Hồi 701 - 702
Tác giả: Huỳnh Dị
Tuy Khấu Trọng lặng lẽ cầm lái nhưng tâm hồn không đặt vào cái bè gỗ và dòng sông, gã nghĩ đến cuộc quyết chiến sắp xảy ra giữa Tống Khuyết với Ninh Đạo Kỳ, có lẽ cuộc chiến này đã vượt qua hạn định của giới tuyến. Mối quan hệ phức tạp đan xen giữa Tái nội với Tái ngoại, phong thổ nhân tình, giữa dân tộc với dân tộc, quốc gia với quốc gia đều tập trung ở đây.
Gã đi khắp thiên hạ, đã trải qua nhiều trận chiến lớn nhỏ, đánh thành giữ thành, đào vong hay truy kích, tất cả hun đúc thành kinh nghiệm quí báu phối hợp cùng với những kiến giải vừa rồi của Tống Khuyết đã khiến gã nắm rõ yếu tố hư thực mạnh yếu của hai bên địch ta. Gã giờ như được khai thông tâm linh, tiến vào cảnh giới “tỉnh trung nguyệt”, có thể nhìn thấy hư thực của kẻ địch.
Chưa bao giờ gã biết người biết ta như lúc này, chiến lược thống nhất thiên hạ ẩn hiện trong đầu gã. Gã hiểu khi quay trở lại Bành Lương, gã sẽ bỏ hết tất cả, bao gồm từ sở thích của cá nhân đến sự sinh tử của Tống Khuyết, lãnh đạo Thiếu Soái quân bước lên con đường thống nhất thiên hạ.
Gã làm thế không phải là vì muốn thỏa mãn ham muốn cá nhân mà muốn đem lại hòa bình và hạnh phúc cho trăm họ trong thiên hạ, họ đã chịu đựng đủ rồi, phải nên kết thúc cuộc chiến phân tranh trường kỳ này đi.
o0o
Ba người ngồi bên lò lửa, tiếp tục ăn bữa tiệc thịt sói nướng, bông tuyết không ngừng theo gió thổi vào trong cửa, ngọn lửa trong lò nhảy múa, đêm tuyết lạnh giá thế này khiến người ta có cảm giác khó quên.
Khả Đạt Chí cảm khái mà rằng: “Bây giờ Ba Thục đã trở thành nơi tránh họa lý tưởng cho rất nhiều người, Thiếu soái có thể an toàn rời khỏi Lạc Dương quay về Bành Lương, lại được Tống Khuyết xuất binh giúp đỡ, thế lực lớn mạnh, sớm muộn gì cũng sẽ lấy được miền Nam.
Từ Tử Lăng rất muốn hỏi y có phải người Đột Quyết các người định chuẩn bị đánh miền Nam hay không, nhưng rốt cuộc vẫn không nói ra.
Khả Đạt Chí tiếp tục nói: “Hiện tại tình thế rất có lợi cho Thiếu soái, tuy Lý Thế Dân diệt được Đậu Kính Đức, lại hạ Vương Thế Sung lấy được Lạc Dương, nhưng các người đột phá vòng vây bỏ chạy, Lưu Hắc Thát được Tào Trạm, Cao Nhã Hiền ủng hộ khởi binh phản Đường, hắn ta lại bị Lý Kiến Thành và các phi tần nói xấu trước mặt Lý Uyên, bảo hắn nhớ đến tình cũ với các ngươi, quyết tâm chưa đủ, khiến Lý Uyên cả giận, ba lần tuyên chiếu buộc y về Trường An giải thích, nghe nói nay y đang trên đường trở về Trường An. Nếu ta là Lý Thế Dân, ta sẽ đem quân đánh về Trường An để giải mối hận, ngươi bất nhân thì ta bất nghĩa, phụ tử huynh đệ thì đã sao?”
Từ Tử Lăng thầm than, Lý Uyên làm thế chính là tự hủy trường thành, nếu Lý Thế Dân bị Ma môn hại chết, đại quân Đột Quyết sẽ lập tức phát động tấn công, triều Lý Đường sẽ nguy ngập. Gã buột miệng hỏi: “Lưu Hắc Thát tình hình như thế nào?”
Khả Đạt Chí lộ vẻ coi thường, nói: “Lý Thế Dân không còn, trách nhiệm lãnh binh phạt Lưu rơi vào tay Lý Nguyên Cát, Lý Thần Thông phụ cho y. Trước khi ta về Trường An, Lý Nguyên Cát và Lý Thần Thông cùng U Châu tổng quản Lý Nghệ hợp binh, quân số lên đến hơn năm vạn người, chặn đánh quân Lưu Hắc ở Nhiêu Dương, tuy chưa biết thắng thua nhưng Lưu Hắc Thát danh lừng Sơn Đông cho nên coi thường Lý Nguyên Cát, kẻ đánh trận nào cũng thua.”
Từ Tử Lăng ngẩn ra: “Thế lực của Lưu Hắc Thát mở rộng mau chóng đến thế sao?”
Khả Đạt Chí nói: “Lý Nguyên Cát xử tử Đậu Kiến Đức là điều thất sách nhất, có điều Lý Uyên làm ngơ, điều này khiến trăm họ Sơn Đông cực kỳ phẫn nộ, cựu bộ hạ của Đậu Kiến Đức đến hơn vạn người muốn phục thù cho chủ, máu trả bằng máu. Binh pháp chiến lược của Lưu Hắc Thát đúng là cũng rất xuất sắc, trước tiên chiếm Trương Nam, rồi phá Bá Huyện, thích sử Ngụy Châu của nhà Lý Đường là Quyền Uy cùng với thích sử Cương Châu Quá Nguyên Tường đều bị Lưu Hắc Thát chém đầu, nay thế Lưu Hắc Thát như chẻ tre, người theo về đông đảo, Từ Nguyên Lãng, kẻ đã đầu hàng nhà Đường sau khi bắt nhốt sứ của nhà Đường là Mạnh Ngạn Sư, cầm binh hưởng ứng với Lưu Hắc Thát, được phong làm Đại Hành Đài Nguyên Soái. Nếu Lưu Hắc Thát có thể chống chọi cho đến khi Thiếu soái lên miền Bắc, Trường An khó thoát khỏi sụp đổ, dù có Lý Thế Dân thì đã sao?”
Rồi y ngập ngừng nói: “Nghe đồn Lưu Hắc Thát có quan hệ khắng khít với các ngươi, có chuyện này không?”
