Hồi 693 - 694
Tác giả: Huỳnh Dị
Sư Phi Huyên miệng nói động thủ nhưng thần tình vẫn lãnh đạm như nước, đôi mắt trong veo lấp loáng dị quang không thể nắm bắt, rõ ràng là tu vi đã tiến bộ vượt bậc so với lúc còn nơi quan ngoại. Chỉ một mình Từ Tử Lăng hiểu nàng đã đạt đến cảnh giới Kiếm tâm thông minh tương tự như Thạch Chi Hiên, khiến cho gã dù với trực giác linh mẫn vô song của mình vẫn không thể đoán định được.
Khấu Trọng há hốc miệng, nhìn sững vào mắt nàng, hồi lâu mới thất thanh kêu lên: “Phi Huyên không đùa đấy chứ? Nàng há phải là người thích dùng vũ lực giải quyết vấn đề?”
Sư Phi Huyên mỉm cười dịu dàng nói: “Như lời huynh nói, thì hẳn là các phương pháp khác đều vô tác dụng, không thể giải thích, tranh luận, khẩn cầu hay uy hiếp… được nữa. Thế thì ngoài cách dùng vũ lực còn cách nào để giải quyết? Phi Huyên ta tuyệt không thể ngồi yên nhìn Ba Thục rơi vào tay Thiếu soái được.”
Từ Tử Lăng buột miệng kêu: “Phi Huyên!”
Sư Phi Huyên vẫn cương nghị nhìn thẳng vào Khấu Trọng, bình thản ngắt ngang lời Tử Lăng: “Bất luận trước đây Tử Lăng đã viện ra ngàn vạn lý do để trợ giúp cho huynh đệ Khấu Trọng, thì những lý do đó giờ đây đều trở thành quá khứ, thiên hạ đã phân thành lưỡng cục. Xin Tử Lăng chàng đừng can thiệp vào chuyện giữa Phi Huyên và Thiếu soái.”
Từ Tử Lăng lòng dạ rối bời, một bên là người ngọc mà gã rất mực yêu thương ngưỡng mộ, một bên là huynh đệ nối khố từ thuở nhỏ, gã thực không biết phải làm sao cho vẹn cả đôi bề. Điều này khiến gã bỗng nhiên rơi vào tình cảnh hết sức khó xử.
Mục quang Khấu Trọng vụt sáng rực, gã lấy lại vẻ sung mãn tự tin của một Thiếu soái hiên ngang không hề ngán ngại bất cứ một ai, thản nhiên cười nói: “Xin mời tiên tử vạch rõ đường lối cho!”
Cha con Giải Huy đều nhìn về phía Sư Phi Huyên, thần sắc lộ vẻ hiếu kỳ, rõ ràng là cũng không hiểu chuyện “giải quyết bằng vũ lực” mà Sư Phi Huyên nói rốt cục là thế nào.
Sư Phi Huyên ung dung nói: “Vận mệnh của Ba Thục ắt phải do Sắc Không kiếm của Phi Huyên ta và Tỉnh Trung Nguyệt của Thiếu soái quyết định rồi.”
Từ Tử Lăng, Giải Huy và Giải Văn cùng biến sắc.
Khấu Trọng thất thanh: “Sao cơ? Phi Huyên chớ có dọa ta chứ.”
Sư Phi Huyên lộ vẻ bất đắc dĩ, than thở: “Đến lúc này, Phi Huyên ta làm gì còn tâm trạng đùa cợt. Bất luận huynh có đồng ý hay không, ta chỉ nghĩ được mỗi cách này để giải quyết vấn đề.”
Khấu Trọng đưa ánh mắt cầu cứu về phía Từ Tử lăng, nhưng chỉ nhận được nụ cười khổ, đành dở cười dở khóc quay sang Sư Phi Huyên nói:: “Phi Huyên nàng có nghĩ như thế là rất bất công không? Cho dù ta không nể tình của tiểu Lăng đi nữa, cũng không nỡ thẳng tay đối phó với nàng, thậm chí ngay cả một sợi tóc của nàng cũng không dám động, trong tình huống như vậy chẳng hóa ra ta mất chắc Ba Thục còn gì!”
Sư Phi Huyên lạnh lùng: “Phi Huyên không những muốn phân thắng bại với huynh mà còn muốn phân rõ sinh tử. Nếu huynh không nỡ ra tay giết chết Phi Huyên thì cũng không có tư cách làm hoàng đế. Từ cổ chí kim, muốn thành đại sự, có ai không quyết liệt nhẫn tâm chứ, phàm những gì cản đường đến đế tọa của mình, đều phải bị quét sạch.”
Khấu Trọng nhăn nhó: “Vậy ra nàng chọn Lý Thế Dân lên làm hoàng đế chính vì khí chất này của y?”
Câu nói này của Khấu Trọng bộc lộ hết nỗi oán giận tột độ trong lòng gã, khiến cho Từ Tử Lăng bên cạnh không khỏi đồng tình, muốn nghe Phi Huyên giải thích sao cho thỏa đáng.
Sư Phi Huyên bình tĩnh đáp: “Vì mục tiêu và lý tuởng lớn nhất là lên ngôi hoàng đế, người ta sẽ không ngần ngại hy sinh cá nhân, phân biệt duy nhất ở chỗ mục đích của việc giành ngôi vị hoàng đế chỉ nhằm thỏa mãn dã tâm riêng, hay là vì vạn dân thiên hạ mà lo nghĩ. Phi Huyên ta có thể nhẫn tâm giết huynh, chính là vì bá tánh không ngại hy sinh cá nhân mình, chấp nhận cả việc vĩnh viễn không thể tiến nhập thiên đạo, và rốt cuộc phải cắn rứt trọn đời.”
Giải Huy đập bàn tán thán: “Nói chí phải, chỉ có Thanh Huệ mới bồi dưỡng được một nhân vật xuất chúng như Phi Huyên.”
Khấu Trọng trầm giọng nói: “Phi Huyên hẳn hiểu rõ giả sử như ta bị vị thiên tử mà nàng lựa chọn kia giết chết trong trận chiến ở Lạc Dương, thì ngay sau đó tên Lý tiểu tử của nàng cũng đã bị người giết liền tay.”
Gương mặt xinh đẹp của Phi Huyên lộ vẻ đau khổ, đôi mắt đẹp đảo về phía Từ Tử Lăng như dò xét, rồi lại nhìn thẳng vào Khấu Trọng, nàng nói: “Đó lại là chuyện khác, Phi Huyên chỉ dựa vào tình thế hiện tại mà hành sự, Lý Thế Dân không mất Ba Thục, thiên hạ sẽ có thể duy trì cục diện phân đôi. Ái chà! Từ lúc nào mà Thiếu soái lại trở nên dụ dự bất quyết như đàn bà vậy? Con đường dài vắng vẻ ngoài kia chính là nơi thích hợp để chúng ta làm cuộc quyết đấu, quyết định vận mệnh tương lai của thiên hạ cũng như Ba Thục.”
