở đây lâu rồi anh khắc biết". Câu này tôi nhớ mãi. Càng ngẫm càng thấy anh ta có lý. Cái đáng sợ hơn cái chết mà anh ta muốn nói là sự ở tù vì tội chính trị. Anh cứ việc nằm xà lim dài dài, mà không bao giờ biết được ngày về.
Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, cũng như nhà cầm quyền ở bất cứ quốc gia cộng sản nào khác, rất khoái áp dụng cái chết từ từ cho các đối thủ chính trị. Người ta tuyên bố không một chút ngượng ngập rằng chuyên chính vô sản là thể chế không cần tới pháp luật. Trong thể chế này mỗi công dân là một người tù dự khuyết. Sinh mạng anh ta nằm gọn trong tay đảng cầm quyền. Cho tới nay, chưa có một thống kê nào đáng tin cậy về số người bị chết mòn mỏi trong nhà tù tại các quốc gia được gọi là xã hội chủ nghĩa.
Xà lim có nhiều loại, nhiều kiểu, như mọi người Việt Nam đều biết, gián tiếp hoặc trực tiếp. Tựu trung, chúng giống nhau ở chỗ xà lim nào cũng là một căn phòng hẹp, nếu ta có thể gọi cái chuồng người này là căn phòng, với rất ít ánh sáng và rất nhiều hôi thối. Thêm một cái cùm sắt ở cuối phản nằm - biểu tượng khắc nghiệt của quyền uy. Tôi ở qua nhiều xà lim, tính ra gần bốn năm rưỡi liên tục.
Những ngày đầu ở xà lim là những ngày tồi tệ nhất - từ khoảng không rộng rãi bên ngoài, đùng một cái, anh phải làm quen với sự sống chuồng cũi, với mấy bước cuồng cẳng trong mớ bùng nhùng những ý nghĩ lộn xộn về cuộc sống bị bỏ lại ngoài cửa nhà tù. Và bắt đầu một nỗi nhớ bâng khuâng về quá khứ, cho dù quá khứ mới là ngày hôm qua...
Mùa đông năm 1967 là một một mùa đông giá buốt, ít nhất là cho tôi, trong cái xà lim không có sưởi và không có quần áo ấm. Trong mùa đông ấy, không hiểu vì sao, tôi cảm thấy nhớ quê hương nhiều hơn bất cứ lúc nào. Cái đầu tiên gợi nhớ đến quê hương là mùi khói cay nồng từ những đống lá mà công nhân quét đường đốt lên để sưởi ấm, bên kia bức tường đá của nhà ngục. ở quê tôi người ta thường đốt những đống rấm như thế để khói ngăn sương muối không hạ xuống vườn rau. Mùi khói thoang thoảng lọt vào xà lim bỗng dưng gây nên nỗi nhớ cồn cào, da diết.
Gối đầu trên đôi tay, tôi nằm dài trên phản xi măng lạnh ngắt, thả hồn về quá khứ, tự hứa với mình rằng thể nào cũng phải viết một cuốn sách về cái làng bùn lầy nước đọng quê hương. Cái làng nhỏ nhoi và nghèo khổ ấy gắn liền với thời thơ ấu của tôi, cái thời không mấy hạnh phúc nếu đứng ngoài nhìn vào, nhưng tuyệt đẹp đối với tôi, mà cũng có thể đối với bất cứ ai từng có một cái quê để mà nhớ.
Lúc ấy tôi không nghĩ rằng cuốn sách tôi định viết sẽ dược thực hiện không phải ở nơi nào khác, mà trong nhà tù. ở Hỏa Lò tù nhân bị cấm đủ thứ, nhất là viết, hoặc đọc. Người ta cần làm cho người tù ngu đi tối đa. Một mẩu giấy báo bị quản giáo phát hiện trong xà lim cũng là một cái tội, người tù giấu nó sẽ bị kỷ luật cùm chân, bị cắt "tiếp tế. Thế thì còn nói chi tới viết sách. Trong năm tù đầu tiên tôi chưa có đủ kinh nghiệm dể biết rằng khi cần thiết người tù có thể làm được những việc anh ta không ngờ tới.
ở trại quân pháp Bất Bạt (Sơn Tây) sự sống trong xà lim còn tệ hơn ở Hỏa Lò. Tôi hoàn toàn bị cắt đứt với thế giới bên ngoài. Nếu ở Hỏa Lò người tù xà lim còn có thể đoán biết được một sự kiện nào đó xảy ra bên kia những bức tường và hàng rào dây kẽm gai nhờ nghe ngóng được động thái của bạn đồng cảnh ở các xà lim cùng khu, thì ở Bất Bạt cái đó hoàn toàn không có. Những người bị giam ở đây, bên cạnh xà lim tôi, thường đã qua thời kỳ hỏi cung (thẩm vấn). Họ yên tâm nằm chờ, tháng này qua tháng khác, mà cũng có thể năm này qua năm khác, nhưng họ có cái để mà chờ: đó là ngày chắc chắn sẽ được ra tòa lĩnh án.