Từ Tử Lăng đang thấy nhức đầu, sự trỗi dậy của Lưu Hắc Thát khiến thiên hạ càng thêm loạn, gã thầm than rồi gật đầu: “Đúng vậy, nhưng sau này quan hệ giữa bọn ta như thế nào, e rằng chỉ có trời mới biết.”
Khả Đạt Chí nhìn Âm Hiển Hạc, mỉm cười: “Nghe nói Âm huynh đi cùng với Tử Lăng, Âm huynh vẫn giống long tuyền, không thích nói chuyện.”
Âm Hiển Hạc gượng nhếch mép cười, tỏ vẻ thân thiện, vẫn không nói gì.
Khả Đạt Chí quay sang Từ Tử Lăng nói: “Có phải Tử Lăng sắp đến Trường An không?”
Từ Tử Lăng gượng gạo nói: “Sắp đến Trường An làm chút việc riêng, chẳng quan hệ gì với đại nghiệp của Khấu Trọng, Khả huynh có lời khuyên gì dành cho ta không?”
Khả Đạt Chí trầm giọng nói: “Chỉ có một câu, không nên ở lại Trường An lâu dài.”
Từ Tử Lăng biết mình và y tuy chưa đến nỗi có xung đột chính diện, nhưng dẫu sao cũng có lập trường đối địch, mà Khả Đạt Chí chịu nói ra câu này thật hiếm có, bởi vậy mới gật đầu.
Khả Đạt Chí nói: “Còn có một việc, Cao Lệ Vương chính thức gởi thư cho Lý Uyên, bảo rằng đệ nhất cao thủ của Cao Lệ là Dịch Kiếm đại sư Phó Dịch Lâm sẽ thay mặt Cao Lệ đến Trường An gặp Lý Uyên, thuận tiện học hỏi võ học của Trung nguyên, xem ra y có ý khiêu chiến Ninh Đạo Kỳ hoặc Tống Khuyết để lấy tiếng cho Cao Lệ, nếu y có thể thủ thắng còn có hiệu quả hơn đánh một trận.”
Từ Tử Lăng thấy không ổn, Phó Dịch Lâm từ xa đến, nào chịu bỏ qua cho gã và Khấu Trọng, vấn đề là họ không thể để uy danh của sư phụ của mẹ tổn hại, khiến họ tiến lui đều khó. Khả Đạt Chí hai mắt ánh lên vẻ khác thường, buồn bã nói: “Bọn Tú Phương sẽ cùng hắn trở về.”
Từ Tử Lăng nói: “Ta vừa mới gặp Liệt Hà.”
Khả Đạt Chí giật mình, hai mắt đầy sát cơ, trầm giọng nói: “Tên tiểu tử đó ở đâu?”
Từ Tử Lăng nói: “Hắn muốn cướp Ngũ Sắc thạch của ta cùng Hứa Khai Sơn, Tân Na Á và Đoàn Ngọc Thành che mặt đánh lén bọn ta, cho nên ta và Âm Hiển Hạc nửa đêm rời khỏi Hán Trung, gặp phải huynh, đúng là chúng ta có duyên với nhau, hoặc là số của Tống Kim Cương vẫn còn chưa tận.”
Khả Đạt Chí giật mình: “Có đúng là Hứa Khai Sơn không?”
Từ Tử Lăng nói: “Có hóa thành tro ta cũng nhận ra y, huống chi chỉ là che mặt.”
Khả Đạt Chí mỉm cười: “Phải chăng Tử Lăng đã đoạt lại Ngũ Sắc thạch từ cô ả xinh đẹp đó, nghe nói ả đánh cắp Ngũ Sắc thạch chạy ra Tái ngoại, may mà lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt, rốt cuộc Ngũ Sắc thạch cũng trở về lại với Tử Lăng.”
Từ Tử Lăng nói: “Đúng là như vậy, ta đến khách sạn ở trọ, không ngờ gặp Mỹ Diễm phu nhân cũng ở đó. Lúc đó có người của Đại Minh Tôn giáo âm thầm theo dõi, thấy ta lấy Ngũ Sắc thạch, liền thông báo cho bọn Hứa Khai Sơn, sau đó bọn chúng mới đánh lén.”
Khả Đạt Chí nói: “Đại Minh Tôn giáo nhờ có Dương Hư Ngạn se chỉ luồn kim, được Lý Uyên chấp thuận đã xây chùa lập miếu tại Trường An, nào ngờ Thạch Chi Hiên trong cơn đau đớn đã xuống tay giết chết Sa Phương và tùy tùng của y chẳng chừa một mống, bây giờ Ngũ Sắc thạch lại rơi vào tay Tử Lăng, bọn chúng đúng là xui xẻo, hay là chúng ta đến Hán Trung xem náo nhiệt, Liệt Hà là của ta, Hứa Khai Sơn là của Tử Lăng, thế nào?”
Âm Hiển Hạc trầm giọng nói: “Hứa Khai Sơn là của ta.”
Từ Tử Lăng lắc đầu: “Chúng ta không cần phân định rõ ràng như thế, Đại Minh Tôn giáo âm thầm làm nhiều chuyện thương thiên hại lý, chỉ hành vi trộm cướp cũng là tội đáng muôn chết, nếu để bọn chúng chạy về Ba Tư, không biết có bao nhiêu người lại bị hại nữa. Điều khó khăn duy nhất là Đoàn Ngọc Thành, hắn dẫu sao cũng là huynh đệ của Song Long bang, ta không nỡ thấy hắn tiếp tục chấp mê bất ngộ.”
Khả Đạt Chí hỏi: “Tử Lăng có đề nghị gì?”
Từ Tử Lăng cười khổ: “Đây là một nút thắt khó gỡ, bọn chúng quyết không chịu bỏ Ngũ Sắc thạch, sớm muộn gì cũng đuổi theo. Chao ôi!”
Khả Đạt Chí thắc mắc: “Có lúc ta cũng không hiểu đệ và Khấu Trọng, hắn bất nhân thì ta bất nghĩa, cần gì lưu luyến nữa, đệ không ra tay được, ta sẽ làm hộ, đây là thời cơ tốt nhất để nhổ cỏ tận gốc Đại Minh Tôn giáo.”
Âm Hiển Hạc lên tiếng: “Bỏ qua cơ hội này, chúng ta sẽ mãi mãi không có dịp đòi lại công bằng cho các âm hồn bị Đại Minh Tôn giáo hại chết.”
