Hồi 651
Tác giả: Huỳnh Dị
Hai mươi cỗ Xa ôn bôn xa có thể chống được tên bắn của địch, yểm hộ cho xạ thủ bên mình, được binh sĩ gọi tếu là lừa gỗ, sắp hàng trên sân đậu xe rộng rãi bên trong Trường Hạ môn ở hướng chính nam, đợi đêm xuống.
Loại chiến xa này có hình dáng như một căn phòng di động có bánh xe, đỉnh nhọn hình tháp, thân bịt da trâu sống tẩm thuốc, kiên cố, chống cháy, ném đá cũng không sao.
Ngoài ra còn có hơn hai trăm xe cơ động, thực ra chỉ là những xe một bánh chở hàng đẩy tay thông thường, điểm đặc biệt là ốp kín những tấm chống tên, bảo vệ cho binh sĩ đẩy xe, bên trên chất đầy những đá bùn, có thể trực tiếp xô xuống dưới hào, sẽ tăng tốc độ lấp hào.
Những cư dân tổ chức không ngừng vận chuyện cát, đá, bao đất đến hai bên Trường Hạ môn, chất thành đống như núi, đợi đến giờ hành động thì các binh sĩ sẽ dùng lừa gỗ che chắn để vận chuyển ra ngoài thành lấp hào.
Sức sát thương cao nhất vẫn phải kể đến mười máy bắn và năm thùng đá lớn vận chuyển từ trong thành ra, những chiến cụ siêu cấp này chỉ cần có thể vượt qua hào thì sẽ có thể phá hoại được các trại gỗ của địch với sức mạnh to lớn.
Chín nghìn chiến binh bố trí trong sân, chia làm ba đội, mỗi đội có một ngàn tay mâu và khiên, tiễn thủ một ngàn rưởi, kỵ binh năm trăm. Ai nấy đều tràn trề hy vọng vào chuyến xuất thành này, sĩ khí dâng cao, chuẩn bị sẵn sàng.
Trong lòng họ, Từ Tử Lăng hệt như thế thân của Khấu Trọng, là tượng trưng của sự vô địch.
Vương Thế Sung, Dương Công Khanh, Vương Huyền Ứng, Vương Huyền Thứ, Ma Thường, Đoàn Đạt, Đơn Hùng Tín, Bính Nguyên Chân, Bạt Dã Cương, Tống Mông Thu và Từ Tử Lăng tập trung trên thành lâu Trường Hạ môn, từ trên thành nhìn ra xa động tĩnh của địch ở bên ngoài.
Đối diện với cửa nam là doanh trại vững chắc dựng trên một ngọn đồi, hai trại tả hữu đều dựng trên đất bằng, chỉ dựa vào tường cao hào sâu phòng ngự, chỉ có điều nếu không thể công hãm trại trên cao trước, bị địch nhân ở đó xuất binh đột ngột tấn công thì chắc chắn sẽ có nguy cơ thất bại.
Vương Huyền Ứng than: “Nếu biết sớm thì cứ san bằng ngọn đồi nhỏ này thành bình địa, trận đêm nay sẽ dễ dàng hơn nhiều.”
Vương Thế Sung không biết có phải vẫn còn bất mãn về việc hắn làm mất Hổ Lao hay không, chau mày trách: “Nói mấy lời đó thì có tác dụng gì, hãy nghĩ cách có thể công phá ba trại này còn có ý nghĩa hơn.”
Vương Huyền Ứng cứng họng ngậm miệng im thin thít.
Lúc này Lang Phụng tới báo, quân đột kích ở An Hỉ Môn ở mặt bắc, Thượng Đông môn và Kiến Xuân môn ở mặt đông đã chuẩn bị sẵn sàng, ba nhánh mỗi nhánh quân có ba ngàn người, trang bị tương tự như quân đột kích chủ lực ở Trường Hạ môn, quy mô khoảng ba phần mười quân chủ lực, có nhiệm vụ đánh lạc hướng kẻ địch.
Dương Công Khanh nói: “Bọn ta chẳng cần phải cướp trại giết địch, chỉ cần dùng chiến thuật làm mệt mỏi quân địch, làm loạn thế trận của địch mà thôi .”