Chúng tôi, những người một thời là người của Đảng (viết hoa), được Đảng đưa vào đây để giáo dục (!), trong một vụ án được coi là để trong nội bộ Đảng chứ không đưa ra trước pháp luật (sic) thì cứ nằm chết đấy cho tới ngày được Đảng "giải quyết". Không một ai có thể biết được bao giờ cái ngày ấy sẽ tới, và Đảng sẽ "giải quyết" vụ án của chúng tôi bằng cách nào cũng là điều không ai có thể đoán ra.
May cho tôi, trong một lần "tiếp tế vợ tôi mang cho tôi một cây bút bi hai màu. Có lẽ vợ tôi định tặng tôi món quà này theo thói quen, tôi có một đam mê khó hiểu đối với những cây bút, chứ người trong gia đình tôi không thể không biết người ta chẳng đời nào cho tù nhận thứ đồ quốc cấm này. Tôi tiếc rẻ phải kín đáo phá nát cây bút tuyệt đẹp để mang lọt được vào xà lim hai cái ruột bút nhét giữa hai đường chỉ áo bông.
Cuốn sách bắt đầu từ ấy, mùa thu năm 1969.
Tôi mải mê viết những trang đầu tiên trên vỏ bao thuốc lá, trên giấy kẹo, trên những riềm báo cũ mà gia đình bọc đồ "tiếp tế, (đến lúc đó nhà cầm quyền đã rộng lượng cho phép chúng tôi được giữ lại những tờ giấy có in chữ). Viết phải rất cẩn thận, không được lãng phí những mẩu giấy hiếm hoi, lại phải canh chừng lính gác năm phút mươi phút một lần lượn lờ qua phòng giam để kiểm tra.
Những mẩu "bản thảo" lắt nhắt không thể xếp thành trang, phải đánh số rõ ràng để không lẫn lộn, được gom lại, được cất giấu bằng mọi cách trong cái xà lim nhỏ hẹp. Sau đó là những ngày chờ đợi đến lần được gặp gia đình kế tiếp thì bí mật tuồn ra cho mẹ tôi, vợ tôi. Khi viết được nhiều, bản thảo tích lại cũng gây ra mối lo. Mà không phải gặp có kỳ có hạn đâu, gia đình muốn gặp thì làm đơn, khi nào người ta cho thì được gặp, không cho thì cứ chờ. Được cái từ năm tù thứ ba trở đi đám quản giáo coi nhà tiếp tế không còn khám xét kỹ mỗi lần tôi được gặp gia đình nữa. Vả lại, chẳng cần khám làm gì - chúng tôi đâu có biết ngày nào tháng nào được gặp vợ con đâu mà chuẩn bị. Tôi bao giờ cũng sẵn sàng, cho nên lần nào gặp gia đình cũng chuyển ra ngoài được một ít bản thảo.
Về sau này, trong xà lim Tân Lập (Phú Thọ), việc viết không còn khó như trước, mặc dầu vẫn phải canh chừng để không bị phát giác. Sau nhiều lần yêu cầu kiên trì, chúng tôi thậm chí còn được người ta chiếu cố cho phép gia đình mang cho giấy bút và vài cuốn tiểu thuyết ngoại quốc để đọc
Cuốn sách hình thành dần dần, từng ít một.
Một lần bọn công an nghi ngờ tôi chuyển gì ra, chúng chặn mẹ tôi và vợ tôi lại để khám, nhưng do bình tĩnh đối phó hai người đã mang được những mẩu giấy của tôi ra ngoài trót lọt.
Khi những bản thảo đã gom được kha khá, các em tôi - Vũ Chí Dũng, Vũ Thu Hương và Vũ Thu Hòa - hì hục chép lại. Năm 1976, sau chín năm tù, tôi trở về thì đã có một bản thảo hoàn chỉnh. Các em tôi còn đánh máy ra làm mấy bản sạch sẽ để những người thân đọc.
Mẹ tôi đọc xong, bảo:
- Mẹ thích. Nhưng sách không in được đâu. Một là, tên của con bị cấm. Hai là, chuyện một nhà, một làng, liệu mấy ai quan tâm?
Bố tôi nhận xét:
- Dù sao thì nó cũng ghi lại dấu vết một thời kỳ của nông thôn Việt Nam, vùng Thiên Chúa giáo. Cứ để đấy, nó sẽ có ích sau này. Cho những nhà nghiên cứu chẳng hạn.
