Hồi 638
Tác giả: Huỳnh Dị
Tả Hiếu Hữu dẫn thủ hạ trở về Chung Ly, tuy Lý Tử Thông không nghi ngờ nhưng vì thủy sư suýt chút nữa là bị nhấn chìm hết, tổn thất nghiêm trọng nên đã trách mắng họ Tả một trận, giáng y từ đại tướng quân xuống làm tướng quân, làm y ôm đầy một bụng oan uổng, lòng càng hướng về phía Khấu Trọng.
Mười ngày sau Khấu Trọng chia quân làm hai lộ, phát binh từ Đông Hải và Lương Đô.
Đại quân từ Đông Hải gồm một vạn quân, dùng bốn mươi chiến thuyền men theo đường biển tiến thẳng đến Giang Đô. Cầm quân chính là Tuyên Vĩnh, Trần Trường Lâm, Cao Chiếm Đạo, Ngưu Phụng Nghĩa và Tra Kiệt.
Một đội quân khác gồm tám ngàn người dọc theo dòng Vận Hà, phân thành hai lộ đường thủy và đường bộ tiến xuống miền nam, bao gồm cả Phi Luân thuyền đã từng khiến Lý Tử Thông khiếp đảm kinh tâm.
Lý Tử Thông nhận được tin thì vô cùng kinh hãi, vội dẫn hai vạn quân hoang mang rời khỏi Chung Ly, lui về cố thủ Giang Đô. Chung Ly vẫn do Tả Hiếu Hữu trấn thủ, riêng Cao Bưu để cho đại tướng Tần Siêu Văn chủ trì, còn lại hơn sáu chục chiếc thủy sư thuyền đều tập trung đi Giang Đô để ứng phó với Thiếu Soái quân từ Đông Hải.
Thực ra binh lực của Chung Ly và Cao Bưu lúc này đều không thể coi thường, mỗi nơi cũng tầm trên dưới vạn người, có thể tương trợ lẫn nhau cản trở Khấu Trọng nam hạ tấn công Giang Đô. Xét về chiến lược thì Lý Tử Thông không hề phạm sai lầm, vì chỉ cần y đánh hạ được đội thủy sư Đông Hải của Thiếu Soái quân, là hoàn toàn có thể hồi sư bắc thượng nghênh chiến với Khấu Trọng và Từ Tử Lăng.
Nào ngờ Tả Hiếu Hữu lại khai thành nghênh đón Khấu Trọng, khiến cho Tần Siêu Văn tại Cao Bưu sợ hãi đóng cửa thành không dám xuất chiến. Khấu Trọng, Từ Tử Lăng cùng Bốc Thiên Chí và Trần Lão Mưu xuất lĩnh hai mươi bốn chiếc Phi Luân thuyền tiếp tục tiến xuống, từ dòng Hoài Thủy qua Vận Hà tiến thẳng tới Giang Đô, cùng với đạo Thiếu Soái quân từ Đông Hải giáp kích thủy sư Giang Đô. Lý Tử Thông đại bại tại cửa sông Trường Giang, lực lượng thủy sư còn lại của y bị đánh tan tành.
Nắm giữ Giang Đô và Diên Lăng là Ngô binh với tổng số binh lực lên đến bốn vạn, thực lực hơn xa Khấu Trọng. Khấu Trọng cũng chẳng tham công, cùng với đại quân của Tuyên Vĩnh theo dòng Vận Hà uy hiếp Cao Bưu từ phía sau, đi ngang Giang Đô nhưng không công kích. Tần Siêu Văn biết đại thế đã mất, lòng lại khiếp phục uy thế cùng binh pháp của Khấu Trọng nên đành dâng thành đầu hàng.
Từ khi lấy được Chung Ly và Cao Bưu, hai trọng trấn nằm bên bờ bắc Giang Đô của quân Ngô, hơn mười huyện thành lân cận đều nhập vào quân của Khấu Trọng. Thiếu Soái quân binh lực giờ tăng lên năm vạn người, thanh uy lừng lẫy.