Từ Tử Lăng buồn bã nói: “Thôi được! Nhưng Đoàn Ngọc Thành vẫn chưa làm việc gì quá đáng, mong các vị tha cho hắn một lần!”
Khả Đạt Chí nói: “Để tránh có cá lọt lưới, ta và Âm huynh sẽ quan sát lúc nào có thể ra tay khiến bọn chúng trở tay không kịp.”
Nói xong cùng Âm Hiển Hạc phóng ra cửa sổ.
Chỉ còn lại Từ Tử Lăng ngồi một mình bên đống lửa, lòng gã cảm khái muôn phần, sự phân tranh của con người cứ đến như thế, sự khác biệt giữa người với người hình thành sự đối nghịch về tư tưởng và lợi ích, có cuộc phân tranh giữa các tôn giáo tín ngưỡng, lãnh thổ, chủng tộc và quốc gia khác nhau tạo thành các cuộc xung đột liên miên dưới các hình thức khác nhau, mà các nhân tố khiến các cuộc đấu tranh không bao giờ tắt, chỉ có thể nhờ vào các lực lượng để giữ cân bằng.
Gã hy vọng có thể thoát khỏi tất cả những gì khiến con người ưu phiền, ẩn cư nơi mảnh đất lành cách xa trần tục, hưởng thụ cuộc sống yên bình.
Nhưng đây cũng chỉ là ước mơ xa vời.
Từ khi gặp lại Sư Phi Huyên ở Thành Đô, lòng gã chẳng thể nào yên được, hai cuộc nói chuyện với Âm Hiển Hạc khiến gã nhận thức rằng Trung nguyên sẽ có một đại họa, mà cơ hội giải quyết đang ở phía trước mặt, bỏ qua cơ hội này thì chẳng còn cách nào.
Vì muốn đem lại hạnh phúc cho muôn dân thiên hạ, vì tình yêu của gã đối với Sư Phi Huyên, gã hạ quyết tâm phải xóa bỏ mọi khó khăn, xoay chuyển thế cục trước mặt, dẫu cho sau này có thất bại thì gã cũng đã cố gắng lắm rồi, gã không thẹn với bản thân, cũng không phụ lòng mong mỏi của Sư Phi Huyên.
Theo sự thực trước mắt, nếu gã vẫn không chịu thay đổi thái độ tích cực, Lý Thế Dân sẽ bị Lý Kiến Thành hại chết với sự đồng ý ngầm của Lý Uyên. Nếu gã chẳng hề biết gì chuyện Lương Sư Đô âm thầm vận chuyển hỏa khí, thì sẽ không thấy được sự cần thiết ở mặt này. Lý Thế Dân bắt buộc bỏ tướng sĩ trở về Trường An có nghĩa là đã tạo cơ hội cho Lý Kiến Thành, các nhánh trong Ma môn và người Đột Quyết trừ đi cái đinh trong mắt.
Lý Thế Dân sắp gặp nạn mà gã không thể làm ngơ, nhất là khi gã đã hiểu và nhận thức được thế cuộc trong thiên hạ.
Chợt gã cảm nhận có điều gì khác lạ.
Từ Tử Lăng ngừng suy nghĩ mông lung, trầm giọng quát: “Ngọc Thành đã đến đây, hãy nghe ta nói vài câu, nếu không ta bóp nát Ngũ Sắc thạch.”
o0o
Giả sử Tống Khuyết chiến bại thân vong, cuộc phân tranh trong thiên hạ được quyết định bởi sự thắng thua giữa Khấu Trọng với Lý Thế Dân, mà điểm mấu chốt là ai có thể giành được quyền khống chế Lạc Dương.
Cạm bẫy ở Giang Đô chỉ là chuyện sớm muộn, Lý Tử Thông bại vong, Trầm Pháp Hưng khó tự giữ mình, lúc đó Phụ Công Hựu chỉ còn có nước chờ chết, quyền khống chế Trường An sẽ rời vào tay Khấu Trọng gã, Tiêu Tiễn thế cùng đành chịu lép, khó làm được gì nữa.
Trong tình thế này, Tống Trí càng một lòng kềm chế Lâm Sĩ Hồng, khiến y không thể động đậy.
Gã không cần phí sức tấn công Tiêu Tiễn hoặc Lâm Sĩ Hồng, chỉ dựa vào Đỗ Phục Uy thì có thể giữ vững miền Nam, sau đó tập trung binh lực, khi thời cơ chín mùi sẽ chia đường tiến lên phía Bắc, lập lại sách lược năm xưa Lý Thế Dân đánh Lạc Dương của Vương Thế Sung, trước tiên hạ dần những thành trì bên ngoài Lạc Dương, phong tỏa đường thủy, chặt đường giao thông thủy lục giữa Trường An với Lạc Dương, cô lập Lạc Dương, Lý Thế Dân giỏi thủ, Khấu Trọng gã giỏi công.
Trải qua cuộc chiến ở Lạc Dương, gã đã hiểu thấu kình địch trên chiến trường này.
Bất luận là cuộc chiến Thái Nguyên, cuộc chiến Bách Bích hoặc cuộc chiến Lạc Thủy, cuộc chiến Hổ Lao, Lý Thế Dân đều dùng sách lược hậu phát chế nhân, khiến y giữ được uy danh đánh mãi không bại. Y chưa bao giờ đánh trận mà chưa chắc chắn, giỏi tạo thời cơ, lấy khỏe đợi mệt, đợi cho kẻ địch sức cùng lực kiệt, sĩ khí xuống thấp mới tấn công.
Trong cuộc đấu tranh với Lý Thế Dân, Khấu Trọng gã không ngừng phạm sai lầm, cũng từ đó không ngừng học tập, cho đến đêm nay gã hoàn toàn nắm được chiến lược “Đánh trước không thể thắng, đợi địch sẽ thắng”, còn gã dùng chiến lược Huyền Giáp tinh binh xông trận, phá trận, loạn trận, hai quân chưa đánh, trước tiên đã phá đường lương thực của địch và truy cùng đuổi tận.
Sai lầm của Lý Thế Dân là bỏ qua cơ hội giết chết mình ở Lạc Thủy, đó là sai lầm lớn nhất trong cuộc đời quân sự của y.
Tuyết dần ngừng rơi, cảnh vật rõ ràng sáng sủa hơn cũng giống như cõi lòng Khấu Trọng bây giờ.