Tôi không có ý định viết cho những nhà nghiên cứu. Họ chẳng cần đến tôi. Tôi cũng chẳng có ý định viết để in. Tôi viết vì đó là công việc duy nhất mà tôi có thể làm trong sự ăn không ngồi rồi bất đắc dĩ. Tôi viết vì tôi thèm được làm công việc mà tôi yêu thích. Tôi viết, ít nhất thì cũng để cho các con tôi, chúng không biết thời thơ ấu của tôi đã trôi qua thế nào. Mà chắc gì sẽ có ngày tôi kể được cho các con tôi nghe?
Hồi ở Bất Bạt tôi không nghĩ tới ngày trở về. Không ít người đã nằm lại trong các nghĩa trang nhà tù. Trong cái sự tù đặc biệt của chúng tôi nghĩ tới ngày về là ngu ngốc. ý nghĩ viết cuốn sách để lại cho các con đã làm cho cuốn Miền Thơ ấu có một sắc thái riêng. Nó là hồi ký, nhưng trong lần in đầu tiên nhà xuất bản đặt nó vào loại tiểu thuyết. Trên bìa sách cũng đề rõ Miền Thơ ấu - tiểu thuyết. Hồi ấy ở Việt Nam chỉ có loại hồi ký là hồi ký cách mạng, do các lãnh tụ kể cho các nhà văn ghi. Người thường không ai viết hồi ký.
Nhưng còn có một lẽ nữa, là vì nó giống tiểu thuyết. Trong cách viết, trong cách tả nhân vật, dựng lại đối thoại. Những tên người, tên đất trong cuốn này được giữ nguyên, không thay đổi. Người làng tôi nhận ra người quen của họ trong khi đọc. Mà người làng tôi thì không quan tâm đến chuyện cuốn sách mà họ đọc thuộc thể loại gì.
Tôi cho rằng có thể chép cuộc đời vào sách và tạo ra cho nó một dáng vẻ nghệ thuật, nếu ta học được cách nhìn đời theo cách nghệ thuật.
Cuốn sách nằm lâu trong đống giấy má vàng úa của một thời chữ nghĩa. Tôi cũng chẳng có thời giờ để ý tới nó vì còn bận đánh vật với những thí nghiệm hóa học, chạy di chạy lại các cơ quan nhà nước kiếm hợp đồng làm hàng gia công, là việc có ích cho sự kiếm sống của tôi hơn. Từ khi ra tù tôi làm đủ mọi thứ nghề tạp nham, trong đó kỹ thuật sản xuất các vật phẩm liên quan tới hóa chất cho các tổ hợp thủ công nghiệp đem lại nhiều tiền hơn cả.
Mãi tới năm 1987, anh bạn Lê Phát, biên tập viên đài Tiếng nói Việt Nam, một người tò mò thích văn chương, đã khui nó ra trong đống giấy má bừa bộn của tôi, rồi đưa cho nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, nơi nhà văn Hà Mậu Nhai làm giám đốc. Anh khen cuốn sách, tỏ ý muốn in nó. Tôi ngăn anh:
- Anh không biết có một chỉ thị cấm in tôi sao?
- Tôi biết.
- Vậy mà anh vẫn quyết định in?
Hà Mậu Nhai nói:
- Chừng nào chưa có trước mặt tôi một văn bản pháp luật trong đó ghi rõ quyết định của tòa án cấm không được in Vũ Thư Hiên thì tôi vẫn in. Tôi không ngán những lệnh miệng và những chỉ thị nội bộ. Tôi in, và còn in tên Vũ Thư Hiên to hơn bình thường nữa kia.
Cuốn sách được in ra. Tên tác giả được in to hơn bình thường, đúng như Hà Mậu Nhai nói.
Năm sau Miền Thơ ấu được giải thưởng loại A của Hội nhà văn Việt Nam, tức là giải nhất, cho sách dành cho thiếu nhi, mặc dầu nhà xuất bản không đưa nó vào danh sách tác phẩm dự thi. Việc trao giải thường năm ấy là sự kiện lớn. Đã nhiều năm chuyện xét và trao giải thưởng văn học bị xếp lại, vì chiến tranh, và vì văn chương là cái sự không ra gì một thứ xướng ca vô loài, dưới con mắt các nhà lãnh đạo. Phùng Quán cũng được giải thưởng, loại B, với tiểu thuyết ba tập Tuổi Thơ Dữ Dội. Hai tên tội đồ, một Nhân văn-Giai phẩm, một Xét lại hiện đại, chiếm hai giải thưởng trong một cuộc thi văn chương, là quá lố. Nhưng đã là năm 1988, hai năm sau khi Đảng cộng sản tuyên bố "đổi mới" và "cởi trói. Nếu là những năm trước, việc làm ngang bướng của Hà Mậu Nhai đã bị trừng trị. Anh vẫn ngồi yên trên ghế giám đốc nhà xuất bản cho tới khi qua đời, ba năm sau.