Khấu Trọng chấp nhận lời đề nghị của Hư Hành Chi, đưa Tần Siêu Văn cùng một nửa thủ hạ và cả gia quyến dời về mấy quận ở Đông Hải. Đưa Tuyên Vĩnh cùng năm ngàn Thiếu Soái quân trấn thủ Cao Bưu, cùng đội Phi Luân thuyền của Bốc Thiên Chí phối hợp, khống chế hai dòng sông chủ đạo Vận Hà, Hoài Thủy.
Hai chỗ trống trong Thiếu Soái quân Bát Trấn Đại Tướng do Dương Công Khanh và Tả Hiếu Hữu bổ sung, về sau lại tăng thêm Tần Siêu Văn cùng Lạc Kỳ Phi hợp lại thành Thập Đại Trấn Tướng. Theo thứ tự thì Dương Công Khanh đứng đầu, rồi đến Tuyên Vĩnh, Bốc Thiên Chí, Cao Chiếm Đạo, Trần Trường Lâm, Bạch Văn Nguyên, Tiêu Hồng Tiến, Tả Hiếu Hữu, Tần Siêu Văn và Lạc Kỳ Phi.
Ngưu Phụng Nghĩa cùng Tra Kiệt có biểu hiện xuất sắc nên đều được thăng chức. Phụng Nghĩa được thăng từ lục bộ đốc giám lên thành binh bộ đốc giám. Tra Kiệt được thăng làm binh bộ đốc giám, cùng gánh vác công việc hình bộ chung với Hư Hành Chi.
Hư Hành Chi ngoài việc phụ trách hai bộ là lại bộ cùng hình bộ, còn được thăng làm thủ tịch quân sư của Thiếu Soái quân, có thể lãnh binh xuất chinh.
Vì Hư Hành Chi đã biểu hiện một tài năng quân sự hơn người tại trận chiến thủy hạp nên mọi người đều tâm phục khẩu phục với sự an bài này.
Nhậm Mi Mi cùng với Trần Lão Mưu vẫn chia nhau đứng đầu hai bộ Hộ và bộ Công.
Thiếu Soái quân tổ chức rất nghiêm mật, tất cả tướng sĩ bên dưới các lộ đều được thăng chức, khiến sĩ khí dâng cao ngút ngời.
Khấu Trọng dựa vào bản tấu trình của Hư Hành Chi mà luận công ban thưởng. Do quốc khố sung túc, nên tất cả các binh sĩ chức hàm dù cao dù thấp đều được thăng thưởng.
Sau khi an bài xong, Khấu Trọng xuất sư trở về Lương Đô. Tin Hổ Lao thất thủ giờ mới truyền đến, Vương Huyền Ứng khiếp sợ không chiến đã lui, bỏ Hổ Lao nhượng cho Lý Thế Tích mà chạy về Lạc Dương.
Khấu Trọng tự biết tình thế của chính mình, một khi mà Lạc Dương thất thủ, đại quân của Lý Thế Dân sẽ tiếp tục đông tiến. Lúc đó Thiếu Soái quân bề ngoài thanh thế có vẻ đại thịnh sẽ phải đối mặt với một Lý Thế Dân thiên tài quân sự và một đại đội Đường quân tinh duệ, mãnh tướng nhiều như mây. Lúc ấy thì chỉ có thể liều mình chống đỡ, nhưng tuyệt đối cũng không thể cầm cự đến mùa xuân sang năm.
Giờ con đường duy nhất là phải đánh lấy Giang Đô trước một bước, để khi cần thiết có thể lui về phương Nam, khi ấy chỉ cần giữ vững Chung Ly và Cao Bưu là có thể không phải lo lắng gì cho Giang Đô nữa.