Chưa có lúc nào gã cảm thấy nắm chắc phần thắng như bây giờ.
o0o
Đoàn Ngọc Thành xuất hiện ở ngoài cửa, bỏ nón xuống, lộ ra bộ mặt anh tuấn nhưng mệt mỏi, rồi bước sải vào trong quán, đến bên cạnh bếp lửa.
Từ Tử Lăng chậm rãi nói: “Ngồi xuống!”
Đoàn Ngọc Thành hơi do dự, rồi vẫn từ từ ngồi xếp bằng xuống, trầm giọng nói: “Chúng ta còn có gì để nói nữa?”
Từ Tử Lăng bình tĩnh nói: “Ta không hiểu tại sao hiểu biết của ta về quí giáo và cách nhìn của Ngọc Thành khác biệt quá lớn như vậy, nhưng đối với ta, Đại Minh Tôn giáo của huynh chỉ là một nhóm người cắm lá cờ tôn giáo, bên trong âm thầm làm toàn chuyện xấu xa, không thể thay thế cho chính giáo ở Ba Tư. Giả sử Ngọc Thành có thể thuyết phục ta chuyện trộm cướp và quí giáo chẳng có liên quan gì với nhau, An Lạc Tu án cũng chẳng có liên quan gì với Hứa Khai Sơn, ta sẽ lập tức hiến dâng Ngũ Sắc thạch.”
Đoàn Ngọc Thành lúc đầu giận dữ, nhưng nghe được một nửa thì nhíu mày, lắc đầu: “Ta cũng không biết huynh nói gì.”
Từ Tử Lăng chợt quát: “Không ai có thể đến gần, nếu không ta lập tức bóp nát Ngũ Sắc thạch.”
Rồi gã đưa mắt nhìn Đoàn Ngọc Thành, tiếp tục nói: “Hãy nói rõ cho ta biết, Từ Tử Lăng này có phải là kẻ nói dối hay không!”
Đoàn Ngọc Thành ngẩn ra trong chốc lát rồi lắc đầu: “Huynh không phải là kẻ thích nói dối!”
Từ Tử Lăng nói: “Vậy ta sẽ nói cho huynh biết, Đại Long Đầu của Trị Thủy Bang Vô Hoa Giả là người của Đại Minh Tôn giáo, đây là chuyện có thể chứng thực, tại sao người của quí giáo phải giấu huynh. Kẻ đứng đầu bọn trộm cướp là Cung Kỳ, chắc huynh cũng biết Cung Kỳ, biết hắn là người của các người. Từ Tử Lăng này đã nói hết lời. Nếu huynh còn chấp mê bất ngộ thì hãy nhờ cây kiếm mà lấy lại Ngũ Sắc thạch đi!”
Đoàn Ngọc Thành trừng mắt nhìn gã, chẳng nói gì.
Từ Tử Lăng biết y lúc nào cũng có thể rút kiếm, gã chép miệng: “Hơn ai hết, huynh nên hiểu ta không phải là hạng tùy tiện vu oan giá họa cho người khác, ta càng không phải vì sợ bất cứ ai mà bịa ra chuyện này. Kẻ nào làm chuyện bất nghĩa sẽ tự chôn thây, chỉ cần Đại Tôn của huynh đúng là Hứa Khai Sơn thì có thể chứng thực những điều ta nói không phải dối trá. Hắn là chủ mưu của An Lạc Tu án, chuyện này huynh có thể hỏi lại Bá Vương Đỗ Hưng, Đỗ Hưng và Hứa Khai Sơn xưa nay quan hệ khắng khít, tình như thủ túc.”
Đoàn Ngọc Thành hơi ngạc nhiên, sát khí giảm bớt, rõ ràng Từ Tử Lăng đã nói đúng.
Từ Tử Lăng cười ha hả, quát lớn: “Đại Tôn, nếu ông bỏ khăn che mặt trùm đầu ra mà không phải là Hứa Khai Sơn tôi đã quen biết, tôi sẽ lập tức tặng Ngũ Sắc thạch cho ông mà chẳng cần điều kiện gì.”
Tiếng gió nổi lên, Hứa Khai Sơn lướt đến cửa, trầm giọng nói: “Từ Tử Lăng toàn nói những lời vớ vẩn, Ngọc Thành sẽ không bị dao động bởi những lời nói dối của ngươi đâu.” Rồi lại ngó quanh quất, nói: “Bằng hữu của ngươi đi đâu rồi?”
Từ Tử Lăng nhìn Đoàn Ngọc Thành chằm chặp, trầm giọng nói: “Là ác hay thiện chỉ trong một ý niệm của Ngọc Thành.”
Đoàn Ngọc Thành đưa mắt nhìn bếp lửa, khẽ nói: “Dám hỏi Đại Tôn, thổ phỉ có phải là người của chúng ta không?”
Hứa Khai Sơn sững người, cả giận nói: “Lẽ nào Ngọc Thành ngươi đã bị hắn xúi giục? Sao dám nói ra những lời đại nghịch bất đạo như vậy.”
Từ Tử Lăng thấy hơi an ủi, dẫu sao Đoàn Ngọc Thành cũng là người có bản tính thiện lương, đã bắt đầu nghi ngờ Hứa Khai Sơn.
Tân Na Á xuất hiện bên cạnh Hứa Khai Sơn, rít lên: “Ngọc Thành, có chuyện gì đợi giải quyết hắn rồi tính tiếp.”
Từ Tử Lăng mỉm cười nói thẳng: “Ngươi dám phủ nhận Thượng Quan Long là người của các ngươi không?”
Tân Na Á sững người rồi nói: “Ngươi chớ nói càn.”
Lần này đến phiên Đoàn Ngọc Thành giật mình, y đã nghi ngờ từ lâu, vả lại y chẳng phải là người ngốc nghếch, lại thêm y rất hiểu con người của Tân Na Á, đương nhiên có thể cảm nhận được Tân Na Á đang dối lòng.
Từ Tử Lăng không để Hứa Khai Sơn hoặc Tân Na Á có cơ hội lên tiếng, gã cười nói: “Xin hỏi Liệt huynh có ở bên ngoài không? Tại sao không xuất hiện chào hỏi vài câu.”
Tiếng gió bên ngoài vù vù, không có phản ứng gì.
Khả Đạt Chí hừ lạnh một tiếng, quát: “Tên tiểu tử này đã chạy mất rồi!”