Giải thưởng này đối với tôi là bất ngờ, không khác gì việc nó được in. Khi mọi người cho tôi biết các báo đều đã đăng tin, tôi mới biết. Việc cuốn sách kể chuyện tầm phào về một làng quê khỉ ho cò gáy mà được giải, lại giải cao, là điều khó tin.
Tô Hoài đóng vai trò quan trọng trong việc trao giải thưởng này. Uy tín của nhà văn già đã thắng tính bảo thủ của các cơ quan lãnh đạo tư tưởng và văn hóa của đảng cộng sản.
Sau đó, đài phát thanh Sài Gòn đọc Miền Thơ ấu trong chương trình "Đọc truyện đêm khuya", nhà xuất bản Kim Đồng ở Hà nội tái bản một lần, rồi hai lần...
So với bản thảo, cuốn Miền Thơ ấu trong lần in đầu tiên được rút gọn còn một nửa theo yêu cầu của nhà xuất bản. Vì không có giấy. Giấy vào những năm ấy đắt khiếp đảm.
Lần xuất bản này của Nhà xuất bản Văn Nghệ ở Westminster in không thiếu giấy, nhưng lại thiếu những trang bản thảo bị bỏ ra nọ. Chúng nằm lại ở Việt Nam, cách tôi quá xa, không phải xa theo khoảng cách địa lý, mà bởi những khó khăn. Tôi cũng không tìm cách bổ khuyết. Cuốn sách đã được tái bản tới lần này là lần thứ tư. Nó đã có cuộc sống riêng của nó, diện mạo của nó. Chưa chắc gì một sự thay đổi sẽ làm cho nó đẹp hơn. Những gì bị bỏ ra ngoài trong lần xuất bản đầu tiên rồi sẽ được đặt vào một chỗ khác.
Miền Thơ ấu, câu chuyện về một chú bé trong cuộc gặp gỡ với quê hương của chú đã tìm được độc giả của nó. Thì ra quê hương của một người, nếu nói về nó bầng tình yêu chân thật, từ trái tim mình, thì cũng mang dáng dấp quê hương của bất kỳ ai khác, trong sự đồng điệu của tâm hồn. Tôi bao giờ cũng nhớ về tuổi thơ của mình với tất cả niềm thương yêu dịu dàng, bởi vì tuổi thơ của ai cũng vậy nó chứa đựng những tình cảm đẹp nhất mà cuộc đời có thế cho ta, khi nắng bao giờ cũng lấp lánh và gió bao giờ cũng ngát hương. Nơi miền đất tuổi thơ, mỗi đám mây bay ngang cũng gợi ta hình dung ra những xứ xở xa xôi từ đó nó bay đến, mặt trăng rằm nào cũng bắt ta phải ngắm nhìn để tìm ra bóng dáng cây đa với chú Cuội cổ tích, thậm chí một con chuồn chuồn ngô cũng có phép màu làm cho ta biết bơi. Bạn đã bao giờ cho chuồn chuồn ngô cắn rốn chưa? Nếu bạn đã được một con chuồn chuồn ngô cắn rốn một lần để được sặc sụa một lần trong dòng sông quê hương thì bạn là người hạnh phúc đấy.
Tôi đã đọc những dòng viết ấm áp và chân thành, và lạ thay, bao giờ cũng đầy nuối tiếc, về tuổi thơ trong sáng của mình nơi Lev Tolstoi, Maxim Gorky hay Paul Vaillant Couturier.
Chúa Giê-su Ki-ri-xi-tô dạy: "Hãy như con trẻ!"
Tôi chưa được nghe lời nào thông thái hơn.
Nếu tất cả những con người sống trên mặt đất này biết nghe lời Chúa, biết nâng niu gìn giữ trái tim con trẻ trong mình thì chúng ta đã không phải chứng kiến những gì xấu xa mà chúng ta phải chứng kiến: chiến tranh, nhà tù, và mọi sự hành hạ mà con người hàng ngày gây ra cho đồng loại.
Bằng cuốn sách bé nhỏ này, tôi muốn chia sẻ với bạn đọc tình cảm trìu mến đối với những gì quý báu nhất trong cuộc đời, những gì bạn và tôi đều có nhưng chóng quên, nơi miền đất tuổi thơ của mỗi chúng ta.
Tác giả



Tôi sung sướng được viết lời tựa cho ấn bản Miền Thơ ấu tại hải ngoại.
Đối với tôi đây là một niềm vui bất ngờ.
Khi đặt bút viết những dòng đầu tiên của cuốn sách mà hôm nay bạn đang cầm trong tay, tôi không dám tin rằng sẽ có ngày nó được thấy ánh sáng mặt trời. Lại càng không thể hình dung được rồi đây nó sẽ tới tay những người con bất hạnh của nước Việt đau thương giờ đây lưu lạc bốn phương trời.