Từ Tử Lăng cuối cùng không chịu nỗi phải kêu lên: “Phi Huyên!”
Sư Phi Huyên quay lại nhìn gã, gương mặt thanh lệ thoát tục của nàng lộ vẻ tươi cười, ánh mắt nhìn Tử Lăng như cầu khẩn. Nàng dịu dàng nói: “Tử Lăng có thể đứng ngoài việc này không? Phi Huyên vì mệnh lệnh của sư môn, từ nhỏ đã nghiên cứu lịch sử, lý giải được nhân quả thịnh suy của thời cuộc. Chính trị vốn coi nhẹ động cơ và thủ đoạn mà chỉ bàn đến hậu quả. Chúng ta toàn lực giúp Lý Thế Dân, vì chúng ta cho rằng y là người tốt nhất có thể đem lại hạnh phúc cho bá tánh. Người huynh đệ của chàng có thể là vị thống soái thiên hạ vô địch nhưng lại thiếu đi tài năng và phẩm chất trị quốc như Lý Thế Dân. Nếu Phi Huyên bỏ mặc không lo, cơ hội thống nhất thiên hạ mưu cuộc hòa bình sẽ hỏng mất tại đây. Lý Đường từ thế mạnh chuyển sang thế yếu. Liên quân ngoại bang ắt nhân cơ hội này xâm lấn. Lâu nay Hiệt Lợi đã bồi đắp lực lượng, nếu lần này tiến đánh là có chuẩn bị đầy đủ, cho dù không thể quét sạch Trung nguyên, cũng sẽ gây nên tổn thất nghiêm trọng và lâu dài, như vậy nỗi khổ của bá tánh tới khi nào mới dứt? Trung nguyên có cơ nguy mãi mãi không thể hồi phục nguyên khí.”
Khấu Trọng tràn đầy phẫn nộ: “Vấn đề lớn là hoàng đế Đại Đường hiện nay là Lý Uyên, còn người thừa kế của y là Lý Kiến Thành, cho nên trong chuyện này người được lợi cuối cùng chính là Ma môn, kẻ thù không đội trời chung với các người đó.”
Sư Phi Huyên đã lấy lại vẻ ung dung điềm tĩnh, nhìn thẳng vào Khấu Trọng, ôn tồn nói từng lời một: “Vì vậy Phi Huyên mới nói chính trị không chú ý đến động cơ, chỉ bàn đến kết quả. Phi Huyên tuyệt đối không nghi ngờ Thiếu soái tận lực hành sự vốn không vì dục vọng và dã tâm của cá nhân, nếu không Tử Lăng đã không cùng huynh kề vai sát cánh trong cuộc chiến này. Thử nghĩ xem các người cho dù có thể đánh thắng Trường An, nhưng sẽ khiến nguyên khí của cả hai bên tổn thương không ít. Lý Thế Dân vẫn có thể dựa vào vị thế của Lạc Dương kiên cường kháng cự, lại phát động số binh lực còn lại của Quan Nội và Thái Nguyên toàn diện phản công, lúc đó song phương ắt sẽ lâm vào tình thế lưỡng bại câu thương. Đương lúc giằng co chưa biết thiên hạ thuộc về ai, liên quân quan ngoại lại từ phương bắc đánh xuống. Xin hỏi Thiếu soái, hậu quả này người đã nghĩ tới chưa? Mà đây lại là một tình huống tàn khốc hết sức hiện thực.”
Giải Huy gật đầu nói: “Phi Huyên quyết không nói dối để hù dọa chúng ta, các tộc ngoài quan ngoại đã cùng Hiệt Lợi và Đột Lợi kết thành liên minh, bất cứ lúc nào cũng có thể phát động cuộc tấn công đại quy mô vào Trung thổ, tình thế nguy hiểm khôn lường.”
Sư Phi Huyên vẫn nhẹ nhàng: “Hiện giờ Phi Huyên cũng chỉ biết đi bước nào tính bước đó, tùy tình huống mà hóa giải nguy cơ nào cấp bách nhất, Thiếu soái nếu có thể giết chết Phi Huyên, Từ Hàng Tịnh Trai sẽ tuyệt nhiên không tìm Thiếu soái trả thù, chỉ còn xem Thiếu soái có bản lĩnh đó hay không thôi.”
Khấu Trọng lại một lần nữa hướng cái nhìn cầu cứu về phía Từ Tử Lăng.
Từ Tử Lăng chỉ đành nhăn nhó than thở: “Ta chẳng biết nói gì bây giờ! Thiếu soái xin hãy tự mình làm chủ, bắt đầu từ lúc này, hễ còn Lý Thế Dân thì ta sẽ không can thiệp vào.”
Khấu Trọng gật đầu ra vẻ thông cảm, rồi buồn bã nói: “Tiên pháp của Phi Huyên thật lợi hại, chỉ cần nói mấy câu đã tách được Tử Lăng ra khỏi ta. Thôi được, ta thừa nhận đấu không lại nàng, nhưng ta có một yêu cầu, chính là trước khi Lý Thế Dân trở thành người đứng đầu Lý phiệt, Ba Thục phải duy trì sự trung lập, nếu không ta không có cách nào ăn nói với Tống chủ, càng không thể thuyết phục ông ta rời khỏi Lô Xuyên, cách xa Ba Thục.”
Từ Tử Lăng thầm thở dài, sự xuất hiện của Phi Huyên đã khiến cho kế hoạch đánh Trường An của Khấu Trọng bị phá hỏng hoàn toàn, cuộc chiến thống nhất không cách nào rút ngắn được, mà phải được quyết định tại trận chiến ở Lạc Dương. Cứ như dự đoán của Phi Huyên thì cuộc phân tranh Nam Bắc ắt hẳn vẫn sẽ kéo dài.
Sư Phi Huyên dịu dàng: “Thiếu soái đã rất nhượng bộ, Phi Huyên sao có thể cự tuyệt?”
Giải Huy cũng gật đầu: “Mọi thứ đều do Phi Huyên quyết định.”
Khấu Trọng bỗng cười ha hả: “Phi Huyên quả cao tay, tiểu đệ bái phục sát đất, không phải đổ một giọt máu vẫn đẩy lùi được đại quân của chúng ta, lại không làm tổn thương hòa khí đôi bên. Nhưng tình thế sau này vẫn chẳng mấy lạc quan, tiểu đệ đành phải bỏ xa đánh gần, trước tiên sẽ thu phục toàn bộ hai bờ nam bắc Trường Giang, rồi lại đánh lên phía bắc, để xem Lý Thế Dân lợi hại, hay Khấu Trọng này lợi hại. Tiểu Lăng thì cứ để hắn tạm thời nghỉ ngơi cho khuây khỏa. Ta thật sự muốn biết liệu Phi Huyên đã có đối sách gì để ngăn cản kế hoạch này chăng, có thể nói qua cho ta biết không?”