Hứa Khai Sơn và Tân Na Á nghe thế đưa mắt nhìn nhau, lấy làm thất kinh vì Liệt Hà đã bỏ chạy, đồng thời cũng là vì sự xuất hiện của Khả Đạt Chí.
Đoàn Ngọc Thành chậm rãi đứng dậy.
Từ Tử Lăng nhíu mày, hoàn toàn không đoán được Đoàn Ngọc Thành sẽ đứng về phía nào. Giọng nói của Khả Đạt Chí lại vang lên sau lưng Hứa Khai Sơn: “Không xong rồi.”
Thì ra Liệt Hà phát hiện Khả Đạt Chí, biết đại thế đã mất, lại thấy Đoàn Ngọc Thành dao động, hơn nữa Đại Minh Tôn giáo đã như mặt trời ngã về Tây, không thể làm được gì nữa nên mới bỏ Hứa Khai Sơn mà đi.
Từ Tử Lăng đứng phắt dậy, lạnh lùng nói: “Là địch hay bạn, Ngọc Thành nói với ta một câu.”
Ánh mắt của ba người đứng ngoài đều nhìn về phía Đoàn Ngọc Thành, chờ đợi câu trả lời của y.
- o O o -
HỒI 702
Ác Quán Mãn Doanh
Đoàn Ngọc Thành chợt xoay người, bước xăm xăm ra cổng.
Hứa Khai Sơn hai mắt lộ sát cơ, Từ Tử Lăng thong dong tiến về phía trước, ngầm nắm chặt thủ ấn, lập tức khóa chặt Hứa Khai Sơn, nếu y chỉ hơi nhúc nhích, gã sẽ sử dụng đòn sấm sét đánh trọng thương y trước khi y đả thương Đoàn Ngọc Thành.
Hứa Khai Sơn lập tức cảnh giác, liền vận công đối kháng.
Đoàn Ngọc Thành nhìn thẳng vào đôi mắt sâu thẳm của Tân Na Á, sau đó thong thả lật tấm khăn trùm đầu lộ ra hoa dung quyến rũ của nàng.
Khuôn mặt Tân Na Á tái nhợt không có một chút huyết sắc, đôi làn môi mấp máy tựa như muốn nói gì đấy nhưng lại thôi.
Từ Tử Lăng thầm than, Tân Na Á nhiều lần che giấu chân tướng với Đoàn Ngọc Thành, lừa gạt ly gián hắn, nhưng bây giờ thấy tình cảm của nàng đối với Đoàn Ngọc Thành, rõ ràng là nàng đang yêu, không còn nghi ngờ gì nữa. Chính vì sợ Đoàn Ngọc Thành từ yêu chuyển sang hận, lúc này trong tâm nàng sanh đại lọan, không còn tự chủ, mất đi vẻ lạnh lùng, kiêu ngạo vẻ bình thường.
Hành vi bất nghĩa đương nhiên là một nguyên nhân khác khiến nàng mất bình tĩnh.
Đoàn Ngọc Thành khẽ hỏi: “Đừng nói dối! Có phải lời của Từ bang chủ nói là thật không?”
Tân Na Á hai mắt tuôn đôi dòng lệ, hoang mang lắc đầu, nghẹn ngào nói: “Ta không biết!”
Đoàn Ngọc Thành giật nảy mình, quay lại, vái dài Từ Tử Lăng rồi sau đó đứng thẳng lên nói: “Ngọc Thành sai rồi, không còn mặt mũi gì gặp Thiếu soái và các huynh đệ khác.”
Nói xong xoay người đi băng qua giữa Hứa Khai Sơn và Tân Na Á, những bước đi vững chắc với quyết tâm một đi không trở lại, bước thẳng ra đường.
Khi hắn sắp sửa biến mất trong tầm mắt của Từ Tử Lăng, Tân Na Á kêu lên một tiếng đau thương, tưởng như Hứa Khai Sơn không có ở đó, chuyển mình đuổi theo hướng Đọan Ngọc Thành.
Khả Đạt Chí và Âm Hiển Hạc xuất hiện sau Hứa Khai Sơn hai trượng như hai bóng ma, chặn đường rút lui của hắn.
Ánh mắt Từ Tử Lăng chạm với ánh mắt của Hứa Khai Sơn, gã lạnh lùng bảo: “Ngày hôm nay bị mọi người phản lại, người thân chia lìa, Hứa huynh có cảm tưởng gì?”
Hứa Khai Sơn ngửa mặt lên trời cười lớn, tấm khăn che đầu rách lộ ra bộ mặt thật, giơ ngón tay cái lên nói: “Hay lắm! Ta thừa nhận đêm nay đã thất bại hoàn toàn, bất quá các ngươi muốn giữa ta lại e rằng chưa đủ sức đâu, chỉ cần ta hôm nay không chết thì có ngày đội đất trở lại.”
Nói xong câu cuối cùng đã lao vọt về phía trước, đấm thẳng một quyền vào mặt Từ Tử Lăng, luồng kình phong cùng với gió tuyết cuộn vào trong quán, nhất thời hàn khí thật lạnh càng làm cho đòn đánh lăng lệ và uy mãnh.
Từ Tử Lăng cảm thấy quyền kình của hắn trở nên như một cây cột bằng khí bổ thẳng tới.
Quyền này của Hứa Khai Sơn tòan lực xuất thủ, trong đòn ngưng tụ công lực cả đời của y, mới nhìn vẻ đơn giản trực tiếp, nhưng trong đó ẩn tàng vô số biến hoá theo sau, hiển lộ thần uy của kỳ công dị pháp Ngự Tận Vạn Pháp Căn Nguyên Trí Kinh.
Với khả năng của Từ Tử Lăng mà cũng không dám tiếp thẳng đòn này, hai tay gã ôm lại, phát ra một luồng chân khí vòng tròn, bao lấy quyền kình của đối phương, lúc này gã nhích người sang trái nửa bước, vòng khí hoàn cuộn chặt quyền kình của đối phương như một sợi dây mềm mại vô hình rồi dẫn sang bên phải.
