watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Phan Chu Trinh - tác giả nhiều tác giả nhiều tác giả

Phan Chu Trinh

Tác giả: nhiều tác giả

Phan Chu Trinh, hiệu Tây Hồ, biệt hiệu Hy Mã, sinh năm 1872 ở làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.

Cha ông là Phan Văn Bình giữ một chức võ quan nhỏ, sau năm 1885 theo phong trào Cần Vương trong tỉnh, làm chuyển vận sứ phụ trách việc quân lương. Sau khi kinh thành Huế thất thủ (1885), ông theo cha, tập luyện võ nghệ, bắn cung, cưỡi ngựa.

Năm cha mất, Phan Chu Trinh mới 16 tuổi, gia đình phải dựa vào sự lo liệu của người anh cả. Năm 1892, ông đi học, bạn cùng học là Huỳnh Thúc Kháng kém ông 4 tuổi. Ông nổi tiếng học giỏi.

Năm 1900, Phan Chu Trinh đỗ cử nhân; năm sau (1901), ông đỗ phó bảng. Năm 1902, ông vào học trường Hậu bổ, rồi ra làm quan với chức quan Thừa biện bộ Lễ. Tại triều đình, ông được chứng kiến cảnh mục nát hủ bại của quan trường, nên sinh ra chán nản, có khi vài tháng không đến cơ quan. Nhưng chính vào thời gian đó, ông giao du với nhiều người có tư tưởng canh tân như Thân Trọng Huề, Đào Nguyên Phổ, Vũ Phạm Hàm..., được đọc Thiên hạ đại thế luận của Nguyễn Lộ Trạch, Tân thư giới thiệu tư tưởng duy tân của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, tư tưởng dân quyền của Rousseau, Montesquieu..., phong trào Duy Tân ở Nhật Bản, cách mạng ở Pháp, Mỹ.

Tháng 7-1904, Phan Chu Trinh gặp Phan Bội Châu, hai người trở thành đôi bạn tâm đắc. Cuối năm đó, lấy cớ phải chăm lo việc thờ phụng tổ tiên thay anh cả đã mất, ông cáo quan về quê. Từ đó, ông dốc lòng vào công cuộc cứu nước.

Mặc dù rất đau xót trước cảnh người Pháp ngược đãi người Việt Nam, quan điểm của ông trước mắt chưa nên đặt nhiệm vụ khôi phục chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, mà nhiệm vụ cấp bách là phải:

- Chấn dân khí: thức tỉnh tinh thần tự lực tự cường, mọi người giác ngộ được quyền lợi của mình, giải thoát được nọc độc chuyên chế.

- Khai dân trí: bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy chữ Quốc ngữ, kiến thức khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục xa hoa.

- Hậu dân sinh: phát triển kinh tế, cho dân khai hoang làm vườn, lập hội buôn, sản xuất hàng nội hóa...

Phan Chu Trinh yêu cầu chính quyền thuộc địa sửa đổi chính sách cai trị hiện hành để có thể giúp nhân dân Việt Nam từng bước tiến đến văn minh. Ông đề cao phương châm "Tự lực khai hóa", vận động những người cùng chí hướng thức tỉnh dân chúng, tuyên truyền tư tưởng dân quyền.

Với phương châm đó, Phan Chu Trình cùng Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp đi khắp tỉnh Quảng Nam và các tỉnh phía nam (đến Phan Thiết). Ông lại một mình ra bắc, lên tận căn cứ Phồn Xương (Yên Thế, Bắc Giang) tìm gặp Hoàng Hoa Thám.

Năm 1906, nghe tin Phan Bội Châu lại mới lên đường xuất dương cùng Cường Để, ông cũng ra nước ngoài, định sang Nhật Bản tham gia. Nhưng đến nhà Lưu Vĩnh Phúc tại Quảng Đông, ông đã gặp Phan Bội Châu đang ở đấy. Hơn 10 ngày ở Quảng Đông, hai ông cùng nhau bàn bạc việc nước.

Sau đó, ông cùng Phan Bội Châu và Cường Để lên đường sang Nhật Bản. Ông tham quan các trường học, khảo cứu tình hình giáo dục, chính trị của Nhật Bản. Phan Chu Trinh rất hoan nghênh việc Phan Bội Châu đã vận động được một số học sinh ra nước ngoài học tập và phổ biến những tài liệu tuyên truyền giáo dục quốc dân trong nước. Song, ông phản đối chủ trương bạo động và tư tưởng quân chủ muốn dựa vào ngôi vua của Phan Bội Châu.