Một mặt sai Tuyên Vĩnh và Tả Hiếu Hữu lần lượt tăng cường hệ thống phòng thủ cho Cao Bưu và Chung Ly, đặt hệ thống trại phòng thủ trên những tuyến đường sông hiểm yếu, tăng cường nhân lực kiến tạo thuyền hạm, gia tăng số lượng Phi Luân thuyền, nâng cao hiệu suất chiến đấu của thủy sư. Mặt khác còn bí mật thúc đẩy chuẩn bị tiến công Giang Đô.
Quân uy hiện nay thật khác xa lúc xưa. Cả Quế Tích Lương và Hạnh Dung đều ra sức thuyết phục các thủ lãnh của Trúc Hoa Bang toàn lực trợ giúp Thiếu Soái quân. Mạng lưới tình báo của Lạc Kỳ Phi bao phủ cả vùng đông Trường Giang và Giang Nam các nơi.
Hiện thời Khấu Trọng, Từ Tử Lăng cùng Hư Hành Chi, Lạc Kỳ Phi, Cao Chiếm Đạo, Trần Lão Mưu, Nhậm Mi Mi, Bạch Văn Nguyên, Tiêu Hồng Tiến tại Thiếu soái phủ ở Lương Đô nghị sự, nghiên cứu phương thức công đả Giang Đô.
Suy đi tính lại đã bao nhiêu lần, nhưng vẫn chưa người nào dám khẳng định mười phần chắc chắn.
Lạc Kỳ Phi nói: “Ngô quân thủy sư của Lý Tử Thông chỉ còn danh tiếng cũ, hiện chỉ còn khoảng trên dưới mười chiếc cải trang thành thương thuyền lẫn trong dân gian. Bằng vào Phi Luân thuyền của chúng ta cũng có thể dễ dàng phong tỏa Đại Giang, khiến Giang Đô, Diên Lăng hai thành khó thể hỗ trợ cho nhau. Chỉ cần công hạ Diên Lăng, phong tỏa thủy lộ thì Giang Đô sẽ bị cô lập và chỉ còn chờ chúng ta đến làm thịt.”
Dương Công Khanh thở dài nói: “Giả như không có mối lo Lý Thế Dân ở phía sau thì Giang Đô sớm muộn gì cũng đầu hàng chúng ta rồi. Nhưng mà Lý Tử Thông cũng thừa hiểu rằng Lý Thế Dân rốt cuộc cũng sẽ tấn công xuống miền nam và giao tranh với Thiếu Soái quân, cho nên hắn sẽ nằm yên cố thủ Giang Đô. Thành Giang Đô lại kiên cố, lương thực sung túc, cố thủ một năm nửa năm cũng không thành vấn đề. Trong thành tướng sĩ đều hy vọng vào Lý Thể Dân, binh tướng cùng đồng lòng, thật khó mà lay động.”
Cao Chiếm Đạo tán đồng: “Giả như Lý Tử Thông chịu hy sinh Diên Lăng, tập trung quân lực, lương thảo vào Giang Đô thì chúng ta sẽ càng thêm khó khăn. Cho dù chúng ta tập trung toàn quân vẫn vẫn chưa đủ khả năng để công hạ Giang Đô. Binh lực chúng ta không quá năm vạn người, thật khó mà đè bẹp Giang Đô với bốn vạn Ngô quân.”
Khấu Trọng nghĩ đến lần tấn công thành Lê Dương. Lúc đó Đậu Kiến Đức có chuẩn bị sung túc, chiến lược cao minh, có quân số nhiều hơn gấp bội so với binh lực thủ thành, nhưng lại bị tổn thất nghiêm trọng. Hắn giờ chỉ có thể kéo tối đa ba vạn người tiến công Giang Đô mà thôi, huống chi Giang Đô còn kiên cố gấp bội Lê Dương. Quân trong thành còn nhiều hơn quân công thành cả vạn người. Thật giống như trứng chọi đá, tự chuốc khổ vào thân.