Đối với tôi, cuốn sách này có ý nghĩa đặc biệt. Một thời nó đã là người bạn tâm tình, là cái nạng cho tôi vịn vào mà đi trên con đường vô định.
Tại Hỏa Lò Hà nội, một viên chấp pháp đã nói với tôi một câu thế này: "Anh bảo anh không sợ chết. Thế thì tôi phải nói để anh biết rằng có những cái còn đáng sợ hơn cái chết. ở đây lâu rồi anh khắc biết". Câu này tôi nhớ mãi. Càng ngẫm càng thấy anh ta có lý. Cái đáng sợ hơn cái chết mà anh ta muốn nói là sự ở tù vì tội chính trị. Anh cứ việc nằm xà lim dài dài, mà không bao giờ biết được ngày về.
Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, cũng như nhà cầm quyền ở bất cứ quốc gia cộng sản nào khác, rất khoái áp dụng cái chết từ từ cho các đối thủ chính trị. Người ta tuyên bố không một chút ngượng ngập rằng chuyên chính vô sản là thể chế không cần tới pháp luật. Trong thể chế này mỗi công dân là một người tù dự khuyết. Sinh mạng anh ta nằm gọn trong tay đảng cầm quyền. Cho tới nay, chưa có một thống kê nào đáng tin cậy về số người bị chết mòn mỏi trong nhà tù tại các quốc gia được gọi là xã hội chủ nghĩa.
Xà lim có nhiều loại, nhiều kiểu, như mọi người Việt Nam đều biết, gián tiếp hoặc trực tiếp. Tựu trung, chúng giống nhau ở chỗ xà lim nào cũng là một căn phòng hẹp, nếu ta có thể gọi cái chuồng người này là căn phòng, với rất ít ánh sáng và rất nhiều hôi thối. Thêm một cái cùm sắt ở cuối phản nằm - biểu tượng khắc nghiệt của quyền uy. Tôi ở qua nhiều xà lim, tính ra gần bốn năm rưỡi liên tục.
Những ngày đầu ở xà lim là những ngày tồi tệ nhất - từ khoảng không rộng rãi bên ngoài, đùng một cái, anh phải làm quen với sự sống chuồng cũi, với mấy bước cuồng cẳng trong mớ bùng nhùng những ý nghĩ lộn xộn về cuộc sống bị bỏ lại ngoài cửa nhà tù. Và bắt đầu một nỗi nhớ bâng khuâng về quá khứ, cho dù quá khứ mới là ngày hôm qua...
Mùa đông năm 1967 là một một mùa đông giá buốt, ít nhất là cho tôi, trong cái xà lim không có sưởi và không có quần áo ấm. Trong mùa đông ấy, không hiểu vì sao, tôi cảm thấy nhớ quê hương nhiều hơn bất cứ lúc nào. Cái đầu tiên gợi nhớ đến quê hương là mùi khói cay nồng từ những đống lá mà công nhân quét đường đốt lên để sưởi ấm, bên kia bức tường đá của nhà ngục. ở quê tôi người ta thường đốt những đống rấm như thế để khói ngăn sương muối không hạ xuống vườn rau. Mùi khói thoang thoảng lọt vào xà lim bỗng dưng gây nên nỗi nhớ cồn cào, da diết.
Gối đầu trên đôi tay, tôi nằm dài trên phản xi măng lạnh ngắt, thả hồn về quá khứ, tự hứa với mình rằng thể nào cũng phải viết một cuốn sách về cái làng bùn lầy nước đọng quê hương. Cái làng nhỏ nhoi và nghèo khổ ấy gắn liền với thời thơ ấu của tôi, cái thời không mấy hạnh phúc nếu đứng ngoài nhìn vào, nhưng tuyệt đẹp đối với tôi, mà cũng có thể đối với bất cứ ai từng có một cái quê để mà nhớ.
Lúc ấy tôi không nghĩ rằng cuốn sách tôi định viết sẽ dược thực hiện không phải ở nơi nào khác, mà trong nhà tù. ở Hỏa Lò tù nhân bị cấm đủ thứ, nhất là viết, hoặc đọc. Người ta cần làm cho người tù ngu đi tối đa. Một mẩu giấy báo bị quản giáo phát hiện trong xà lim cũng là một cái tội, người tù giấu nó sẽ bị kỷ luật cùm chân, bị cắt "tiếp tế. Thế thì còn nói chi tới viết sách. Trong năm tù đầu tiên tôi chưa có đủ kinh nghiệm dể biết rằng khi cần thiết người tù có thể làm được những việc anh ta không ngờ tới.