Sư Phi Huyên buồn bã thở dài, sầm mặt xuống, rồi từ từ nói: “Thiếu soái sẽ sớm biết thôi.”
Khấu Trọng biến sắc mặt: “Thì ra Phi Huyên đã định sẵn kế hoạch, ta hoàn toàn không nghĩ ra được.”
Phi Huyên chầm chậm đứng lên, mắt nhìn Từ Tử Lăng lộ vẻ mệt mỏi, nhu mì nói: “Thiếu soái cứ tiếp tục cùng với Giải Bảo chủ nghiên cứu việc duy trì sự bình ổn cho Ba Thục; Tử Lăng chàng tiễn Phi Huyên một đoạn được không?”
Tử Lăng cùng Phi Huyên song song bước ra cửa phía đông, quân thủ thành cung kính cúi đầu chào.
Sư Phi Huyên hỏi: “Tử Lăng có trách ta không?”
Từ Tử Lăng hơi ngỡ ngàng, rồi lắc đầu: “Phi Huyên không cần để ý xem ta nghĩ gì! Vì hiện giờ ta cũng không phân định được ai đúng ai sai.”
Sư Phi Huyên than: “Ta sao có thể không màng đến việc chàng nghĩ gì kia chứ?!”
Từ Tử Lăng nhìn Phi Huyên một lát lâu rồi buột miệng gọi: “Phi Huyên!”
Phi Huyên ngước mắt lên nhìn Tử Lăng, bình tĩnh nói: “Nếu còn có sự lựa chọn khác, ta quyết không chen vào sự tranh chấp giữa Lý Thế Dân và Khấu Trọng. Chẳng qua đã đến bước đường cùng, không còn cách nào khác. Sư tôn đã dự đoán từ nhiều năm trước, nếu thiên hạ do bắc thống nam, thiên hạ sẽ thịnh vượng thái bình trong thời gian dài, còn như nam thống bắc, thì không những bị ngoại tộc xâm lăng mà thiên hạ tất chia năm xẻ bảy. Đạo lý này Tử Lăng chàng có hiểu hay không?”
Từ Tử Lăng cười khổ đáp: “Trong lòng ta thật không muốn tán đồng cách nghĩ của nàng, nhưng nghe những lời nàng vừa nói, thì không thể không thừa nhận có khả năng đó.”
Sư Phi Huyên nói: “Trước đây nghe sư tôn phân tích, ta hoàn toàn không hiểu hết, chỉ đến khi Khấu Trọng quật khởi, thế lực ngày càng mạnh mẽ, ta mới bắt đầu nghiệm thấu những lời của Sư tôn. Thử nghĩ nếu Khấu Trọng thắng, Lý Đường sụp đổ, tướng lĩnh Lý Đường ai nấy đều cát cứ xưng vương, vì Lý Đường mà trả thù, chính quyền phía Bắc sụp đổ, liên quân ngoại bang nhân lúc Khấu Trọng bận thu dọn tàn cục sẽ xua quân nam hạ, Khấu Trọng sẽ rất khó giữ vững Quan Trung và Lạc Dương. Trong tình thế này thì cục diện Trung nguyên sẽ như thế nào?”
Từ Từ Lăng không còn lời gì biện bác.
Phi Huyên lại nói tiếp: “Trong các nhân vật kiệt xuất ở miền Bắc, chỉ có Lý Thế Dân mới có đủ điều kiện đem lại ấm no hạnh phúc cho bá tánh. Điều này Khấu Trọng cũng không dám hoài nghi. Trước mắt y chỉ còn thiếu một điều kiện là Lý Uyên vẫn chưa quyết định chọn y làm người kế thừa đại thống, khiến cho Ma môn có thể xen vào và Hiệt Lợi có cơ hội thừa nước đục thả câu. Một khi Lý Thế Dân lên ngôi hoàng đế, mọi việc sẽ dễ dàng giải quyết.”
Từ Tử Lăng nhăn nhó: “Phi Huyên nàng có biết Khấu Trọng và Lý Thế Dân đã kết thành mối huyết cừu không đội trời chung?”
Phi Huyên nói: “Nếu lấy hạnh phúc của thiên hạ bá tánh làm đầu, thì có ân oán nào không bỏ qua được chứ? Nơi chiến trường khó tránh chuyện máu đổ đầu rơi, lại cũng nên biết rằng người hạ thủ Đậu Kiến Đức là Lý Nguyên Cát chứ không phải Lý Thế Dân, huống chi Lý Thế Dân cũng đã vì chuyện này mà cảm thấy hết sức có lỗi với các người, nên đã mời Liễu Không đại sư đi khuyên Khấu Trọng, điều này biểu thị giao tình của y với Khấu Trọng vẫn còn. Tử Lăng à! Chàng đã từng nói nếu Lý Thế Dân lên ngôi hoàng đế, chàng sẽ đi khuyên Khấu Trọng rút lui. Vì thiên hạ bá tánh chàng phải chăng nên có thái độ tích cực, tác thành tâm nguyện cho Phi Huyên?”
Tử Lăng buồn bã: “Đã quá muộn rồi! Khấu Trọng giờ đã cỡi lên lưng cọp, muốn lùi cũng không được. Vì như vậy, thử hỏi Khấu Trọng làm sao ăn nói với Tống Khuyết? Cho dù Khấu Trọng có rút chân ra, Tống Khuyết vẫn có thể xua quân Bắc phạt, tấn công vào Lạc Dương và Trường An. Không có Khấu Trọng, Tống Khuyết cũng đủ thực lực và bản lĩnh tranh hùng với Đường triều Lý phiệt.
Sư Phi Huyên nói: “Đó là tình huống mà Phi Huyên vạn lần không muốn trông thấy. Tống Khuyết ở Lĩnh Nam đã lâu năm, mặc dầu ai ai cũng sợ uy thế của ông ta, nhưng sợ không có nghĩa là tâm phục hoàn toàn. Huống hồ người Nam không quen thủy thổ phương Bắc, lại phải lìa xa quê hương; thêm vào đó quân chủ lực của Tống Khuyết vốn đa phần là người Lê Liêu , những người này bị dân miền Bắc cho là man di, không phục. Đến lúc đó Nam Bắc chia cắt là điều có thể nhìn thấy được.”
Từ tử Lăng gật đầu: “Ta và Khấu Trọng chưa nghĩ thông được như Phi Huyên, nhưng việc đã như vậy, còn biết làm thế nào!”
Sư Phi Huyên dừng bước, xoay người lại, mặt đối mặt với Từ Tử Lăng, chúm chím cười nói: “Chàng là người bảo vệ cho sơn môn chúng ta, chàng hãy nghĩ ra cách nào đi!”
Từ Tử Lăng thất thanh nói: “Ta …?”