Vấn đề lớn nhất vẫn là Thiếu Soái quân không thể chịu được tổn thất nhiều, vì sau đó sẽ không còn năng lực chống chọi với Lý Thế Dân. Khi tấn công Giang Đô phải chắc chắn thập phần, không thể có sai sót.
Vừa lúc này, một thân vệ chạy vào báo rằng Lạc Dương Vương Huyền Thứ cầu kiến. Khấu Trọng hết sức kinh ngạc, cùng Từ Tử Lăng và Dương Công Khanh ra ngoại đường gặp thứ tử của Vương Thế Sung là Vương Huyền Thứ.
Vương Huyền Thứ dáng vẻ phong trần, thần sắc đầy vẻ mệt mỏi, không còn được thần thái anh tuấn phong lưu như hồi xưa. Vương Huyền Thứ được gặp hai người như gặp thân nhân, đôi mắt đầy nhiệt lệ, quỳ trước Khấu Trọng bi thiết nói: “Thiếu soái hãy cứu ta!”
Khấu Trọng vội đỡ dậy, mời y ngồi, đợi y bình tâm lại rồi mới từ từ hỏi vào chi tiết.
Vương Huyền Thứ kể lể: “Hổ Lao bị thất trận, Vương huynh rút chạy về Lạc Dương. Lý Thế Dân dẫn quân về Thanh Thành cung ở Đông Đô, cắt đứt chỗ giao giữa hai dòng Cốc Thủy và Lạc Thủy, uy hiếp Lạc Dương. Phụ hoàng thấy tình thế nguy cấp liền mạo hiểm xuất kích, xuất hai vạn quân đến Cốc Thủy nghênh chiến với quân Đường. Lý Thế Dân lệnh cho thủ hạ là đại tướng Khuất Đột Thông thống suất năm ngàn binh vượt sông tiến công. Hai bên tranh đấu chưa phân thắng bại thì Lý Thế Dân lại dẫn đại quân tiếp viện. Lần này Lý Thế Dân tự thân xuất lãnh nhiều mãnh tướng của Thiên Sách Phủ cùng với mười đội thân vệ tinh kỵ tung hoành trùng sát. Trận thế của chúng ta bị tấn công từ phía sau nên rối loạn, chia xẻ, tử thương rất nhiều. Hai bên đại chiến ba khắc thời gian thì chúng ta không địch nổi phải rút lui. Lý Thế Dân thừa thế tung binh truy sát, đến tận dưới thành đô, triệt hạ hết bảy ngàn quân của chúng ta. Hiện tại thành đô bị nguy khốn, Lý Thế Dân bốn mặt vây công, ngày đêm không ngừng tấn công thành đô của chúng ta.”
Chỉ cần nhìn biểu hiện thần thái của Vương Huyền Thứ cũng có thể tưởng tượng được trận chiến thảm liệt đến mức nào, xác người la liệt, máu chảy thành sông khiến nhật nguyệt cũng lu mờ.
Vương Huyền Thứ khổ sở nói: “Phụ hoàng vô cùng hối hận vì đã không nghe lời trung ngôn của Thiếu soái, thường ân hận việc rút quân khỏi Từ Giản, hoặc nếu để Hổ Lao cho Dương tướng quân cùng Thiếu soái tử thủ, thì cục diện sẽ chẳng thua thiệt đến như vậy. Lúc đó cần cố gắng thủ mặt đông thì lương thảo quân Đường không liên tục, Lạc Dương sẽ tự giải nguy thôi.”
Khấu Trọng và Dương Công Khanh đưa mắt nhìn nhau, Từ Tử Lăng vẫn im lặng không nói lời nào.
Dương Công Khanh nói: “Nay Huyền Thứ công tử đã vất vả chạy đến với bọn ta, không biết ý tứ đó của công tử hay của phụ hoàng công tử?”