Hứa Khai Sơn vốn muốn buộc Từ Tử Lăng tiếp chiêu này, rồi thoát ra cửa, sau đó sẽ phá vỡ nóc nhà, đột phá vòng vây mà đi. Nào ngờ chiêu thức ứng phó của Từ Tử Lăng ngoài sự dự liệu của hắn, hắn vội vàng triệt bỏ khí công, thâu mình thối lui, đang định phóng người vọt lên, Từ Tử Lăng không thay đổi chiêu thức, vòng khí chuyển thành Bảo Bình khí, nhắm thẳng vào ngực hắn đánh tới, nếu y phóng vọt người lên, đảm bảo sẽ trúng chiêu của Từ Tử Lăng, dù có thể đỡ đòn nhưng làm sao tránh được Khả Đạt Chí và Âm Hiển Hạc lao ra cửa đuổi theo.
Hứa Khai Sơn hiểu ra rằng Thủ Ấn Chân Ngôn đại pháp của Từ Tử Lăng đã đạt đến cảnh giới thu phát tùy tâm, tùy ý biến hóa, nhưng hối hận đã muộn, dẫu sao y cũng là một bậc đại tông sư, y không né tránh, song chưởng đẩy mạnh ra, đánh thẳng vào luồng Bảo Bình khí công chứa đựng chân khí tập trung của Từ Tử Lăng.
Từ Tử Lăng đọc chân ngôn.
“Lâm!”
Hứa Khai Sơn rùng mình, “bùm” một tiếng vang lên, hai luồng khí công chạm vào nhau, khí kình lan tỏa, hai người bị chấn động, “phốc, phốc, phốc” hắn lùi lại ba bước.
Từ Tử Lăng chỉ thối lui một bước, kình lưu cuồn cuộn trong quán.
“Đuổi theo!”
Khả Đạt Chí và Âm Hiển Hạc một đao một kiếm đồng thời công kích, hai người biết hắn có ma công mạnh mẽ, nếu chỉ hơi sơ hở một chút thì hắn sẽ đột phá vòng vây mà đi, cho nên cả hai đều dốc hết toàn lực, không chút lưu tình.
Từ Tử Lăng cách không điểm ra một chỉ, đánh vào nơi yếu hại trước ngực của hắn.
Hứa Khai Sơn gầm lớn một tiếng, không khí xung quanh mình hắn như biến thành bức tường đồng vách sắt, chặn toàn bộ những chiêu số hiểm hóc của ba đại cao thủ từ ba góc đánh tới với những chiêu thế mạnh mẽ.
Nhưng dẫu cho là những cao thủ như Tất Huyền, Ninh Đạo Kỳ trong tình huống này cũng bị lâm nguy, huống chi là một Hứa Khai Sơn đã bị nội thương.
Tiếng nổ vang lên.
Bức tường khí của Hứa Khai Sơn vỡ ra từng mảnh, nhưng đã thành công hóa giải một chỉ ấy của Từ Tử Lăng, đánh bật đao của Khả Đạt Chí, kiếm của Âm Hiển Hạc.
“Keng!”
Khả Đạt Chí bị đẩy lùi sang bên trái tra đao vào vỏ, hai mắt tỏa sáng nhìn Hứa Khai Sơn chằm chặp.
Âm Hiển Hạc giơ ngang kiếm đứng bên phải, hai mắt hiện ra thần sắc bi phẫn rồi trở nên hiền hòa. Rồi càng lúc càng mờ.
Trong khoảnh khắc này Từ Tử Lăng đối diện với Hứa Khai Sơn.
Vẻ mặt Hứa Khai Sơn lầm lì, y đứng vững tựa như núi. Gió tuyết không ngừng thổi vào cửa sổ, bốn người trong quán đứng yên hệt như bốn pho tượng, thời gian như ngừng lặng.
Tiếng ngâm nhỏ phát ra từ miệng của Hứa Khai Sơn, phá vỡ sự tĩnh lặng trong quán, chỉ nghe y niệm rằng: “Sơ tế vị hữu thiên địa, đãn thù minh ám, ám ký xâm minh, tư tình trì trục. Minh lai nhập ám, ủy chất thôi di. Thánh Giáo cố nhiên, tức vọng vi chân, thục cảm văn mệnh, cầu giải thoát duyên. Giáo hóa sự tất, chân vong quy căn, minh ký quy vu Đại Minh ám diệc quy vu tích ám. Nhị tông các phục, lưỡng giả giao quy.”
Niệm xong bật cười ha hả, trở tay vỗ một chưởng lên trán đánh bốp một tiếng, tiếng xương cốt vỡ vụn, sau đó liền ngã xuống, “rầm” một tiếng vang tại đương trường, vậy là nhất đại ma quân đã tự sát lìa đời.
o0o
Từ Tử Lăng, Khả Đạt Chí và Âm Hiển Hạc chôn thây Hứa Khai Sơn trong rừng tuyết, tuyết vẫn không ngừng rơi, chỉ trong chớp mắt đã phủ trăng ngôi mộ, chẳng còn chút dấu vết gì.
Khả Đạt Chí nói: “Theo lệ của chúng ta, lẽ ra phải phơi xác hắn ngoài đồng hoang làm mồi cho sói hoang. Cả đời hắn làm toàn chuyện xấu xa, chết đi ít nhất cũng làm việc có ích cho bầy sói!”
Âm Hiển Hạc trầm giọng nói: “Chúng ta đi thôi!”
Ba người xoay lưng bỏ đi, bước trên con đường cái quan tiến về Trường An, đạp tuyết đi tới.
Khả Đạt Chí nói: “Vào thành có cần ta giúp đỡ không? Bây giờ thành môn Trường An đang rất căng thẳng.”
Từ Tử Lăng lắc đầu nói: “Cứ để bọn ta tự nghĩ cách, tốt nhất đừng để người khác biết bọn ta có quan hệ gì với ngươi, điều đó đối với ngươi chỉ có hại thôi.”
Khả Đạt Chí im lặng hồi lâu, thở dài: “Nếu có thể, ta mong Tử Lăng hủy bỏ chuyến đi đến Trường An.”
Từ Tử Lăng trong lòng chấn động, chắc chắn Khả Đạt Chí là kẻ chủ chốt đối phó với Lý Thế Dân, cho nên biết toàn bộ kế hoạch ám sát Lý Thế Dân, bởi vậy không muốn gã đến Trường An. Không thể tưởng được sắp phải trở thành đối thủ của Khả Đạt Chí, trong lòng gã thấy áy náy, nhưng không có sự lựa chọn nào khác.