Phi Huyên đặt ngón tay ngọc của nàng lên miệng của Từ Tử Lăng, không cho gã nói tiếp, rồi rút tay về, dịu dàng nhìn Từ Tử Lăng đang xiêu hồn lạc phách vì động tác vừa rồi của mình, khẽ nói: “Đường đi còn nhiều khó khăn, Phi Huyên chỉ có thể cố gắng hết sức mình bất kể thành bại. Nhưng sức mạnh của cá nhân cũng có giới hạn, cái mà Phi Huyên có thể đem về hoặc có khả năng đem về chỉ là thời cơ mang lại hòa bình. Khi xảy ra chuyện, Tử Lăng huynh phải là người đứng ra gánh vác, không thể thoái thác, chớ phụ lòng Phi Huyên kỳ vọng và tin tưởng bấy lâu.”
Từ Tử Lăng nhận ra đằng sau lời nói ấy của nàng tất có ẩn ý sâu xa, bèn chau mày hỏi: “Phi Huyên có thể nói rõ hơn không? Như vậy, ta mới có thể giúp nàng được.”
Sư Phi Huyên khẽ lắc đầu, điềm đạm: “Bây giờ chưa phải lúc, nhưng không lâu sau chàng sẽ hiểu, Tử Lăng hãy bảo trọng!”
Nói xong nàng lại nhìn gã với ánh mắt đầy yêu thương ấm áp, rồi men theo quan đạo nơi bìa rừng bước đi.
Từ Tử Lăng ngơ ngẩn nhìn theo bóng Sư Phi Huyên dần khuất, trong lòng cồn cào dậy sóng.
Lần này Sư Phi Huyên vì tình thế bức bách phải giáng hạ phàm trần, tu vi của nàng rõ ràng đã tinh tiến vượt bậc, đối với việc khống chế tình cảm đã đạt đến cảnh giới tự do tự tại, không như trước đây cứ phải lo lo lắng lắng, cẩn trọng từng li. Bây giờ nàng không còn phải áp chế cảm giác của mình, không mấy tỏ vẻ đạo mạo tu hành, mà hoàn toàn “nhập thế”. Tuy nhiên, Từ Tử Lăng lại cảm nhận được tâm cảnh của Phi Huyên đã hoàn toàn viễn ly thế tục, những ngày đáng nhớ ở Long Tuyền chẳng còn mong trở lại, khiến cho gã không nén được tiếng thở dài, lòng bâng khuâng khó tả.
Tâm cảnh của đôi bên đều có nhiều biến hóa vi diệu.
Ối chà!
Gã đang nghĩ đến đây, đã nghe tiếng của Khấu Trọng vang vang bên tai: “Không thể phủ nhận tiên tử của chúng ta đã nương tay với tiểu đệ, nếu như nàng đem chuyện bảo khố thật bảo khố giả tiết lộ cùng Lý Thế Dân, với thủ đoạn của Lý tiểu tử xưa nay ắt sẽ khiến chúng ta thảm bại nặng nề. Trước mắt chúng ta đành phải lùi một bước, Ba Thục trung lập, chúng ta cũng khoan hãy đụng đến Quan Trung. Mẹ nó, ta và Lý Thế Dân phải đấu một trận ở Lạc Dương để phân hơn kém rồi.”
Từ Tử Lăng cười khổ: “Họa này do ta mà ra!”
Khấu Trọng khoác tay lên vai gã, lắc đầu nói: “Không, ngươi đã cứu ta mới đúng. Sư Phi Huyên không tầm thường như ta và ngươi, hà hà. Nàng ta là tiên tử mà. Trên thực tế, nàng ta đã theo dấu vết mà đoán được trong chuyện bảo khố có phần trá ngụy, chỉ có điều là nhờ vào lời nói của ngươi mà khẳng định suy đoán của mình, lại hiểu ra đạo lý vì sao người đoạt được bảo khố sẽ có thể đoạt được thiên hạ. Việc chúng ta mưu toan giành lấy Ba Thục lại càng khẳng định thêm một bước niềm tin của nàng. Hà, thật may nhờ việc ngươi tiết lộ bí mật, nàng phải nể tình Lăng thiếu gia mà bỏ qua cho ta, không sử dụng bí mật đó để làm tan rã đạo kỳ binh vốn không phải là kỳ binh dùng để công phá Trường An của bọn ta.”
Từ Tử Lăng cảm thấy trong lòng ấm áp, Khấu Trọng phân tích cũng rất hữu lý, nhưng mục đích chính là an ủi gã. Người huynh đệ tốt này đúng là có tấm lòng quảng đại bao dung, không coi trọng được mất; thắng cũng không kiêu, bại cũng không nản.
Gã hỏi Khấu Trọng: “Phi Huyên vừa nói mấy câu đã khiến ta phải đứng ngoài cuộc, ngươi vẫn không trách ta ư?”
Khấu Trọng bật cười: “Ngươi là huynh đệ đã giúp ta qua những ngày gian khổ nhất, lại còn vì thế mà suýt mất mạng khiến Khấu Trọng này cảm kích vô cùng. Đã là huynh đệ một nhà, ta sao lại không hiểu tâm sự của ngươi chứ, cứ thong thả nghỉ ngơi ít lâu đi. Chà! Phi Huyên không phải là kẻ thích dọa suông đâu, nàng ta hẳn có thủ đoạn lợi hại để đối phó với ta. Ta đang rất lo lắng, phải lập tức quay lại Bành Lương để gặp Tống Khuyết, báo cho ông ấy biết tình hình mới nhất, kế hoạch đánh Trường An coi như trôi sông đổ biển. Phiền tiểu Lăng ngươi giải thích giùm với Lôi đại ca và các huynh đệ việc ta không từ mà biệt.”
Từ Tử Lăng than rằng: “Ta cũng đang lo lắm.”
Khấu Trọng hai mắt sáng rực, trầm giọng nói: “Thiên hạ này không một kẻ nào có thể cản trở quyết tâm bình Nam định Bắc của ta. Vừa rồi trên đường đến đây, ta đã suy nghĩ thông suốt. Sư Phi Huyên có lập trường của nàng, ta có niềm tin và lý tưởng của ta. Để thiên hạ này không rơi vào tay Ma môn hay bọn ngoại bang, hy sinh cá nhân có là cái con bà gì. Ta đã hạ quyết tâm, vứt bỏ mọi thứ, toàn tâm toàn ý vì ngày mai hòa bình thống nhất mà chiến đấu đến cùng, càng gian khổ càng có ý nghĩa, càng tỏ rõ ý nghĩa cao cả của sinh mệnh. Sau khi xong việc ở Trường An, ngươi hãy lập tức Bành Lương đến tìm ta, nói không chừng Âm Tiểu Kỷ đã sớm đến đó tìm huynh trưởng của nàng rồi. Thôi, ta đi đây!”