Vương Huyền Thứ hổ thẹn đáp: “Đó là ý của phụ hoàng. Bọn chúng ta cũng hết sức tán thành, hy vọng Thiếu soái đừng nhớ thù cũ mà hãy giúp chúng ta bảo vệ Lạc Dương.”
Khấu Trọng cất tiếng hỏi: “Tình trạng lương thực trong thành như thế nào?”
Vương Huyền Thứ trả lời: “Do con đường vận chuyển quân lương thực bị cắt nên lương thực lẫn nhưng vật dụng thông thường đều thiếu thốn. Các loại trang phục xa hoa lẫn kim ngân tài bảo đều trở thành vô dụng như cỏ rác. Một cây lụa bây giờ chỉ ngang với ba đấu thóc, nghìn cuộn vải trị giá ngang bằng một đấu muối. Lương thực trong kho chỉ có thể miễn cưỡng chi trì trong một tháng. Tình thế cực kỳ nguy cấp.”
Cả ba người ngạc nhiên nhìn nhau. Quả nhiên Lạc Dương đã đến tình trạng kiệt quệ cùng cực nên Vương Thế Sung mới mặt dày mày dạn phái Huyền Thứ đến cầu viện Khấu Trọng.
Vương Huyền Thứ cất giọng thê thảm: “Hiện tại bách tính trong thành phải ăn cả lá và rễ cây, thậm chí có người còn hòa bùn nhão với bột để làm bánh ăn thay cơm, ăn xong bị bệnh đi đứng không vững. Mỗi ngày chúng ta đều phải cử người đi thu thập tử thi bị thối rữa để đề phòng dịch bệnh.”
Ngừng đoạn rồi nói tiếp: “Nếu Thiếu soái và Dương đại tướng quân chấp nhận qua lại Lạc Dương trợ cứu chúng ta, phụ hoàng sẵn sàng giao toàn quyền cho Thiếu soái chỉ huy toàn quân.”
Khấu Trọng thầm nghĩ như vậy đối với Vương Thế Sung quả là một sự nhượng bộ rất lớn, liền gật đầu đáp: “Bọn ta cần một ít thời gian để suy nghĩ. Huyền Thứ huynh trước tiên hãy đến tân quán nghỉ ngơi, sáng ngày mai sẽ cho huynh một câu trả lời dứt khoát.”
Vương Huyền Thứ theo chân thân binh đi khỏi. Khấu Trọng hít một hơi dài hỏi: “Hai người thấy sao?”
Từ Tử Lăng nhăn nhó: “Ngươi căn bản đâu còn lựa chọn nào. Vương Thế Sung nhiều lắm chỉ có thể chống cự đến đầu tháng sau, trong khoảng thời gian ngắn ngủi này chúng ta cũng không thể đánh hạ Giang Đô được.”
Dương Công Khanh nói: “Còn có một biện pháp là tìm cách có thể vận chuyển lương thực lẫn vật dụng vào Lạc Dương, cho Trịnh quân no đủ để mà chống giữ một khoảng thời gian.”
Khấu Trọng lắc đầu nói: “Vấn đề lớn nhất của Lạc Dương ngoại trừ thiếu lương thực, còn là do sĩ khí đã tiêu tan. Đó mới chính là nhược điểm trí mệnh. Nếu chúng ta có thể vào Lạc Dương trước mùa đông, thì biện pháp duy nhất là trợ giúp lão Vương thủ thành. Mặt khác còn phải thỉnh Đậu Kiến Đức bỏ qua hiềm nghi lúc trước mà kéo đại quân chi viện. Chỉ cần Đậu quân có thể sang sông thu phục Hổ Lao thì lúc đó kẻ phải đau đầu là Lý Thế Dân chứ không phải chúng ta.”
Dương Công Khanh tán đồng: “Có thể đó chính là cơ hội duy nhất để đánh bại Lý Thế Dân.”