Chúng tướng đều gật đầu đồng ý, lấp hào là bước đầu tiên, sau đó sẽ bóp vụn phản kích của địch nhân, bảo vệ hào sâu được lấp kín.
Bên ngoài Trường Hạ môn khoảng hai ngàn bước nằm vắt ngang hai hào sâu cách nhau khoảng một trăm trượng, mỗi hào dài hai dặm, rộng hai trượng, sâu một trượng, hào sâu thứ hai không phải kéo dài liên tục mà cứ khoảng mấy trượng lại có một chỗ hổng, địch nhân có thể thông qua đó đi về phía bên kia của chiến hào.
Phía ngoài chiến hào còn có mười hai tòa lầu bắn tên cao ba trượng làm bằng gỗ, mỗi tòa bốn phía đều có chất bao cát cao quá đầu người, chiến sĩ Đại Đường nhờ mấy bao cát này yểm hộ đêm ngày luân phiên canh gác, còn dàn trận thêm máy bắn tên và máy bắn đá tảng, biến nơi này thành điểm phòng ngự kiên cố, phối hợp với ba trại có thể cử viện binh hỗ trợ lẫn nhau, phòng thủ vững chãi quả thực chẳng có chỗ hở nào.
Bốn tòa lầu bắn tên trong số đó nằm ở hai đầu trường hào, mỗi đầu là hai tòa, tạo thành hình vòng cung bảo vệ chiến hào ngắn, lối ra đặt tại chính nam, có thể hỗ trợ chặt chẽ với hai trại.
Lối ra ngoài của ba cửa phía nam Lạc Dương là Trường Hạ, Định Đình, Hậu Tái đều bị chiến hào, chiến lâu tầng tầng phong tỏa.
Dưới ánh hồng của buổi chiều tà, doanh trại của địch gần đó hoạt động sôi nổi, mã đội, bộ binh luân phiên tuần tiễu, dòng Y Thủy từ Lạc Dương chảy ra đã bị địch nhân dùng cọc nhọn phong tỏa, phía sau đó trên bờ cao là mấy tòa lầu bắn tên và máy bắn đá, trong thành ngoài thành không khí chiến tranh căng thẳng bao bọc.
Vương Thế Sung hỏi: “Tử Lăng lúc này có ý kiến gì không?”
Từ Tử Lăng đứng cạnh Vương Thế Sung, đang ngưng thần quan sát khu trại trên cao quy mô lớn nhất của bên địch, ung dung đáp: “Trên cửa trại tung bay lá cờ có chữ Lô, là đại biểu cho vị tướng nào của địch?”
Đơn Hùng Tín đáp: “Đó là Lô Quân Ngạc, tâm phúc đại tướng của Lý Nguyên Cát, người này là dũng tướng trứ danh của quân Đường, rất thiện nghệ xung trận giết địch, lúc tấn công Quan Trung đã lập được đại công, lần này theo Lý Nguyên Cát đông chinh, là hành quân tổng quản của Lý Nguyên Cát. Lý Nguyên Cát phái hắn trấn thủ mặt nam, có thể thấy y coi trọng mặt chiến tuyến này thế nào.”
Từ Tử Lăng cười nhẹ: “Đêm nay chúng ta chỉ cần lấp đi chiến hào thứ nhất, sau đó bắt chước bọn chúng dùng bao cát lập trận chống lại địch quân từ chiến hào thứ hai đánh tới, chỉ cần có thể giữ vững thông đạo ở giữa hai chiến hào, địch nhân chỉ có nước la khóc chẳng làm gì được. Ma tướng quân có cao kiến gì không?”
Ma Thường nói vài câu khiêm tốn rồi tiếp: “Bên trái bọn ta có Y Thủy hiểm trở, do đó chỉ cần dùng toàn lực đối phó với địch nhân tấn công mặt trước, địch nhân nếu từ bên phải tấn công dọc theo chiến hào, chúng ta có thể bố trí mấy ngàn kỵ binh ở hai cửa Hậu Tái môn và Định Đỉnh môn, kỵ đội từ Hậu Tái môn cắt đứt mũi tấn công, kỵ đội từ Định Đỉnh môn đánh thẳng vào giữa, một ngàn năm trăm kỵ binh đi lấp chiến hào cũng có thể xoay ngược lại phản công, như vậy có thể bảo đảm an toàn tối đa.”