- o O o -
HỒI 694
Hiệp Lộ Tương Phùng
Từ Tử Lăng từ Đông môn vào thành, Giải Huy đã bỏ lệnh giới nghiêm. Con đường lớn dần hồi phục sinh khí, các cửa hàng lục tục mở cửa làm ăn dù trên đường xe ngựa qua lại còn thưa thớt. Cảnh tượng khác hẳn với thành trì vắng ngắt như quỷ thành lúc trước.
Giải Văn Long đã thay đổi quần áo võ sĩ, đang chờ gã ở cửa thành, cảm kích nói: “Ba Thục tránh khỏi cơn khói lửa điêu tàn, là nhờ có Từ huynh giúp đỡ tiểu thư Phi Huyên. Bằng không Thiếu soái mà chấp nhận khiêu chiến, tình thế thật không thể tưởng tượng được.”
Hai người sánh vai một quãng dài. Từ Tử Lăng cười nói: “Giải huynh không tường con người của Khấu Trọng, do đó bị lầm. Nếu không có tiểu đệ, Khấu Trọng cũng đã thà thối binh, chứ không động thủ với Phi Huyên. Không biết tình hình ở Ba Thục như thế nào?”
Giải Văn Long đáp: “Ba Thục trước nay vẫn giữ thế trung lập, cha tiểu đệ ở thành Nam cùng với tứ đại tộc trưởng thương nghị để sự tình giải quyết trong hoà bình. Mọi người đều hiểu chuyện cho nên chỉ cần Thiếu soái gật đầu mối quan hệ lương hảo này sẽ không xuất hiện vấn đề gì đâu.”
Gã lại nói tiếp: “Từ huynh xin đừng gấp, Ngọc Hoa muốn thể hiện chút tình chủ nhà.”
Từ Tử Lăng chú ý thấy Lôi Cửu Chỉ xuất hiện ở phía trước, ra dấu cho gã, bèn xin lỗi: “Tại hạ phải hồi thành hội ngộ với ba vị hảo bằng hữu, sau đó sẽ đi ngay, xin đa tạ tâm ý của Giải huynh! Xin gửi lời hỏi thăm của tại hạ đến tẩu phu nhân!”
Giải Văn Long cũng thấy Lôi Cửu Chỉ, nắm chặt tay Từ Tử Lăng, luyến tiếc không muốn từ biệt, đoạn nói: “Lần sau Từ huynh đến Thành Đô nhất định phải đến thăm để tiểu đệ và Ngọc Hoa được làm hết bổn phận gia chủ.”
Từ Tử Lăng nảy ra hảo cảm với với tính tình sảng khoái của y, nắm tay từ biệt.
o0o
Khấu Trọng men theo dòng sông thật nhanh, bỏ lại sau lưng tất cả những lo âu phiền não, gã không quan tâm lần này Sư Phi Huyên sẽ dùng thủ đoạn gì đối phó với mình, chỉ nghĩ đến những phương diện tốt đẹp.
Thật ra gã và Tống Khuyết đều hiểu rõ, dẫu có Dương Công Bảo Khố mà muốn thu thập Lý Uyên cũng phải trả giá đắt bằng một trường huyết chiến gian nan.
Đúng như Tống Khuyết đã chỉ ra, Dương Kiên làm phản tiền triều để chiếm lấy đế vị, đương nhiên phải đề phòng thủ hạ. Dương Quảng lại càng tệ hại, luôn luôn chĩa mũi dùi đề phòng vào những nơi có khả năng mưu phản, đặc biệt gia cố lực lượng ở Hoàng thành để phản kích khi cần. Kể cả gã lập được cứ điểm vững chắc trong thành, cũng khó chống đỡ được phản công từ Hoàng thành. Một ngày chưa hạ được cấm vệ sở ở Huyền Vũ môn, ngày đó Trường An còn trong tay Lý Uyên.
Trận chiến tối hậu ở Trường An thành hay bại nằm trong tay bọn gã, nhưng thương vong hiển nhiên sẽ trầm trọng phi thường. Lần này gã đối mặt với một Lý Thế Dân không chịu khống chế của Lý Uyên. Đối phương cần dùng gươm giáo phản công, mà khuếch trương thế lực về hai hướng nam bắc, tạo lập Lạc Dương làm trung tâm của đế quốc mới. Dưới tình thế này, thế chủ động lại nằm trong tay Lý Thế Dân, chiến loạn sẽ kéo dài liên miên là điều có thể đoán trước.
Vì vậy, từ góc độ này mà nhìn thì ý đồ lợi dụng Dương Công Bảo Khố bị Sư Phi Huyên phá hỏng cũng không hẳn là một việc không may. Chỉ cần công hạ Lạc Dương, lật đổ Lý Thế Dân, bức Lý Uyên tử thủ Quan Trung, gã có thể dễ dàng thâu tóm quan ngoại, chờ cơ hội chín muồi mới nhập quan thu thập chủ soái vô danh của Quan Trung.
Ý nghĩ này khiến gã nhẹ nhõm trong lòng, không còn cảm giác bức rứt nữa. Hà huống Ba Thục giữ được hoà bình, hai nhà Tống, Giải không cần ra mặt xung đột, Trí Trí tất sẽ vui mừng, ít nhiều cũng thay đổi cách nhìn với hắn.
“Khấu Trọng ta tuyệt đối không thua.”
Gã cười vang, đi nhanh hướng về Lô Xuyên.
o0o
Từ Tử Lăng, Hầu Hi Bạch, Lôi Cửu Chỉ, Âm Hiển Hạc từ Bắc môn rời thành. Bỗng phía sau có tiếng gọi lớn: “Từ huynh.”
Bốn người ngạc nhiên dừng lại.
Từ Tử Lăng cười hỏi: “Nguyên lại là có chuyện gì vậy Trịnh huynh?”
Hà Nam Cuồng Sĩ Trịnh Thạch Như thở hổn hển, dừng lại trước mặt bốn người, vui vẻ nói: “Nếu không phải tin tức của tiểu đệ linh thông, ắt đã mất cơ hội gặp Tử Lăng. Các vị định rời thành? Chúng ta vừa đi vừa bàn được không?”
Từ Tử Lăng giới thiệu Lôi Cửu Chỉ và Âm Hiển Hạc cho Trịnh Thạch Như biết rồi cùng rời thành.
Bọn Lôi Cửu Chỉ ba người tách đi trước, để hai người họ đàm đạo.
Trịnh Thạch Như nói: “Tại hạ vừa gặp Giải thiếu bảo chủ, được y chỉ cho tìm Từ Tử Lăng. Hà! Tống Khuyết vừa xuất binh, tình thế thiên hạ lập tức đã xoay chuyển.”
Từ Tử Lăng gật đầu công nhận: “Nhãn quang của Trịnh huynh thật độc đáo.”
Trịnh Thạch Như khiêm tốn nói: “Tử Lăng là người trong cuộc, lòng thế nào cũng rối loạn, tiểu đệ ở bên ngoài quan sát nên tỉnh hơn. Lại nghe thiếu bảo chủ vừa đạt thành hiệp nghị với huynh, Ba Thục mà giữ vị trí trung lập, các vị cũng sẽ không chạm tới”.