Về nước, sau một thời gian, ông gửi cho Toàn quyền Paul Beau một bức thư dài đề ngày 15-8-1906.

Trong thư, Phan Chu Trinh chỉ trích Chính phủ Pháp không lo mở mang khai thác hóa cho dân mà chỉ lo thu thuế cho nhiều, do đó dân đã khổ càng khổ hơn.

Ông đề nghị chính phủ Đông Dương nên thay đổi thái độ đối với sĩ dân nước Nam, cải tổ mọi chính sách cai trị.

Trong bức thư ông tỏ ra quá tin vào truyền thống cũ của cách mạng Pháp và lòng tốt của thực dân Pháp. Có đoạn có những lời lẽ có phần nghiệt ngã, cứng nhắc đối với chủ trương bạo động và phong trào đấu tranh vũ trang của dân tộc. Mặt khác, Phan Chu Trinh còn phê phán đánh giá trình độ của nhân dân ta quá kém, để từ đó dẫn đến mức không tin cậy vào khả năng cách mạng của nhân dân.

Mặc dù vậy, bức thư một khi được công bố đã gây tiếng vang lớn trong nhân dân, công khai nói lên tâm trạng bất mãn của dân chúng và khẳng định quyết tâm cải biến hiện trạng của đất nước.

Tháng 7-1907, Phan Chu Trinh ra Hà Nội tham gia giảng dạy ở Đông Kinh nghĩa thục, những buổi diễn thuyết của ông có rất đông người đến nghe. Ông mở rộng giao du với cả một số người Pháp.

Đầu tháng 3-1908, cuộc nổi dậy đòi giảm sưu thuế của nông dân bùng nổ tại Quảng Nam, rồi lan ra các tỉnh. Khâm sứ Trung Kỳ nhờ Thống sứ Bắc Kỳ cho bắt Phan Chu Trinh tại Hà Nội ngày 31-3, sau đó giải về Huế giao cho Nam triều giam giữ. Hội đồng xét xử gồm các quan lại Nam triều, có Khâm sứ Trung Kỳ ngồi dự đã kết án chém. Nhưng do sự can thiệp kịp thời của những người Pháp có thiện chí và những đại diện của Liên minh nhân quyền tại Hà Nội, Phan Chu Trinh chỉ bị đày đi Côn Đảo.

Đầu mùa hè năm 1910, Thống đốc Nam Kỳ theo lệnh của Toàn quyền Đông Dương ra Côn Đảo thẩm vấn riêng Phan Chu Trinh.

Tháng 8 năm đó, ông được đưa về đất liền. Tại Sài Gòn, một hội đồng xử lại bản án được thiết lập, ông được "ân xá", nhưng buộc phải xuống ở Mỹ Tho để quản thúc. Sau đó ông viết thư cho Toàn quyền đòi được sang Pháp hoặc trở lại Côn Đảo, nhất định không chịu cảnh bị giam lỏng ở Mỹ Tho. Vì vậy, nhân dịp có nghị định ngày 31-10-1908 của Chính phủ Pháp về việc lập một nhóm giảng dạy tiếng Hán tại Pháp, chính quyền Đông Dương cử một đoàn giáo dục Đông Dương sang Pháp, Phan Chu Trinh cùng con trai là Phan Châu Dật đi theo đoàn này. Sang tới Pháp, ông tìm cách liên hệ với những người trong Liên minh nhân quyền và Đảng Xã hội Pháp. Nhiều Việt kiều tại Pháp cũng đến với Phan Chu Trinh. Phan Chu Trinh cùng với Phan Văn Trường đã lập Hội đồng bào thân ái gồm những Việt kiều gắn bó với quê hương.

Ông viết bản điều trần về cuộc đấu tranh chống sưu thuế năm 1908 ở miền trung Việt Nam gửi Liên minh nhân quyền.

Cũng trong thời gian này, ông viết Pháp - Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam, cho rằng không thể nhìn Việt Nam một cách cô lập mà phải đặt trong mối quan hệ với thế giới, trước nhất là với các nước mạnh và với nước Pháp, cũng như không thể chỉ nhìn hiện tại mà phải nhìn lại lịch sử đã qua và phải tìm hiểu xu thế phát triển sắp tới, tạo nên cách nhìn cả thời lẫn thế.

Trong những năm sống ở thủ đô Pháp, ông làm nghề sửa ảnh, sống thanh bạch. Năm 1926, ông về nước và mất ở Sài Gòn.