Mọi người ai nấy gật đầu khen hay, Vương Thế Sung cũng thấy không còn vấn đề gì nữa, nói: “Cứ y theo đề nghị của các vị, màn đêm buông xuống chúng ta sẽ phát động tấn công, làm Lý Nguyên Cát mất mặt một phen.”
Mọi người dạ ran, sĩ khí dâng cao, từ khi bị quân Đường vây thành, đến lúc này thủ hạ chư tướng của Vương Thế Sung mới bắt đầu thấy được sinh cơ.
Từ Tử Lăng cảm thấy gã ở lại Lạc Dương là rất đúng đắn, nếu mà Lạc Dương bị phá, thì chẳng còn gì để nói nữa.
o0o
Hư Hành Chi, Trần Trường Lâm, Tuyên Vĩnh, Lạc Kỳ Phi, Bốc Thiên Chí, Trần Lão Mưu cùng Nhậm Mi Mi vừa từ Lương Đô tới đồng loạt tham gia buổi tiệc chiều.
Uống được ba tuần rượu, Lạc Kỳ Phi trước tiên quay sang báo cáo với Khấu Trọng chuyện của Lưu Chí Thành: “Tên tiểu tử này không đủ sức kháng cự sự mê hoặc của một ả danh kỹ thanh lâu, mê đắm chi tiền cho ả không tiếc tay, thêm vào đam mê đánh bạc, nợ nần chồng chất, nên đã bị một tên thủ hạ của Hương Ngọc Sơn lợi dụng bỏ tiền mua chuộc. Lại thấy quân ta lâm vào thế yếu, nếu thuận theo Hương Ngọc Sơn, về sau phú quý không sao kể xiết, bèn theo kẻ ác làm chuyện xấu xa.”
Trần Lão Mưu cười gằn nói: “Hương Ngọc Sơn đã đích thân gài bẫy, vừa có mỹ nữ lại có thêm tài phú, có bao nhiêu người đủ sức chống cự lại sức dụ hoặc này chứ.”
Lạc Kỳ Phi nói: “Tên tiểu tử này sau khi chính mắt nhìn thấy trận chiến ở khe nước Lương Đô của chúng ta thắng lợi vẻ vang thì vô cùng hối hận, nhưng đã bị người ta uy hiếp, chỉ đành làm gan tiếp tục dấn thân. Chuyện này là do ta dùng người không đúng, xin Thiếu soái trừng phạt, nếu không Kỳ Phi trong lòng thật là áy náy.”
Khấu Trọng bình tĩnh nói: “Không phải ngươi dùng người không đúng, mà là người dùng được thì quá ít, gặp chuyện gấp đành phải dùng tạm người trước đây của Bành Lương bang. Điều này đại biểu cho việc đổi mới của chúng ta, chỉ có điều việc này không gấp được, về sau có thắc mắc gì thì có thể thương lượng với Hư quân sư, nghe xem ý kiến của ông ấy thế nào.”
Nhậm Mi Mi nghiêm mặt: “Hương tiểu tử ở quá gần bọn ta, thêm vào dư đảng của hắn ở Bành Lương đông đảo, may mà ta hiểu rõ hắn mồn một như trong lòng bàn tay, chuyện này cứ giao cho ta lo, bảo đảm sẽ thanh trừ sạch toàn bộ người của Hương tiểu tử, quét sạch hết thanh lâu đổ quán có liên hệ với quan phủ của hắn.”
Hư Hành Chi nói: “Hương gia đã ở Bành Lương lâu năm, thế lực thâm căn cố đế, lại liên hệ mật thiết với cuộc sống của người dân, do đó chuyện này tuy nhất định phải làm, nhưng cũng nên làm từng bước một, không nên hành động quá khích.”
Khấu Trọng đồng ý, rồi quay sang Lạc Kỳ Phi: “Kẻ uy hiếp Lưu Chí Thành là thần thánh phương nào?”
Lạc Kỳ Phi đáp: “Tên này là tể thương Vi Thanh, hắn cung cấp rượu cho ba thành Bành Thành, Lương Đô và Lan Lăng, không thuộc bang hội nào, trước giờ vẫn giữ quan hệ tốt với hai bang Ba Lăng và Bành Lương. Hắn định kỳ cung cấp bồ câu đưa thư cho Lưu Chí Thành, đến tên tiểu tử Lưu Chí Thành cũng không biết bồ câu đưa thư đến chỗ nào.”