Khả Đạt Chí đương nhiên sẽ không hoài nghi hắn trong tình huống Khấu Trọng và Lý Thế Dân không đội trời chung mà trong lòng vẫn có ý giúp Lý Thế Dân, nhưng gã lại không đành giấu ý nghĩ thật sự của mình, đối xử như thế với Khả Đạt Chí khiến gã thấy áy náy, nói không ra lời.
Lánh qua một bên, Âm Hiển Hạc nói: “Tử Lăng đến Trường An với ta vì muốn dò hỏi tung tích của xá muội.”
Khả Đạt Chí nhẹ nhõm nói: “Sao không nói sớm, để ta nghi thần nghi quỷ.”
Từ Tử Lăng càng thấy bất an, lại chẳng biết nói gì nữa.
Khả Đạt Chí mỉm cười: “Mong Tử Lăng gửi lời thăm của ta đến Thiếu soái, nói cho hắn hay rằng cho đến giờ phút này Khả Đạt Chí vẫn coi hắn là bằng hữu tốt nhất. Khả Đạt Chí phải đi trước một bước, hy vọng tại Trường An không đụng đầu cùng Tử Lăng, bởi vì không biết lúc đó mọi người là địch hay bạn. Ta đi đây!”
Nói xong không quay đầu lại lướt thẳng về phía trước, khuất dạng trong gió tuyết.
o0o
Mặt trời dần khuất núi, để lại ánh nắng yếu ớt trong trời chiều, Tống Khuyết và Khấu Trọng đứng trước sơn môn của Tịnh Niệm Thiền Viện.
Tuyết đã ngừng rơi từ khi họ bỏ bè lên bộ, sương trắng phủ khắp mặt đất hệt như nối trời và đất lại với nhau, cây cối bên đường như mặc áo tuyết, dưới đất tuyết lên đến tận hông, khiến người bình thường nửa bước cũng khó đi.
Khấu Trọng đưa mắt nhìn quanh, rừng tuyết mênh mông, khắp nơi đều là băng tuyết, ánh nắng chiều như lấp lánh trong mắt gã, biến hóa vô cùng, đẹp đến khiến người ta phải nín thở.
Từ khi tĩnh tọa tỉnh dậy tới giờ, Tống Khuyết chưa nói qua nửa lời, thần thái xem ra rất nhàn nhã, nhưng Khấu Trọng thì vẫn hoài nghi ông vẫn còn nhớ đến Phàn Thanh Huệ không ngớt, không khỏi vì ông lo lắng phi thường.
Tống Khuyết bắt tay sau lưng đi qua lớp cửa thứ nhất có tấm bảng đề “Tịnh Niệm Thiền Viện” bước lên bậc đá dẫn lên đỉnh núi cheo leo.
“Boong! Boong! Boong!”
Tiếng chuông du dương từ trên núi vọng đến, tựa như biết rằng Tống Khuyết đại giá quang lâm.
Khấu Trọng đi theo sau Tống Khuyết, ngửa cổ nhìn tháp Phật và lầu chuông ẩn hiện trên núi tuyết, liền nhớ đến tình cảnh năm xưa cùng Từ Tử Lăng và Bạt Phong Hàn đến lấy cắp Hòa Thị Bích, cảnh tượng ấy vẫn in sâu trong lòng gã như vừa mới xảy ra, thế mà nay việc người việc đời đã thay đổi mấy phen. Lúc ấy tranh đấu ngươi sống ta chết, thiên hạ ngắm nghía những cái mà Vương Thế Sung cùng Lý Mật đã cùng dựng nên.
Lớp cửa thứ hai hiện ra trước mắt.
Tống Khuyết ngừng bước, đọc đôi liễn khắc trên hai cây trụ trước phật đường: “Trống chiều chuông sớm đánh thức khách danh lợi thế gian, Tiếng kinh hiệu Phật gọi người mê trong biển khổ quay về. Hay lắm! Hay lắm! Nhưng thân đã xa vào biển khổ, người ngòai cuộc cũng như người trong cuộc ai có thể may mắn tránh khỏi? Đã là chúng sinh thì đều khổ như nhau!”
Trong lòng Khấu Trọng chấn động, dường như Tống Khuyết đang có tâm sự, là ông vẫn chưa thóat khỏi biển khổ, vẫn còn đau lòng vì Phàn Thanh Huệ, bởi vậy trận chiến này thắng hay thua không nói cũng biết.
Lần đầu gã cảm thấy bản thân mình phát sinh cảm giác không ưa Phàn Thanh Huệ, việc này cũng giống như nếu Sư Phi Huyên bảo Từ Tử Lăng đi quyết chiến với người khác, nỗi khó chịu trong lòng gã không khó tưởng tượng.
Tống Khuyết lại bước lên bậc đá, đợi Khấu Trọng đuổi đến bên mình, ông vừa đi vừa mỉm cười nói: “Ta đã một phen khổ công nghiên cứu tư tưởng của hai nhà Phật Đạo, cảnh giới tối cao nhất của Phật môn là niết bàn, của Đạo Gia là bạch nhật phi thăng. Phật môn trọng tâm, lập địa thành Phật; Đạo gia luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hoàn hư, luyện thư hợp đạo, xem thân mình là chiếc bè vượt qua biển khổ, bị những kẻ không hiểu ý nghĩa này trong Phật môn mỉa mai là ma giữ xác. Trên thực tế bạch nhật phi thăng trong Đạo gia và tích thân thành Phật của Phật môn tựa như khác nhau mà lại là một. Trong quá trình tu đạo của Phật môn, tâm và thân đều quan trọng, Ninh Đạo Kỳ tuy là đại diện của Đạo gia, nhưng thực sự đã nắm được sở trường của hai nhà Phật Đạo cho nên Tán thủ bát quái của ông ta xem trọng đạo ý thiền cảnh, vượt hơn hẳn các loại võ học ở cõi tục.”
Khấu Trọng đã từng giao thủ với Ninh Đạo Kỳ, gật đầu đồng ý nói: “Chữ nào của Phiệt chủ cũng chứa huyền cơ, năm xưa tiểu tử đã từng giao phong với ông ta, cả quá trình cứ như trong một cơn mộng, nơi nào cũng gặp được đạo ý thiền cảnh, thật sự rất tuyệt vời.”