Phan Chu Trinh là một tấm gương sáng trong phong trào Duy Tân đầu thế kỷ 20. Ông là một nhà nho yêu nước chân chính, có nhiều suy nghĩ tiến bộ. Có thể khẳng định rằng ông là người có tư tưởng dân chủ sớm nhất trong số các nhà nho yêu nước tiến bộ đầu thế kỷ. Tuy nhiên, Phan Chu Trinh coi dân chủ còn cấp bách hơn độc lập và tưởng rằng có thể dùng luật pháp, cách cai trị có quy củ theo kiểu Âu Mỹ - dù là do thực dân nắm giữ - để quét sạch những hủ bại của phong kiến. Sai lầm chính của ông chính là ảo tưởng về chế độ dân chủ tư sản, về những khẩu hiệu tự do, bình đẳng, bác ái của nước Pháp.

Dân chủ vốn không phải là một phần thưởng có thể ban phát. Nếu nhân dân không có nhân cách thì sao xứng đáng có quyền dân chủ? Lấy ai mà giành quyền dân chủ? Đại đa số nhân dân ta nhiệt tình yêu nước, sẵn sàng "đem máu đổi lấy quyền tự do" (Phan Bội Châu), đó chính là điểm căn bản của nhân cách Việt Nam.

Phan Chu Trinh rất sắc sảo nhìn ra yêu cầu dân chủ hóa đất nước, nhưng ông cũng không có điều kiện suy nghĩ kỹ càng về các chủ trương dân chủ hóa. Trong tư tưởng dân chủ của Phan Chu Trinh những thiếu sót quan trọng mà ông không nhận ra không chỉ ở chỗ Phan Bội Châu nói: "Nước không còn nữa thì chủ cái gì".

Song với tinh thần yêu nước nồng nhiệt, suốt đời gắn bó với vận mệnh đất nước, với cuộc sống sôi nổi, sóng gió, gian khổ và thanh bạch, ông xứng đáng để hậu thế ngưỡng mộ.

Các tác phẩm khác của nhiều tác giả

Chiến tranh nhìn từ nhiều phía

Truyện Cổ Phật Giáo

Trở Về Từ Cõi Sáng

Phật Pháp cho mọi người

Phật Giáo & Nữ Giới

Những Chuyện Luân Hồi Hiện Đại

Cao Tăng Dị Truyện

Ký ức chiến tranh

Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông

Khái Niệm về Thuốc - Danh mục Thuốc gốc

Cơ thể người

Chăm sóc khi bé bị bệnh

Cẩm nang mẹo vặt y khoa thực dụng

Cẩm nang an toàn sức khỏe

50 câu hỏi thường gặp của các bạn trẻ về HIV/AIDS

206 bài thuốc Nhật Bản

Xuân Quỳnh

Xuân Diệu

Vũ Trọng Phụng

Vũ Hoàng Chương

Vũ Đức Nguyên

Vũ Công Duệ

Vạn Hạnh Thiền sư

Tuệ Tĩnh

TTKH

Trương Hán Siêu

Trưng Nữ Vương

Triệu Thị Trinh

Triệu Quang Phục

Trần Thừa

Trần Thủ Độ

Trần Thánh Tông

Trần Thái Tông

Trần Quốc Tuấn

Trần Quang Khải

Trần Nhật Duật

Trần Nhân Tông

Trần Nguyên Đán

Trần Minh Tông

Trần Khát Chân

Trần Khánh Dư

Tôn Thất Thuyết

Thái Thăng Long

Rafael Sabatini

Quang Dũng

Phùng Khắc Khoan

Phùng Hưng

Phụng Dương Công chúa

Phan Phu Tiên

Phan Huy Chú

Phan Đình Phùng

Phan Bội Châu

Phạm Ngũ Lão

Nhà văn Y Ban

Nhà văn Vũ Trọng Phụng

Nhà văn Võ Hồng

Nhà văn Triệu Bôn

Nhà văn Thạch Lam

Nhà Văn Phan Thị Vàng Anh

Nhà văn Nguyên Hùng

Nhà văn Nguyễn Đông Thức

Nhà văn Ngô Ngọc Bội

Nhà Văn Lê Thành Chơn

Nhà Văn Hữu Mai

Nhà văn Hồ Biểu Chánh

Nhà văn Hà Bình Nhưỡng

Nhà văn Hà Ân

Nhà Văn Bà Tùng Long

Nhà văn Tạ Duy Anh

Nhà Thơ Xuân Diệu

Nhà thơ Vũ Duy Chu

Nhà Thơ Thu Bồn

Nhà Thơ Nguyễn Hoa

Nhà thơ Kiên Giang- Hà Huy Hà

Nhà Thơ Huy Cận

Nhà thơ Giang Nam

Nhà Thơ Cao Xuân Sơn

Nhà thơ Bùi Giáng

Nhà thơ Bảo Cường

Nguyễn Xí

Nguyễn Văn Tố

Nguyễn Trường Tộ

Nguyễn Trãi

Nguyễn Thị Long An

Nguyễn Thị Giang (1909 - 1930)