Bốc Thiên Chí hỏi: “Lưu Chí Thành có tình nguyện hợp tác với bọn ta không?”
Lạc Kỳ Phi gật đầu: “Hắn vừa nãy đã thề độc trước mặt ta, bảo đảm sẽ trung thành hợp tác, chỉ cần bọn ta tha cho cái mạng chó của hắn.”
Khấu Trọng vui vẻ nói: “Tính mệnh của hắn còn nằm trong tay bọn ta thì tên tiểu tử tham sống sợ chết này chỉ còn biết cách ngoan ngoãn vâng lời mà thôi. Đợi bọn ta nghiên cứu xong xuôi nên hành động thế nào, rồi sẽ lợi dụng hắn ta đưa tin tức giả ra ngoài.”
Tuyên Vĩnh nói: “Chỉ e tin tức giả này giờ đây khó mà lừa được Lý Thế Tích, phải phối hợp với hành động tương ứng, để cho thám tử của Lý Thế Tích thu thập tin tình báo khẳng định tin tức giả là đúng, Lý Thế Tích mới bắt đầu tin tưởng.”
Khấu Trọng tiếp: “Giả sử Lý Thế Tích tin chắc bọn ta sẽ đem quân ngược sông tấn công Khai Phong, y sẽ phản ứng thế nào?”
Trần Trường Lâm đáp: “Nếu ta là y thì sẽ dĩ dật đãi lao, đợi quân ta đến dưới thành rồi dùng binh lực vượt trội cắt đứt đường lui, hủy diệt thủy sư thuyền của bọn ta, sau đó chính diện giao phong với bọn ta. Học được bài học từ Lý Tử Thông, quân Đường đã hết sức phòng bị Phi Luân thuyền của bọn ta rồi.”
Khấu Trọng gật đầu: “Đó xem ra là chiến thuật cao minh nhất, trong tình huống như vậy, chúng ta chẳng có cách nào chiếm nổi tiện nghi. Con bà nhà nó, có kế sách nào tốt hơn để đối phó không?”
Nhậm Mi Mi duyên dáng cười nói: “Thiếu soái không phải đã nói qua, trong binh thư có viết cái gì mà công vào chỗ người ta nhất định phải cứu, vậy Lý Thế Tích có cái gì không thể không cứu đây?”
Khấu Trọng vỗ đùi kêu lên: “Lời Nhậm đại tỷ nói làm ta choàng tỉnh, bọn ta hãy dùng một chiêu bọ ngựa bắt ve sầu, có chim hoàng tước rình phía sau, bảo đảm sẽ dạy cho Lý Thế Tích bài học không thể nào quên được.”
o0o
Màn đêm buông xuống, quân thủ thành ở thành nam là đội đầu tiên xuất phát, hạ cây cầu treo lớn của Trường Hạ môn xuống, hai ngàn tên quân cầm mâu và thuẫn chạy ra trước, kết thành trận thế hai bên tả hữu trước cửa thành. Binh chủng này lấy phòng thủ làm chính, thuẫn cao có thể chắn được tên và đao kiếm đánh tới, trường mâu có thể khắc chế kỵ binh, thường được dùng để yểm hộ cho xạ thủ bắn cung, để phát huy sức sát thương mãnh liệt nhất trên chiến trường, tiến có thể công địch phá trận, lui có thể kết trận phòng thủ.
Sau đó đến lượt đám cung thủ xuất thành, trong tiếng tù và, hai ngàn quân cầm mâu và thuẫn ở hai bên trái phải theo tiếng hô của tướng sĩ chỉnh tề bước lên phía trước một trăm bước, để ba ngàn cung thủ chạy ra, tập hợp phía sau quân cầm mâu, thuẫn, tạo thành thế mâu, thuẫn ở trước, cung tên ở phía sau. Phía sau lại chia thành ba hàng, hàng đầu là là nỏ bắn tầm xa, hai hàng sau là cung tên hạng nặng.