ở trại quân pháp Bất Bạt (Sơn Tây) sự sống trong xà lim còn tệ hơn ở Hỏa Lò. Tôi hoàn toàn bị cắt đứt với thế giới bên ngoài. Nếu ở Hỏa Lò người tù xà lim còn có thể đoán biết được một sự kiện nào đó xảy ra bên kia những bức tường và hàng rào dây kẽm gai nhờ nghe ngóng được động thái của bạn đồng cảnh ở các xà lim cùng khu, thì ở Bất Bạt cái đó hoàn toàn không có. Những người bị giam ở đây, bên cạnh xà lim tôi, thường đã qua thời kỳ hỏi cung (thẩm vấn). Họ yên tâm nằm chờ, tháng này qua tháng khác, mà cũng có thể năm này qua năm khác, nhưng họ có cái để mà chờ: đó là ngày chắc chắn sẽ được ra tòa lĩnh án.
Chúng tôi, những người một thời là người của Đảng (viết hoa), được Đảng đưa vào đây để giáo dục (!), trong một vụ án được coi là để trong nội bộ Đảng chứ không đưa ra trước pháp luật (sic) thì cứ nằm chết đấy cho tới ngày được Đảng "giải quyết". Không một ai có thể biết được bao giờ cái ngày ấy sẽ tới, và Đảng sẽ "giải quyết" vụ án của chúng tôi bằng cách nào cũng là điều không ai có thể đoán ra.
May cho tôi, trong một lần "tiếp tế vợ tôi mang cho tôi một cây bút bi hai màu. Có lẽ vợ tôi định tặng tôi món quà này theo thói quen, tôi có một đam mê khó hiểu đối với những cây bút, chứ người trong gia đình tôi không thể không biết người ta chẳng đời nào cho tù nhận thứ đồ quốc cấm này. Tôi tiếc rẻ phải kín đáo phá nát cây bút tuyệt đẹp để mang lọt được vào xà lim hai cái ruột bút nhét giữa hai đường chỉ áo bông.
Cuốn sách bắt đầu từ ấy, mùa thu năm 1969.
Tôi mải mê viết những trang đầu tiên trên vỏ bao thuốc lá, trên giấy kẹo, trên những riềm báo cũ mà gia đình bọc đồ "tiếp tế, (đến lúc đó nhà cầm quyền đã rộng lượng cho phép chúng tôi được giữ lại những tờ giấy có in chữ). Viết phải rất cẩn thận, không được lãng phí những mẩu giấy hiếm hoi, lại phải canh chừng lính gác năm phút mươi phút một lần lượn lờ qua phòng giam để kiểm tra.
Những mẩu "bản thảo" lắt nhắt không thể xếp thành trang, phải đánh số rõ ràng để không lẫn lộn, được gom lại, được cất giấu bằng mọi cách trong cái xà lim nhỏ hẹp. Sau đó là những ngày chờ đợi đến lần được gặp gia đình kế tiếp thì bí mật tuồn ra cho mẹ tôi, vợ tôi. Khi viết được nhiều, bản thảo tích lại cũng gây ra mối lo. Mà không phải gặp có kỳ có hạn đâu, gia đình muốn gặp thì làm đơn, khi nào người ta cho thì được gặp, không cho thì cứ chờ. Được cái từ năm tù thứ ba trở đi đám quản giáo coi nhà tiếp tế không còn khám xét kỹ mỗi lần tôi được gặp gia đình nữa. Vả lại, chẳng cần khám làm gì - chúng tôi đâu có biết ngày nào tháng nào được gặp vợ con đâu mà chuẩn bị. Tôi bao giờ cũng sẵn sàng, cho nên lần nào gặp gia đình cũng chuyển ra ngoài được một ít bản thảo.
Về sau này, trong xà lim Tân Lập (Phú Thọ), việc viết không còn khó như trước, mặc dầu vẫn phải canh chừng để không bị phát giác. Sau nhiều lần yêu cầu kiên trì, chúng tôi thậm chí còn được người ta chiếu cố cho phép gia đình mang cho giấy bút và vài cuốn tiểu thuyết ngoại quốc để đọc
Cuốn sách hình thành dần dần, từng ít một.
Một lần bọn công an nghi ngờ tôi chuyển gì ra, chúng chặn mẹ tôi và vợ tôi lại để khám, nhưng do bình tĩnh đối phó hai người đã mang được những mẩu giấy của tôi ra ngoài trót lọt.
Khi những bản thảo đã gom được kha khá, các em tôi - Vũ Chí Dũng, Vũ Thu Hương và Vũ Thu Hòa - hì hục chép lại. Năm 1976, sau chín năm tù, tôi trở về thì đã có một bản thảo hoàn chỉnh. Các em tôi còn đánh máy ra làm mấy bản sạch sẽ để những người thân đọc.
Mẹ tôi đọc xong, bảo:
- Mẹ thích. Nhưng sách không in được đâu. Một là, tên của con bị cấm. Hai là, chuyện một nhà, một làng, liệu mấy ai quan tâm?