Nguyễn Thi

Nguyễn Tất Nhiên

Nguyễn Sưởng

Nguyên Sa

Nguyễn Nhật Ánh

Nguyễn Huy Thiệp

Nguyễn Huy Lượng

Nguyễn Huệ

Nguyên Hồng

Nguyễn Hiến Lê

Nguyễn Gia Thiều

Nguyễn Đức Thọ

Nguyễn Du

Nguyễn Đình Thi

NGUYỄN ÐÌNH CHIỂU (1822-1888)

Nguyễn Đình Chiểu

Nguyễn Công Trứ

Nguyễn Công Hoan

Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nguyễn Bính

Nguyễn Bá Lân

Nguyễn Bá Học

Ngô Thì Nhậm

Ngô Sĩ Liên

Ngô Quyền

Nam Cao

Mai Thúc Loan

Mạc Đĩnh Chi

Mạc Can - người nằm mơ giữa ban ngày

Lý Tử Tấn

Lý Thường Kiệt

Lý Phụng Hiểu

Lý Ông Trọng

Lý Nhân Tông

Lý Công Uẩn

Lý Bí

Lưu Trọng Lư

Lưu Quang Vũ

Lê Văn Hưu

Lê Quý Đôn

Lê Như Hổ

Lê Lợi

Lê Hoàn

Lãnh Tạo

Khuông Việt Đại sư

Khúc Thừa Dụ

Huỳnh Văn Nghệ

Huỳnh Tịnh Của

Huyền Trân Công chúa

Huyền Quang Thiền sư

Huy Cận

Hùng Vương

Họa Sĩ Van Gogh

Hồ Quý Ly

Hồ Dzếnh

Hàn Mặc Tử

Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác

Giáp Hải

Giang Nam

Duyên Anh

Dương Không Lộ

Đoàn Thị Điểm

Đinh Hùng

Đinh Bộ Lĩnh

Đào Duy Anh ( 1904 - 1988 )

Đặng Trần Côn

Đặng Huy Trứ

Đặng Dung

Chu Văn An

Chu Khánh Dư

Chế Lan Viên

Chàng Lía

Cao Thích

Cao Bá Quát

Bùi Thị Xuân

Bùi Huy Bích

Bích Khê

Bạch Cư Dị

Bà Huyện Thanh Quan

Anh Thơ

Anh Đức

An Tư Công chúa

Ý Cao Tình Ðẹp

Thuật Nói Chuyện

Sống để yêu thương

Quà tặng cuộc sống

Những mẩu truyện sưu tầm của Latdat

Những mẩu truyện hay của Phật giáo

Những chuyện đáng suy ngẫm

Nếu Ta Cười Nổi

Lắng nghe điều bình thường

Điều bí mật

Câu Chuyện Đời

Truyện Ngắn 100 Chữ

Tập truyện ngắn nước ngoài

Những câu chuyện mùa vọng Giáng Sinh

Hơi thở nhẹ

Bóng Đêm Bao Trùm

Những Người Siêu Phàm

Alfred Hitchcock tuyển chọn

Mạng máy tính tự làm

Bạn biết gì về ...

Ai là người đầu tiên ...

Tuyển tập Những tiểu phẩm vui

Đoán Án Kỳ Quan

Truyện cổ tích thập phương

Truyện cổ Tày - Nùng

Xốc tới trong giờ phút quyết định

Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế

Truyện cổ cố đô

Phụ Nữ Việt Nam

Danh Nhân Đất Việt

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư

NGHỆ THUẬT TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM

LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM

Hậu Chân Dung và đối thoại

Đất việt mến yêu

Chuyện Tình Tự Kể

Các giai đoạn phát triển của tiếng Việt

Tâm hồn cao thượng

Mười Đại Mưu Lược Gia Trung Quốc

Hoài niệm Nhất Linh

Kiếm Khách Liệt Truyện