Lại một hồi trống nổi lên, một đội quân đột kích chạy ra khỏi thành cuối cùng, hình thành thế mâu, thuẫn phòng thủ đằng trước, cung tên ở giữa, đột kích quân ở đằng sau, nhanh chóng tập hợp thành trung quân, kết thành trận thế hoàn chỉnh cách cổng thành hai trăm bước, trung quân ở giữa, tả hữu có hai cánh quân hộ vệ.
Lúc này ba trại bên địch vang lên tiếng chuông báo động, từng đội từng đội quân Đường ùn ùn chạy ra khỏi ba trại, bố trận bên ngoài chờ đợi, hành động tuy nhanh nhưng không loạn, thể hiện rõ tính cơ động và huấn luyện kỹ càng của quân Đường.
Từ Tử Lăng, Ma Thường cùng Dương Công Khanh lần lượt dẫn kỵ binh xuất thành, phía sau ba trận thế trùng trùng, một ngàn năm trăm kỵ sĩ kết thành kỵ binh trận che mắt địch nhân, không để bọn chúng nhìn thấy trong thành còn đẩy ra thêm mười máy bắn đá và năm thùng đá tảng, còn có thêm hai mươi cỗ xe lừa và hơn trăm xe cơ động.
Năm ngàn dân trong thành được tổ chức thành từng đội, không ngừng đem bao cát ra khỏi thành.
Từ Tử Lăng dõi mắt theo dõi cách thức điều động binh lính bên địch, hiện đang không ngừng tăng cường trận thế quanh lầu bắn tên ở ven chiến hào thứ hai, quân địch do Lô Quân Ngạc đích thân đốc suất, binh lực cực mạnh, đạt đến một vạn hai ngàn người, thêm vào quân ở hai trại tả hữu, binh lực khoảng sáu ngàn người, có cả binh Đường đang thủ hộ mười hai tòa lầu bắn tên, quân Đường trước mắt bọn họ lên đến ba vạn người, gấp bốn lần binh lực của bọn họ.
Dương Công Khanh nói: “Thống lĩnh quân Đường ở trại bên trái là Phùng Lập Bản, thống lĩnh trại bên phải là Tần Vũ Thông, đều là tướng lĩnh tâm phúc của Lý Nguyên Cát.”
Đối thủ là Lý Nguyên Cát chứ không phải Lý Thế Dân, Từ Tử Lăng trong lòng cũng thấy an ổn, hỏi: “Quân của Lô Quân Ngạc phân làm hai toán tiền hậu, không phải là nhị trận hay lục trận thông thường, vậy chẳng phải là bất bình thường sao?”
Ma Thường giải thích: “Đó là trận pháp chia quân tiền hậu lập thành hai trận, mỗi trận lại chia làm ba đội tiền trung hậu, trường thương ở trước, cung thủ ở giữa, nỏ ở sau cùng. Đợi bọn ta công kích bọn họ, trường thương ở trước sẽ đứng yên nghênh chiến, cứ gặp người là đâm, không hề thối lui. Đội cung thủ ở giữa quỳ xuống đất nghênh chiến, quân cầm nỏ phía sau đứng yên phát xạ. Khi hàng cung thủ đứng trước hết bắn hết tên hoặc thương vong quá nặng thì tiền trận lui về sau, hậu trận tiếp tục chống cự, do đó có tên gọi là Vi (Trị) Trận. Trận này dễ thủ khó công, muốn phá được thật chẳng dễ dàng gì.”
Từ Tử Lăng gật đầu nói: “Thì ra là như vậy, có thể thấy Lý Nguyên Cát nghiêm lệnh cho thủ hạ nhất định phải bao vây cho chặt chẽ, không để bọn ta phá vây hội họp với Hạ quân. Có biện pháp nào có thể làm cho Lộ Quân Ngạc tin rằng bọn ta nhất định phải phá vây ra ngoài không?”
Dương Công Khanh đáp: “Trước mặt địch quân vây khốn dày đặc thế này, chỉ có khinh kỵ binh mới có thể miễn cưỡng phá vây thoát ra thôi, nếu chúng ta dùng chút công phu điều động kỵ binh, đương nhiên có thể gạt được phe địch.”