Phải biết là Lý Thế Dân là một thống soái vô địch tung hoành thiên hạ, quân Đường được huyến luyện hết sức nghiêm minh, trang bị lại rất hoàn thiện. Lý Thế Dân chính là một con hùng sư thân kinh bách chiến. Nếu không phải tình thế đặc biệt phi thường, thì không ai có thể tự tin sẽ thắng khi chiến đấu với họ. Nhưng hiện tại Lý Thế Dân chính diện toàn lực công đả Lạc Dương, chẳng những tổn thất nghiêm trọng, lại không thể phân thân. Nếu Khấu Trọng có thể ổn thủ Lạc Dương, đại quân Đậu Kiến Đức lại vượt sông tiến về phía Đông, Lý Thế Dân lúc đó sẽ bị vây chặt, nếu không lui binh, có khả năng sẽ thua sạch trên chiến trường. Đó là cơ hội duy nhất mà Dương Công Khanh đã nói.
Khấu Trọng gật đầu nói: “Vương Thế Sung lần này run sợ mà phái Huyền Thứ đến cầu chúng ta xuất thủ cứu viện Lạc Dương, cho thấy đã xem chúng ta chính là cứu tinh của lão. Sự thật thì chúng ta quả đúng là cứu tinh duy nhất của cả Lạc Dương rồi, vậy chúng ta quyết định như vậy đi!”
Từ Tử Lăng khuyên: “Việc này cần phải suy sét kỹ lưỡng thật kỹ càng, không thể khinh cử vọng động được. Bằng không nếu Lý Thế Dân nghe được phong thanh, phái xuất đại quân chận đánh đội ngũ vận lương thì chúng ta sẽ chỉ còn nước ôm đầu bỏ chạy thôi!”
Dương Công Khanh mười phần tin tưởng nói: “Con đường đến Lạc Dương lão phu rất thành thục, chỉ cần mặc đồ dạ hành thì có thể tiếp cận Lạc Dương mà thần bất tri quỷ bất giác. Nếu binh lực của chúng ta đầy đủ, chuyện đột phá vòng vây của Đường Quân là không thành vấn đề. Lạc Dương không phải Lương Đô của bọn ta, muốn vây kín không lọt giọt nước đâu phải chuyện dễ, dù là quân Quan Trung có dốc trọn ổ tới đây e là cũng không làm nổi đâu!”
Khấu Trọng trầm ngâm nói: “Đề nghị cẩn thận dùng binh của Tiểu Lăng cực kỳ hữu dụng. Chúng ta sẽ dùng sách lược giương đông kích tây, giả vờ tiến công Giang Đô, nhưng sự thật mục tiêu sẽ là thành Diên Lăng cách Giang Đô một con sông. Tiểu Lăng sẽ phụ trách chỉ huy toàn quân. Còn ta sẽ cùng Dương công, Ma Thường và năm ngàn thủ hạ của Dương Công thu gom lương thực vận chuyển đến Lạc Dương, giúp Vương Thế Sung ổn thủ Lạc Dương. Sau đó, ta sẽ thuyết phục Đậu Kiến Đức dẫn quân cứu viện. Ha! Tiểu Lăng chỉ cần hư trương thanh thế, nói không chừng Lý Tử Thông sẽ chắp tay dâng Diên Lăng cho chúng ta. Chỉ cần Thiếu Soái quân một ngày còn đóng ở Diên Lăng, thì Lý Tử Thông sẽ không có đủ can đảm mà đi nửa bước ra khỏi thành.”
Từ Tử Lăng chỉ biết cười khổ không nói gì, Khấu Trọng không yêu cầu gã đi Lạc Dương, cũng không bảo gã thống lĩnh Thiếu Soái quân tấn công Giang Đô, vì biết rõ tâm ý không muốn trực diện giao phong với Lý Thế Dân của gã.