Từ Tử Lăng xác nhận: “Đúng là có việc như thế.”
Trịnh Thạch Như hạ thấp giọng: “Tử lăng có biết Bàn Cổ An Long đã bị Giải Huy trục xuất khỏi Ba Thục, nửa bước cũng không được vào nữa?”
Từ Tử Lăng ngạc nhiên: “An Long gặp gây ra chuyện gì? Sao Giải Huy lại tuyệt tình với lão như vậy?”
Trịnh Thạch Như đáp: “Nghe Thục Minh nói, An Long cùng với Tây Đột Quyết ám muội cấu kết, làm trung gian bí mật đưa tin cho Lý Nguyên Cát. Chuyện này phạm vào đại kỵ của Giải Huy, vì vậy Võ Lâm Phán Quan đã bí mật triển khai lực lượng, trong một đêm khống chế hết cả trăm xưởng rượu của An Long tại Ba Thục. Lại ra thông điệp tối hậu với những kẻ có quan hệ thân thiết với An Long, buộc họ phải phân chia giới tuyến với hắn. An Long không còn cách phản kích, đành phải lặng lẽ rời khỏi Ba Thục.”
Từ Tử Lăng nhíu mày: “Bí mật như vậy, làm sao lại bại lộ được thế?”
Trịnh Thạch Như nói: “Do có liên quan đến Phục Khiên của Thổ Cốc Hồn, hắn vào thành bái kiến Giải Huy, tức thì đại sự chấn động cả võ lâm Ba Thục được đồn ra.”
Từ Tử Lăng ngẩn người: “Phục Khiên?”
Trịnh Thạch Như gật đầu: “Chính là Phục Khiên, con trai của tù trưởng Thổ Cốc Hồn Phục Doãn, tuỳ tùng đi theo ước hơn năm mươi tên, ngụ tại Ngũ môn khách sạn trên con đường Ngũ môn giao nhau. Hắn đi đâu cũng cặp kè với hai man nữ nhan sắc như hoa như nguyệt, phong tư mê người, hết sức hấp dẫn ánh mắt người khác, trở thành đề bàn tán sôi nổi trong thành mấy ngày nay. Cũng làm giảm đi bầu không khí kiếm tuốt nỏ giương giữa Ba Minh và Độc Tôn bảo.
Lúc này bọn họ đã đi xa khỏi thành, Từ Tử Lăng dừng bước, nói: “Tiểu đệ và Phục Khiên vốn là chỗ giao tình, biết y ở trong thành cũng nên tới chào hỏi. Nói đùa một chút, tiểu đệ và Khấu Trọng cũng tin vào những lời đồn đại, coi bọn y là người của Thống Diệp Hộ. Còn việc Lý Thế Dân và Tây Đột Quyết cấu kết té ra lại là Lý Nguyên Cát.
Lôi Cửu Chỉ đi phía trước ngừng lại, nhìn Từ Tử Lăng.
Trịnh Thạch Như cười nói: “Mấy hôm nay, Thành Đô đầy dẫy những chuyện đơm đặt thị phi, tiểu đệ nghe được cũng chỉ cười xòa. Tử Lăng muốn hàn huyên với Phục Khiên, cũng không cần hồi thành mà cứ đi tiếp, bọn Phục Khiên vừa từ Bắc môn rời thành sáng nay, nghe đâu đích đến là Trường An. Nếu Tử Lăng nhanh chân ắt có thể bắt kịp ở Hán Trung!”
Từ Tử Lăng vui mừng: “Vậy tiểu đệ cáo từ Trịnh huynh ở đây, ngày sau có duyên gặp mặt sẽ ngồi uống rượu tâm tình, hy vọng lúc đó thiên hạ thái bình, lòng người không còn phiền não vì chinh chiến hỗn loạn nữa.”
Trịnh Thạch Như quay về, gã nói với Hầu Hi Bạch: “Bọn ta đi Trường An chuyến này chỉ muốn hỏi rõ Kỷ Thiến, không cần biết kết quả thế nào lập tức ly khai ngay. Hi Bạch quen thuộc tình thế ở Ba Thục, chi bằng đi cùng với Lôi Cửu Chỉ đến lấy quyển sách mà Hàn Trạch Nam đã nói. Sau đó chúng ta hẹn gặp ở Hán Trung, được không?”
Hầu Hi Bạch vui vẻ: “Tiểu đệ cũng có ý này, để tiết kiệm thời gian, bọn ta chia nhau về Lương Đô rồi mới thương nghị làm sao đối phó với Hương gia.”
Lôi Cửu Chỉ nói: “Quyết định vậy đi. Tử Lăng và Hiển Hạc phải cẩn thận, Trường An là nơi hiểm địa, nếu như thấy tình thế không thuận lợi phải lập tức ly khai ngay”.
Bốn người cùng cười ha hả rồi lên đường.
o0o
Khấu Trọng đến Lô Xuyên lúc trời vừa hoàng hôn. Lính thủ thành nhận ra gã bèn tức tốc sai khoái mã truyền tin cho đại tướng Tống Pháp Lượng của Tống phiệt, đồng thời nghênh đón gã vào thành.
Lô Xuyên là thành ấp nổi tiếng của Ba Thục, địa thế kề với Đại Giang, giao thông phát đạt, xe cộ dập dìu, phồn vinh hưng thịnh, bầu không khí khẩn trương của chiến tranh và thay đổi chủ quyền không mảy may ảnh hưởng, hiển nhiên thủ đoạn an dân của Tống Pháp Lượng rất cao minh. Mặt khác, Tống gia quân kỷ nghiêm minh, không sách nhiễu cuộc sống an bình của dân chúng.
Tống Pháp Lượng nghênh tiếp gã ở trước cửa phủ, vào đến đại đường, Khấu Trọng chỉ thị cho Tống Pháp Lượng bảo tả hữu lui hết, chỉ còn lại riêng hai người, mới lên tiếng hỏi: “Pháp Lượng có thể tức tốc điều động tác chiến bao nhiêu chiến thuyền cả thảy?”
Tống Pháp Lượng nghĩ gã sẽ lập tức tấn công Thành Đô, trả lời dứt khoát: “Thủy sư thuyền của thuộc hạ ở Lô Xuyên khoảng hai trăm, cộng cả quân thủy lục là một vạn rưỡi, chỉ cần một ngày có thể lập tức hành quân ra chiến trường, nhưng mà…
Khấu Trọng mỉm cười: “Có phải lão nhân gia đã từng chỉ thị chiến lược vây Thành Đô để lấy Hán Trung?”
Tống Pháp Lượng cung kính: “Thiếu soái minh xét, quả thật như thế, nhưng Phiệt chủ cũng đã nói, mệnh lệnh của Thiếu soái là tuyệt đối, Thiếu soái chỉ cần hạ lệnh, Pháp Lượng tuyệt không do dự.”