Từ Tử Lăng nói: “Cách này để ngày sau rồi tính, đêm nay mục tiêu chiến lược của bọn ta là lấp một đoạn của chiến hào thứ nhất, dùng đá tảng phá hủy hai tháp bắn tên ở ven chiến hào thứ hai, bố trí ổn thỏa trận địa bao cát ngăn cách với địch nhân ở bên trong là đại công cáo thành rồi.”
Lệnh vừa hạ xuống, quân thổi kèn lập tức thổi tù và, trung quân do Bạt Dã Cương thống lĩnh bắt đầu tiến về phía chiến hào thứ nhất, hai cánh quân tả hữu cũng di động theo.
Thống lĩnh tả quân là Đơn Hùng Tín tiến lên men theo bờ tây Y Thủy, đứng đầu hữu quân là Đoàn Đạt, mé phía tây tuy trống trải không có chỗ hiểm yếu nào để phòng thủ, nhưng lại có phục binh bên trong hai cửa Định Đỉnh và Hậu Tái tiếp ứng khi cần.
Ở Định Đỉnh môn và Hậu Tái môn có hai đội kỵ binh khoảng một ngàn người sẵn sàng lâm trận, do hai người Vương Huyền Thứ và Mạnh Hiếu Văn thống lĩnh.
Đội kỵ binh của Từ Tử Lăng chầm chậm tiến về phía trước, hai mươi cỗ xe lừa nối tiếp theo sau, mỗi cỗ xe chứa năm mươi công sự binh, phụ trách việc đào đất lấp chiến hào.
Mười chiếc xe bắn cùng năm hộc đá lẫn trong đám kỵ binh từ từ đi theo, bên ngoài thành mây chiến tranh vần vũ.
Bên địch tiếng trống trận vang rền, chấn động cả cánh đồng Y Lạc bên ngoài thành nam, từ trại trên cao một đội kỵ binh khoảng gần hai mươi người xông ra, phóng tới phía sau trận của Lô Quân Ngạc.
Quân chủ lực của Lô Quân Ngạc bắt đầu di động, chầm chậm tiến tới chiến hào thứ hai, chi viện cho hai tòa tháp bắn tên ở ven chiến hào đối diện với Trường Hạ môn. Chỉ cần có thể cầm cự được trước sức phản công của quân thủ thành, quân Đường có thể theo chỗ trống của chiến hào thứ hai vượt tới đánh thẳng vào sườn của quân thủ thành đang bị cầm cự ở chiến hào thứ nhất.
Đại chiến đã sẵn sàng diễn ra bất cứ lúc nào.
o0o
Khấu Trọng đang ở trong nội đường khổ sở suy nghĩ mưu kế thì Hư Hành Chi cùng Trần Lão Mưu cầu kiến, ba người ngồi xuống rồi Trần Lão Mưu mới nói: “Khi nãy ta cùng Hư quân sư nghiên cứu chiến thuật, Hư tiên sinh có nói ra một số băn khoăn, ta nghĩ ông ta nên nói thẳng với Thiếu soái, nên cố kéo ông ta tới đây gặp mặt nói chuyện.”
Khấu Trọng nghe qua đã hiểu ngay, Hư Hành Chi nhất định là có ý ngược lại với mình, nhưng không dám nói thẳng ra trước mặt mọi người, do đó nói riêng với Trần Lão Mưu, hy vọng nhờ Trần Lão Mưu nhắc nhở mình. Gã hớn hở cười đáp: “Quân sư có ý kiến gì xin cứ nói thẳng ra, Khấu Trọng ta chẳng giống như Vương Thế Sung lòng dạ hẹp hòi không dung được người đâu.”
Hư Hành Chi lộ vẻ bối rối.
Trần Lão Mưu nói: “Theo tin tức bọn ta nắm được, tên tể thương Vi Thanh mua chuộc Lưu Chí Thành sau khi giao hai con bồ câu đưa thư cho hắn bèn rời khỏi Trần Lưu ngay trong đêm, không biết là đi đâu, Hư tiên sinh nghĩ rằng chuyện này chẳng đơn giản chút nào.”
Khấu Trọng ngạc nhiên nhìn qua Hư Hành Chi.