Bố tôi nhận xét:
- Dù sao thì nó cũng ghi lại dấu vết một thời kỳ của nông thôn Việt Nam, vùng Thiên Chúa giáo. Cứ để đấy, nó sẽ có ích sau này. Cho những nhà nghiên cứu chẳng hạn.
Tôi không có ý định viết cho những nhà nghiên cứu. Họ chẳng cần đến tôi. Tôi cũng chẳng có ý định viết để in. Tôi viết vì đó là công việc duy nhất mà tôi có thể làm trong sự ăn không ngồi rồi bất đắc dĩ. Tôi viết vì tôi thèm được làm công việc mà tôi yêu thích. Tôi viết, ít nhất thì cũng để cho các con tôi, chúng không biết thời thơ ấu của tôi đã trôi qua thế nào. Mà chắc gì sẽ có ngày tôi kể được cho các con tôi nghe?
Hồi ở Bất Bạt tôi không nghĩ tới ngày trở về. Không ít người đã nằm lại trong các nghĩa trang nhà tù. Trong cái sự tù đặc biệt của chúng tôi nghĩ tới ngày về là ngu ngốc. ý nghĩ viết cuốn sách để lại cho các con đã làm cho cuốn Miền Thơ ấu có một sắc thái riêng. Nó là hồi ký, nhưng trong lần in đầu tiên nhà xuất bản đặt nó vào loại tiểu thuyết. Trên bìa sách cũng đề rõ Miền Thơ ấu - tiểu thuyết. Hồi ấy ở Việt Nam chỉ có loại hồi ký là hồi ký cách mạng, do các lãnh tụ kể cho các nhà văn ghi. Người thường không ai viết hồi ký.
Nhưng còn có một lẽ nữa, là vì nó giống tiểu thuyết. Trong cách viết, trong cách tả nhân vật, dựng lại đối thoại. Những tên người, tên đất trong cuốn này được giữ nguyên, không thay đổi. Người làng tôi nhận ra người quen của họ trong khi đọc. Mà người làng tôi thì không quan tâm đến chuyện cuốn sách mà họ đọc thuộc thể loại gì.
Tôi cho rằng có thể chép cuộc đời vào sách và tạo ra cho nó một dáng vẻ nghệ thuật, nếu ta học được cách nhìn đời theo cách nghệ thuật.
Cuốn sách nằm lâu trong đống giấy má vàng úa của một thời chữ nghĩa. Tôi cũng chẳng có thời giờ để ý tới nó vì còn bận đánh vật với những thí nghiệm hóa học, chạy di chạy lại các cơ quan nhà nước kiếm hợp đồng làm hàng gia công, là việc có ích cho sự kiếm sống của tôi hơn. Từ khi ra tù tôi làm đủ mọi thứ nghề tạp nham, trong đó kỹ thuật sản xuất các vật phẩm liên quan tới hóa chất cho các tổ hợp thủ công nghiệp đem lại nhiều tiền hơn cả.
Mãi tới năm 1987, anh bạn Lê Phát, biên tập viên đài Tiếng nói Việt Nam, một người tò mò thích văn chương, đã khui nó ra trong đống giấy má bừa bộn của tôi, rồi đưa cho nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, nơi nhà văn Hà Mậu Nhai làm giám đốc. Anh khen cuốn sách, tỏ ý muốn in nó. Tôi ngăn anh:
- Anh không biết có một chỉ thị cấm in tôi sao?
- Tôi biết.
- Vậy mà anh vẫn quyết định in?
Hà Mậu Nhai nói:
- Chừng nào chưa có trước mặt tôi một văn bản pháp luật trong đó ghi rõ quyết định của tòa án cấm không được in Vũ Thư Hiên thì tôi vẫn in. Tôi không ngán những lệnh miệng và những chỉ thị nội bộ. Tôi in, và còn in tên Vũ Thư Hiên to hơn bình thường nữa kia.
Cuốn sách được in ra. Tên tác giả được in to hơn bình thường, đúng như Hà Mậu Nhai nói.
Năm sau Miền Thơ ấu được giải thưởng loại A của Hội nhà văn Việt Nam, tức là giải nhất, cho sách dành cho thiếu nhi, mặc dầu nhà xuất bản không đưa nó vào danh sách tác phẩm dự thi. Việc trao giải thường năm ấy là sự kiện lớn. Đã nhiều năm chuyện xét và trao giải thưởng văn học bị xếp lại, vì chiến tranh, và vì văn chương là cái sự không ra gì một thứ xướng ca vô loài, dưới con mắt các nhà lãnh đạo. Phùng Quán cũng được giải thưởng, loại B, với tiểu thuyết ba tập Tuổi Thơ Dữ Dội. Hai tên tội đồ, một Nhân văn-Giai phẩm, một Xét lại hiện đại, chiếm hai giải thưởng trong một cuộc thi văn chương, là quá lố. Nhưng đã là năm 1988, hai năm sau khi Đảng cộng sản tuyên bố "đổi mới" và "cởi trói. Nếu là những năm trước, việc làm ngang bướng của Hà Mậu Nhai đã bị trừng trị. Anh vẫn ngồi yên trên ghế giám đốc nhà xuất bản cho tới khi qua đời, ba năm sau.