Khấu Trọng gượng cười: “Không chỉ ta mất Hán Trung, mà cũng mất luôn Thành Đô vì vậy phải tìm gì đó bù lại, trong lòng mới thư thả được.”
Pháp Lượng ngạc nhiên nói: “Chúng ta chưa động thủ, sao đã biết là sẽ mất Ba Thục?”
Khấu Trọng nói: “Một lời không thể nói hết, ta muốn ngươi trong vòng hai canh giờ rút toàn quân khỏi Lô Xuyên, theo đường sông tiến đến Giang Đô. Chỉ cần chiếm được Bì Lăng đối diện với Giang Đô, Lý Tử Thông tất không chiến mà bại. Sau khi có Giang Đô rồi, muốn đánh Trầm Pháp Hưng cùng Phụ Công Hựu nơi nào trước tùy chúng ta quyết định.
Pháp Lượng gật đầu: “Thiếu soái muốn rút quân khỏi Ba Thục không thành vấn đề, tuy nhiên chúng quân sĩ phải được thông báo rõ về tình hình Ba Thục, ví dụ như quân Đường đang chuẩn bị tiến vào Ba Thục, có thể sẽ chờ để truy kích quân ta. Như thế quân sĩ sẽ sẵn sàng chuẩn bị kế hoạch lui binh”
Khấu Trọng nói giọng vui vẻ: “Ta thật sự tán thưởng thái độ thành thực của Pháp Lượng. Quân Đường sẽ không nhập Thục, trước khi bọn ta và Lý Thế Dân phân thắng bại, Giải Huy sẽ giữ trung lập.”
Tống Pháp Lượng như trút được gánh nặng: “Giải Huy cuối cùng cũng tránh được nguy hiễm, mọi người không mất hòa khí.”
Khấu Trọng nói: “Ta vẫn cho rằng hạ lệnh lui quân khiến ngươi bất mãn, nhưng xem ra Pháp Lượng đối với sự biến chuyển và phát triển của tình thế này có vẻ rất vui!”
Tống Pháp Lượng cười mỉm, lúng túng đáp: “Pháp Lượng nào dám có ý gì bất mãn với Thiếu soái. Trong lòng chúng thuộc hạ, Thiếu soái dụng binh như thần, là thống soái tung hoành thiên hạ vô địch, làm theo lệnh của Thiếu soái, tuyệt nhiên không chịu thiệt bao giờ.”
Khấu Trọng cười nói: “Đừng khen ta, đều là người nhà, có gì mà không thể nói ra? Tại sao phải rút khỏi Ba Thục lại khiến ngươi thoải mái như thế?”
Tống Pháp Lượng cúi đầu than thở: “Đại tiểu thư là người chúng thuộc hạ kính mộ, chỉ vì Phiệt gia ra lệnh, còn ai dám nói nửa lời?”
Khấu Trọng bật cười lớn: “Phiệt gia, cách gọi rất độc đáo. Hà! Ta hiểu rồi!”
Tống Pháp Lượng cung kính: “Tấn công Bì Lăng là việc nhỏ, Thiếu soái có lệnh, Pháp Lượng tuyệt đối không phụ lòng.”
Khấu Trọng nói: “Pháp Lượng trước đây có kinh nghiệm thực tế hành quân chiến đấu chưa?”
Tống Pháp Lượng lộ ra thần sắc khâm phục, chỉ có người lão luyện nơi chiến trường mới biết tỉ mỉ mối liên quan trọng yếu này. Mỉm cười đáp: “Pháp Lượng được Phiệt gia bồi dưỡng, đã có ba năm kinh nghiệm liên tục lãnh quân tác chiến ở biên ải phía Tây, hai năm gần đây phụ trách thao luyện thủy sư và cùng Lâm Sĩ Hồng giao phong, việc trù bị chiến lược ban đầu tấn công đảo Hải Nam là thuộc hạ giúp Tống Trí Đạo nhị gia nghiên cứu, sau đó trình lên Phiệt gia duyệt lại, xin Thiếu soái minh giám.”
Hai mắt Khấu Trọng bắn ra thần quang sắc như dao, nhìn chăm chăm vào Tống Pháp Lượng, thử lòng can đảm của hắn, trầm giọng nói: “Ngươi nắm vững tình hình ở Giang Đô không?”
Tống Pháp Lượng không chút bối rối trước ánh mắt của Khấu Trọng, thần phục nói: “Thiếu soái an tâm, cũng rõ như hiểu biết của Pháp Lượng đối với thủy sư thuyền đội của mình, có thể đếm được thừa thiếu bao nhiều thuyền, trên thuyền bao nhiêu người. Pháp Lượng dám lãnh quân trạng lệnh.”
Khấu Trọng đưa ngón cái lên, cười nói: “Ta tin ngươi, lập tức thi hành đi. Ta muốn một chiếc thuyền đưa ta đến Lương Đô gặp Phiệt gia.”
Tống Pháp Lượng đứng dậy hành lễ, tư thế đi ra như long hành hổ bộ.
Khấu Trọng nhìn phía sau của hắn, trong lòng cảm xúc lẫn lộn.
Chưa đến một khắc, gã ta cảm thấy mình đang nắm trong tay lực lượng lớn mạnh, vài câu nói có thể quyết định vận mệnh của một tòa thành, ngay cả thành Giang Đô phồn vinh như thế cũng không tránh khỏi. Nghĩ lại ngày trước chỉ là tên móc túi ở Dương Châu, nào dám nghĩ đến ngày hôm nay? Tống gia quân quả thật là một lực lượng tinh nhuệ.
o0o
Đi suốt đêm không nghỉ trong hai ngày liền, Từ Tử Lăng và Âm Hiển Hạc cũng đến được thành Hán Trung. Tòa thành này có vị trí quan trọng, là cánh cửa thông trực tiếp với Quan Trung, do em trai Giải Huy là Giải Thịnh trấn thủ. Cũng vì vị trí địa lý thuận tiện, là con đường thương gia và lữ hành đều phải đi qua nên Hán Trunh hưng vượng không kém Thành Đô. Đang mùa tuyết rơi, nơi nơi tuyết phủ trắng xóa, không khí trầm lắng.
Sau khi vào thành, Từ Tử Lăng trước tiên kiếm một lữ quán, lại tìm cách dò thám tin tức của Phục Khiên, Âm Hiển Hạc nói: “Ta muốn uống hai ly rượu.”
Từ Tử Lăng nhớ lại kỷ lục bất lương của y, thất kinh can: “Âm huynh bạo bệnh mới khỏi, uống rượu sẽ hại thân, tránh được thì nên tránh.”
Âm Hiển Hạc kiên trì nói: “Ta đáp ứng huynh là chỉ uống hai ly thôi, yên tâm đi sẽ không xảy ra chuyện gì đâu. Vì Tiểu Kỷ, ta biết tự kèm chế mà.”