Hư Hành Chi nói: “Lý Thế Tích chẳng những tài trí hơn người mà còn kinh nghiệm phong phú. Lần trước Thiếu soái vận lương đến Lạc Dương, bị quân Đường chặn được, với sự tinh minh của Thiếu soái, không thể nào không khởi nghi tâm, nhất định ra sức tra ra coi ai là nội gian. Ta chỉ sợ Lý Thế Tích từ sớm đã đoán Thiếu soái có thể tìm ra được Lưu Chí Thành, rồi tương kế tựu kế đối phó lại với bọn ta.”
Khấu Trọng chau mày: “Bọn ta lần này có thể nhanh chóng lật mặt Chí Thành cũng có một chút may mắn, Lý Thế Tích sao mà biết được?”
Hư Hành chi nói: “Đối thủ của chúng ta là Hương Ngọc Sơn vô cùng giảo hoạt, không thể nào không tính trước chuyện này, hắn đã có thể mua chuộc Chí Thành thì cũng có thể mua chuộc thêm người khác. Lại nói Thiếu Soái quân của chúng ta vẫn chưa được trên dưới một lòng, người nào ý chí không kiên định thì rất dễ bị Hương Ngọc Sơn thừa cơ lôi kéo. Nếu trong đám thủ hạ của Chí Thành có người như vậy, Chí Thành nếu bất ngờ bị bịt miệng thì sẽ có người lãnh thay nhiệm vụ của hắn, thì việc thân phận nội gian của Chí Thành bị phát hiện sẽ không che mắt được đối phương.”
Khấu Trọng giật mình nói: “Quân sư suy tính quả nhiên cẩn mật hơn ta nhiều. Ôi, hiện tại biết làm thế nào cho phải? Đại kế bọ ngựa bắt ve sầu của ta mới bắt đầu đã không suôn sẻ rồi?”
Trần Lão Mưu nói: “Chuyện này còn phải bàn thảo chi tiết thêm, bọn ta trước tiên cứ giả thuyết rằng Hư quân sư đã đoán trúng, thi hành kế trong kế, nói không chừng có thể dạy Lý Thế Tích một trận nhớ đời.”
Bằng vào tài trí của Khấu Trọng mà vẫn cảm thấy lờ mờ không hiểu, đầu óc trống rỗng lầm bầm hỏi lại: “Kế trong kế? Kế trong kế thế nào đây?”
Hư Hành Chi nói: “Văn Nguyên Chính lãnh một đạo quân năm ngàn người từ Đông Hải tới, nếu bố trí thích hợp thì có thể trở thành kỳ bình. Chuyện này cứ giao cho thủ hạ lo liệu, ta chẳng những có thể lừa được nội gian nếu có, mà còn qua mặt được thám tử của Hương Ngọc Sơn bố trí trong địa bàn của chúng ta nữa.”
Khấu Trọng lần này mới cảm thấy uy hiếp nghiêm trọng của Hương Ngọc Sơn đối với Thiếu Soái quân, gật đầu: “Chuyện này giao cho tiên sinh toàn quyền lo liệu.”
Trần Lão Mưu tiếp: “Quân sư còn có hai đề nghị, trong trường hợp Đậu quân bị bại trận, Thiếu Soái quân chúng ta còn có cách mà đối phó.”
Khấu Trọng mừng rỡ nói ngay: “Ta chính vì chuyện này mà ngủ không yên, tiên sinh có đề nghị gì?”
Hư Hành Chi chần chờ hồi lâu mới mở miệng: “Bạt gia trước khi đi có kéo ta qua một bên nói mấy câu.”
Khấu Trọng ngẩn người ra hỏi: “Gã nói cái gì?”
Hư Hành Chi đáp: “Ông ấy nói nếu Thiếu soái không đổi ý định cùng hội binh với Đậu quân ở Hổ Lao, chẳng cần Lạc Dương thất thủ, Thiếu Soái quân của chúng ta trước tiên là đã không thể đứng vững được rồi.”
Khấu Trọng lạnh toát xương sống, bởi gã cũng đã thầm nghĩ qua chuyện này, biết rõ cho dù Đậu Kiến Đức đối với gã thế nào, với nghĩa khí giang hồ, gã tuyệt không thể nào giương mắt nhìn hắn bị Lý Thế Dân đánh bại.
Gã nhớ lại lời của Bạt Phong Hàn “Ai đủ tàn độc thì mới có thể sống sót.”
Chiến tranh chính là chuyện như vậy.
- o O o -