Giải thưởng này đối với tôi là bất ngờ, không khác gì việc nó được in. Khi mọi người cho tôi biết các báo đều đã đăng tin, tôi mới biết. Việc cuốn sách kể chuyện tầm phào về một làng quê khỉ ho cò gáy mà được giải, lại giải cao, là điều khó tin.
Tô Hoài đóng vai trò quan trọng trong việc trao giải thưởng này. Uy tín của nhà văn già đã thắng tính bảo thủ của các cơ quan lãnh đạo tư tưởng và văn hóa của đảng cộng sản.
Sau đó, đài phát thanh Sài Gòn đọc Miền Thơ ấu trong chương trình "Đọc truyện đêm khuya", nhà xuất bản Kim Đồng ở Hà nội tái bản một lần, rồi hai lần...
So với bản thảo, cuốn Miền Thơ ấu trong lần in đầu tiên được rút gọn còn một nửa theo yêu cầu của nhà xuất bản. Vì không có giấy. Giấy vào những năm ấy đắt khiếp đảm.
Lần xuất bản này của Nhà xuất bản Văn Nghệ ở Westminster in không thiếu giấy, nhưng lại thiếu những trang bản thảo bị bỏ ra nọ. Chúng nằm lại ở Việt Nam, cách tôi quá xa, không phải xa theo khoảng cách địa lý, mà bởi những khó khăn. Tôi cũng không tìm cách bổ khuyết. Cuốn sách đã được tái bản tới lần này là lần thứ tư. Nó đã có cuộc sống riêng của nó, diện mạo của nó. Chưa chắc gì một sự thay đổi sẽ làm cho nó đẹp hơn. Những gì bị bỏ ra ngoài trong lần xuất bản đầu tiên rồi sẽ được đặt vào một chỗ khác.
Miền Thơ ấu, câu chuyện về một chú bé trong cuộc gặp gỡ với quê hương của chú đã tìm được độc giả của nó. Thì ra quê hương của một người, nếu nói về nó bầng tình yêu chân thật, từ trái tim mình, thì cũng mang dáng dấp quê hương của bất kỳ ai khác, trong sự đồng điệu của tâm hồn. Tôi bao giờ cũng nhớ về tuổi thơ của mình với tất cả niềm thương yêu dịu dàng, bởi vì tuổi thơ của ai cũng vậy nó chứa đựng những tình cảm đẹp nhất mà cuộc đời có thế cho ta, khi nắng bao giờ cũng lấp lánh và gió bao giờ cũng ngát hương. Nơi miền đất tuổi thơ, mỗi đám mây bay ngang cũng gợi ta hình dung ra những xứ xở xa xôi từ đó nó bay đến, mặt trăng rằm nào cũng bắt ta phải ngắm nhìn để tìm ra bóng dáng cây đa với chú Cuội cổ tích, thậm chí một con chuồn chuồn ngô cũng có phép màu làm cho ta biết bơi. Bạn đã bao giờ cho chuồn chuồn ngô cắn rốn chưa? Nếu bạn đã được một con chuồn chuồn ngô cắn rốn một lần để được sặc sụa một lần trong dòng sông quê hương thì bạn là người hạnh phúc đấy.
Tôi đã đọc những dòng viết ấm áp và chân thành, và lạ thay, bao giờ cũng đầy nuối tiếc, về tuổi thơ trong sáng của mình nơi Lev Tolstoi, Maxim Gorky hay Paul Vaillant Couturier.
Chúa Giê-su Ki-ri-xi-tô dạy: "Hãy như con trẻ!"
Tôi chưa được nghe lời nào thông thái hơn.
Nếu tất cả những con người sống trên mặt đất này biết nghe lời Chúa, biết nâng niu gìn giữ trái tim con trẻ trong mình thì chúng ta đã không phải chứng kiến những gì xấu xa mà chúng ta phải chứng kiến: chiến tranh, nhà tù, và mọi sự hành hạ mà con người hàng ngày gây ra cho đồng loại.
Bằng cuốn sách bé nhỏ này, tôi muốn chia sẻ với bạn đọc tình cảm trìu mến đối với những gì quý báu nhất trong cuộc đời, những gì bạn và tôi đều có nhưng chóng quên, nơi miền đất tuổi thơ của mỗi chúng ta.

Tác giả
Miền Thơ Ấu
Lời nói đầu
I
II
III
IV
V
VI
VII
VIII
IX
X
XI
XII
XIII
XIV
XV
XVI
XVII + XVIII
XIX
XX
XXI