Từ Tử Lăng thấy mé bên trái có một tửu quán liền nói: “Quán này được không?”
Âm Hiển Hạc dừng lại, tỏ vẻ xin lỗi nói: “Từ huynh chớ nên lấy làm lạ, ta muốn uống rượu một mình. Đã bao lâu nay ta có thói quen độc lai độc vãng, muốn một mình nhớ lại sự tình.”
Từ Tử Lăng cũng hết cách với y, tuy trong tâm gã lo lắng không có ai giám sát thì y sẽ mặc tình uống say sưa, nhưng cũng không có cách cản, chỉ nói: “Huynh đi uống rượu, tiểu đệ đi tìm khách sạn, chốc nữa quay lại tìm huynh. Âm huynh xin ở lại quán rượu chờ, nhớ là đừng uống quá hai ly.”
Âm Hiển Hạc gật đầu đáp ứng rồi tự mình bỏ đi.
Từ Tử Lăng ngấm ngầm thở dài, minh bạch rằng Âm Hiển Hạc do sắp tới Trường An, sinh ra lo lắng quá độ chuyến đi này sẽ công cốc. Y vì chuyện lo tìm em gái đã từng gặp vô số thất bại, tâm tình này có thể lý giải được.
Phía trước bên tay phải xuất hiện một lữ quán khá lớn, trên tấm chiêu bài vàng viết “Cao Bằng khách sạn”, phía dưới là bốn ngọn đèn sáng rực. Đổi lại lúc bình thường, gã chắc sẽ không chọn loại quán ở ngay trên đường lớn, tập trung đủ loại người như vậy, có điều gã phải vội về tửu quán để “trông chừng” Âm Hiển Hạc nên không nghĩ ngợi gì, đặt chân ngay vào tiểu quảng trường hướng về cửa lớn.
Còn chưa kịp đặt chân vào trong, đã có tiếng hỏa kế chạy ra treo tấm bảng “đầy khách” bên cạnh cửa.
Từ Tử Lăng cười khổ nói: “Hán Trung thịnh vượng đến vậy sao?”
Tiểu nhị thấy gã ngoại hình xuất chúng, nói hai ba câu lấy lòng: “Quan Trung đang có chiến sự, Ba Thục thì man di làm loạn, sinh ý bấp bênh, hiện giờ có người đã bao hết khách sạn, khách quan sao lại không đi thêm hai bước, ở Hán Trung này, Vọng Thái lữ quán nằm bên đường cùng với khách sạn của bọn tiểu nhân cũng tương đương nhau.”
Từ Tử Lăng động tâm nói: “Bao hết qúy điếm có phải là khách nhân từ Thổ Cốc Hồn tới không?”
Tiểu nhị nhướng mày hỏi: “Thổ Cốc Hồn là cái gì?”
Từ Tử Lăng giải thích: “Thổ Cốc Hồn là dân tộc phía tây Tái ngoại, khách nhân của lão huynh …?”
Tiểu nhị tiếp lời: “Bọn họ là bằng hữu của công tử sao? Công tử nói đúng đó, họ tuy nói tiếng Hán để giả làm người Hán nhưng những người chuyên làm kinh doanh khách sạn như bọn tiểu nhân cặp mắt sắc nhất, mấy kiểu nói năng đó làm sao lừa được. Lúc đầu còn tưởng bọn chúng đến từ Bắc cương, ai ngờ lại là người của cái gì Hồn ở phía Tây, tiểu nhân lập tức đi báo tin hộ công tử, chẳng hay công tử cao tính đại danh là gì?”
Từ Tử Lăng thầm nhủ, nếu nói thật với gã mình chính là Từ Tử Lăng, đảm bảo gã ta sợ xanh mặt, thậm chí còn tưởng rằng Thiếu Soái quân nhập thành. Bèn khẽ mỉm cười: “Ta còn chút chuyện, giải quyết xong sẽ lại làm phiền lão huynh lần nữa”
Vừa lúc chuẩn bị đi, chợt nghe phía sau có tiếng bước chân truyền đến.
Gã quay đầu lại, cả hai giáp mặt nhau, cùng kinh ngạc.
Một mỹ nữ vận loại Hồ phục vẫn lưu hành ở phía bắc Trung thổ, đầu đội một chiếc mũ sặc sỡ của Thổ Cốc Hồn, mình khoác một tấm trường bào màu xanh lục, mặc váy dài màu trắng sữa, áo dài tay màu vàng nhạt, chân mang hài đen, được bốn tên võ sĩ và Đoạn Trử vây quanh, nghi thái xinh đẹp muôn phần đi tới. Khuôn mặt đang cười thoáng chốc đã bình tĩnh lại, cặp mắt mỹ miều ánh lên tia xảo quyệt, làn môi thơm nhẹ nhàng cất tiếng: “Không ngờ được gặp Từ huynh ở đây, đúng là xảo hợp!”
Từ Tử Lăng có nghĩ cách nào cũng quyết không thể nghĩ rằng lại oan gia lộ hẹp, ở đây lại gặp phải Mỹ Diễm Phu Nhân thân phận mập mờ thần bí này, trong đầu chợt nảy ra một chủ ý, cười đáp: “Phu nhân đến Trung nguyên cũng nên đến chào hỏi tại hạ, bằng không tại hạ sẽ phí biết bao nhiêu công sức để truy tìm tông tích của phu nhân.”
Vị phu nhân xinh đẹp chợt biến sắc nhìn Từ Tử Lăng trân trân, không ngờ lại có cơ hội gặp mặt thế này, phảng phất một mùi hương theo gió truyền đến, cười lạnh nói: “Hóa ra Từ huynh cũng giống những nam nhân khác đều thèm khát như mèo thấy mỡ, cứ thấy nữ nhân liền không tha.”
Đoạn Trử mặt mày sớm đã tái mét, run run rẩy rẩy cùng Mỹ Diễm Phu Nhân đi qua bên mình Từ Tử Lăng, bốn tên võ sĩ còn lại mặt lộ địch ý, tay đặt lên cán đao.
Tiểu nhị bây giờ đã hiểu ra mối quan hệ của Từ Tử Lăng và bọn người kia là như thế nào, gã rùng mình ớn lạnh, lẹ làng trốn ngay vào trong khách sạn.
Từ Tử Lăng điềm đạm nói: “Đứng lại cho ta.”
Mỹ Diễm Phu Nhân sắp bước qua cửa liền dừng, thư thả quay người lại, yêu kiều cười nói: “Người ta chỉ nói đùa với công tử thôi! Từ công tử không cần quá nghiêm túc, ai lại không biết công tử là bậc chính nhân quân tử đứng đắn vô cùng.”
Từ Tử Lăng hai mắt sáng quắc, bình tĩnh nói: “Phu nhân nếu không giao Ngũ Sắc thạch ra ngay, ta bảo đảm bà sẽ hối hận.”
- o O o -