Dương Công Khanh hưng phấn nói: “Đây đúng là thời cơ tốt cho đội quân ít ỏi của chúng ta tranh bá thiên hạ. Ta lập tức đi chuẩn bị.” Nói rồi liền ly khai
Giờ chỉ còn lại hai người Khấu Trọng và Từ Tử Lăng. Có hàng ngàn hàng vạn lời muốn nói nhưng lại không biết bắt đầu từ đâu. Cuối cùng Khấu Trọng phá tan trầm mặc cất tiếng: “Huynh đệ! Chúng ta lại phải phân khai rồi.”
Từ Tử Lăng cảm khái. Một câu nói đơn giản của Khấu Trọng lại bao hàm ý nghĩa thật sâu xa.
Với thế lực lớn mạnh của Lý Thế Dân hiện nay, Khấu Trọng có giữ được Lạc Dương hay không quả thật không có gì bảo đảm, vì thế câu nói này của gã cũng rất có thể là lời cuối cùng mà hai gã nói được với nhau.
Một vấn đề nữa là Đậu Kiến Đức có chịu xuất quân cứu viện hay không, hoặc giả có thể phân thân đi cứu viện hay không cũng không thể dự đoán trước được. Nếu như Lạc Dương bị công hãm, dẫu Khấu Trọng có khả năng đột vi thành công đào tẩu, nhưng Lý Thế Dân tất chẳng bỏ qua cơ hội truy sát Khấu Trọng. Huống hồ Khấu Trọng sẽ chẳng bỏ rơi thủ hạ mà một mình đào vong, lúc đó thì khả năng bị Lý Thế Dân sát tử là rất lớn.
Cuối cùng thì Khấu Trọng cùng Lý Thế Dân cũng phải đối mặt sinh tử với nhau như trời cao đã định, không còn cách nào tránh được.
Khấu Trọng trầm giọng nói: “Giả sử ta bất hạnh chiến tử ở Lạc Dương, thì Tiểu Lăng hãy thay ta giải tán Thiếu Soái quân, vì đầu hàng Lý Thế Dân chỉ sợ cũng không có kết quả tốt.”
Từ Tử Lăng than: “Tình thế đâu đến nỗi ác liệt như vậy? Dương công đã nói đây cũng có thể là cơ hội duy nhất đả bại Lý Thế Dân mà.”
Khấu Trọng gật đầu nói: “Ta cũng không biết nữa. Lý tiểu tử là người duy nhất trên đời có khả năng làm ta mất đi lòng tin. Vô luận ngươi tính toán tường tận đến đâu, hắn vẫn có thể đột nhiên thắng tất cả vốn liếng của ngươi. A! Có một vài việc ta vẫn chưa có cơ hội nói với ngươi, Ngọc Trí đến tận bây giờ vẫn chưa chịu tha thứ cho ta.”
Từ Tử Lăng giật mình ngạc nhiên.
Khấu Trọng lộ ra vẻ chán nản mà hắn không hề muốn, thốt: “Giả như sự việc phát triển đến bước cùng như vậy, Tiểu Lăng sau khi giải tán Thiếu Soái quân, hãy đi tìm Thạch Thanh Tuyền ngay mà ẩn cư cùng nàng, không cần dính dáng đến thế gian nhiều chuyện thị phi này nữa. Hương Ngọc Sơn, Trì Sanh Xuân, Đại Minh Tôn giáo, Đoàn Ngọc Thành... ngươi cứ mặc kệ hết cho ta! Hà, người duy nhất mà ta không yên tâm chính là Tiểu Lăng Trọng, có điều chắc đại tiểu thư sẽ hết lòng chiếu cố cho nó, với lại chỉ cần Từ Tử Lăng ngươi còn sống, chắc không ai dám làm tổn thương đến nó đâu.”
Từ Tử Lăng thở dài than: “Sao ngươi giống như con gà bại trận vậy? Đừng nói những lời chán nản đó được không?”
Khấu Trọng cất tiếng cười khô khan rồi bỗng nói: “Nghĩ đến Trí Trí, bao nhiêu ham muốn trong lòng ta đều như tắt lụi, cảm thấy chết cũng là một chuyện hay, chết đi thì mọi chuyện đều chấm dứt được rồi.”
Từ Tử Lăng ngạc nhiên thốt: “Nhìn bộ dạng của ngươi thì thấy ngươi thật lòng yêu nàng ấy, thế nên Trí Trí mới có thể gây tổn thương và đả kích ngươi nặng nề đến vậy.”
Khấu Trọng cười khổ nói:”Còn cần phải nói nữa sao? Mấy ngày nay ta luôn có cảm giác hối hận tại sao lại đi tranh thiên hạ làm cái con mẹ gì, tại sao không thể theo đuổi nàng mà không có thêm mục đích riêng tư nào khác? Tại sao hàng đêm không thể ôm lấy thân thể thơm ngát của nàng đi ngủ, nựng nịu dỗ dành nàng, rồi nàng cũng nựng nịu lại ta, sống cuộc sống hạnh phúc của đôi uyên ương thần tiên, thì đâu đến nỗi bị nàng oán hận cả đời như bây giờ? Thảm nhất là lúc nào cũng phải ra vẻ vô địch thiên hạ, kiên cường dũng mãnh trước mặt các thủ hạ, sự thực thì ta là người rõ hơn bất cứ ai, bọn ta khó lòng mà cầm cự nổi đến mùa xuân sang năm, đây là một sự thực không thể chối cãi. Nếu không phải có ngươi kịp thời xuất hiện, chỉ sợ cả Lý Tử Thông và Hương Ngọc Sơn ta cũng đấu không lại mất.”
Từ Tử Lăng là người hiểu Khấu Trọng hơn bất cứ ai, gã biết tên tiểu tử này chỉ chán nản nhất thời nên mới than vãn vậy mà thôi, chứ sự thực thì đấu chí của gã vẫn hoàn toàn nguyên vẹn, nên chỉ cười khổ nói: “Mau triệu tập thủ hạ đến đi, ngươi sẽ khôi phục lại nhanh thôi mà.”
Khấu Trọng hít vào một hơi dài, cất mình dậy nói: “Nói thật ra thì ta nghe Huyền Thứ diễn tả tình huống ở Lạc Dương, tử thi chồng chất cũng cảm thấy sợ hãi. Ôi! Bạt tiểu tử không biết bây giờ còn ở đó không nhỉ? Ta cần một người kiên cười như hắn bên cạnh để tử thủ Lạc Dương.”
Từ Tử Lăng để gã đặt tay lên vai rồi nói, nói: “Có phải quay về phòng hội nghị không?”
Khấu Trọng nói: “Đi đâu chẳng được. Hà! Ngươi không biết lúc Trí Trí nói những lời tuyệt tình ấy ta thảm thế nào đâu, khoảnh khắc ấy ta đã thấm thía một cách sâu sắc mình đã phạm phải những sai lầm nghiêm trọng thế nào! Lại càng hiểu rõ cho dù ta có nói thế nào đi nữa thì cũng đã không thể thay đổi suy nghĩ của nàng về ta. Ta cảm thấy vô cùng cô tịch, đêm đó nằm trên giường cứ trằn trọc mãi không yên, vừa hối hận vừa tự trách về những lầm lẫn trước đây, tựa như Bất Tử Ấn của Thạch Chi Hiên dồn dập tấn công vậy, tránh không được mà đỡ cũng không xong. Ngươi có thể đưa ta đến nơi nào không có ai để khóc to một trận không?”
Từ Tử Lăng từ tốn đáp: “Xin lỗi! Thiếu soái! Thời gian không còn nhiều nữa, mai ngươi đã phải đi Lạc Dương rồi, giờ là thời khắc cần ngươi điều binh khiển tướng.”