Tống Khuyết đến khoảng sân rộng trước thiền viện, tòa đại điện như dát bạc đứng sừng sững trước mắt, chẳng thấy bóng người, tuyết phủ kín mặt đất, nhưng chẳng có dấu chân. Ông từ tốn nói: “Đối với Ninh Đạo Kỳ nhục thân rất quan trọng, là bằng chứng duy nhất chứng minh ông ta thành tiên thành Phật, nếu nhục thân bị phá, quá trình luân hồi chuyển thế phải bắt đầu lại từ đầu, cho nên trận chiến này ông ta nhất định sẽ dốc hết toàn lực, không hề do dự. Tiểu Trọng có hiểu ý ta không?”
Khấu Trọng cười khổ nói: “Tiểu tử đã hiểu!”
Tống Khuyết điềm đạm nói: “Cho nên chúng ta một khi động thủ giao phong, chỉ khi nào một bên chết đi thì cuộc chiến mới kết thúc, hơn nữa cần phải trong lòng không được lo nghĩ gì, phải dồn đối phương vào chỗ chết. Nhưng một lòng muốn giết chết đối phương thật sự là điều tệ hại trong võ đạo, cần phải có ý niệm vô tử vô sinh, vô thắng vô bại, đó là cảnh giới cần phải đạt tới, tột đỉnh của đạo, các tình huống trong đó vi diệu lạ thường, dẫu cho ta hay Ninh Đạo Kỳ cũng khó đoán được tình hình thực sự.”
Khấu Trọng ngạc nhiên nói: “Như thế há chẳng phải quá mâu thuẫn hay sao?”
Tống Khuyết ngửa mặt cười rằng: “Có mâu thuẫn gì đâu, chả lẽ ngươi quên rằng ngoài xá đao còn có vật gì khác sao? Nếu có sinh tử thắng bại, trong lòng có vật, chi bằng ta lập tức xuống núi để khỏi mất mặt.”
Khấu Trọng giật mình nói: “Tiểu tử hiểu rồi!”
Ngay lúc này, hắn hiểu rõ không còn nghi ngờ gì nữa, cảm nhận được Tống Khuyết đã vứt bỏ hết tất cả để lập địa thành Phật, đi vào cõi xá đao, vào cảnh giới chí cao.
Tống Khuyết vui vẻ nói: “Bây giờ Thiếu soái đã nhận được hết chân truyền Thiên Đao tâm pháp của ta, ta sẽ nói ra chỗ Thiếu soái chưa bằng ta, sau khi đắc đao thì phải vong đao, đó chính là Tống Khuyết của bây giờ.”
Khấu Trọng hỏi lại: “Vong đao?”
Tống Khuyết cao giọng nói: “Tống Khuyết ở đây, mời Đạo Kỳ huynh chỉ giáo!”
Thanh âm truyền ra xa, chấn động đến từng ngóc ngách của tòa sơn tự.
o0o
Gió lạnh thổi vù vù, thành Trường An hùng vĩ chỉ còn lờ mờ trong gió tuyết cuồng nộ, tuyết rơi xuống như hàng ngàn hàng vạn cây kim châm, phương hướng vô định, lướt theo gió rơi về bên tây, lúc rơi về bên đông, khiến người ta khó mở mắt.
Từ Tử Lăng và Âm Hiển Hạc đứng trên ngọn núi, nhìn Trường An ở xa xa, mỗi người đều theo đuổi ý nghĩ riêng.
Chuyện đầu tiên sau khi vào thành đương nhiên là đi tìm Kỷ Thiến để hỏi rõ ràng, tiếp theo Từ Tử Lăng sẽ gặp mặt Lý Thế Dân thông qua Lý Tịnh, hậu quả ra sao thì không thể nào đoán được.
Đã đến nước này, gã cũng không biết Lý Thế Dân có còn xem gã là bạn hay không, liệu hắn có tin tưởng vào lời gã nói hoặc nghe theo lời khuyên của hắn hay không.
Giọng nói của Âm Hiển Hạc vang lên bên tai gã, tạm át hẳn tiếng gió tuyết rít gào: “Trận gió tuyết lớn này có lợi cho chúng ta lẻn vào Trường An, chúng ta sẽ vào thành bằng cách nào?”
Từ Tử Lăng nói: “Có gió tuyết hay không cũng chẳng sao, bởi vì chúng ta sẽ vào thành bằng địa đạo.”
Âm Hiển Hạc ngạc nhiên, Từ Tử Lăng tuy đã từng nhắc đến con đường bí mật vào thành, nhưng chưa hề tiết lộ chi tiết.
Từ Tử Lăng giải thích: “Dương Công Bảo Khố chẳng những trong kho có kho, mà còn có thật và giả, kho giả đã bị Lý Uyên phát hiện, kho thật chỉ có chúng ta biết, địa đạo nối liền với kho thật có thể dẫn ra ngoài thành, nằm trong chỗ um tùm của khu rừng tuyết sau lưng chúng ta đây.”
Âm Hiển Hạc giật mình nói: “Chả lẽ các người đi vòng Hán Trung, thì ra là muốn tránh Lạc Dương đánh thẳng đến Trường An.”, rồi cảm động nói: “Tử Lăng xem ta là hảo bằng hữu, chỉ vì muốn ta vào thành an toàn mà không ngại tiết lộ bí mật to lớn bằng trời này.”
Từ Tử Lăng mỉm cười: “Chúng ta đều là huynh đệ, lẽ nào không tin ngươi, huống chi tác dụng của bảo khố đã không còn, Khấu Trọng muốn được thiên hạ thì trước tiên phải đạp bằng phương Nam, đánh thẳng xuống Lạc Dương, làm gì đã có cơ hội nhập quan.”
Âm Hiển Hạc nói: “Tử Lăng đang đợi gì thế?”
Từ Tử Lăng lãnh đạm nói: “Ta đang đợi thời khắc Kỷ Thiến đến đổ trường, lúc đó chỉ cần chúng ta đi lòng vòng Minh Đường Oa, hoặc Lục Phúc đổ quán là sẽ gặp được nàng.”
Âm Hiển Hạc nói: “Thì ra nàng là người mê cờ bạc.”
Từ Tử Lăng lắc đầu: “Nàng mê cờ bạc là vì đối phó với Trì Sanh Xuân, đến bây giờ ta vẫn không hiểu làm sao nàng biết Trì Sanh Xuân là người của Hương gia, đợi lát nữa ta sẽ hỏi rõ ràng.”
Âm Hiển Hạc nói: “Tử Lăng định xuất hiện ở Trường An với thân phận gì?”
Từ Tử Lăng nói: “Ta định dùng thân phận thật, ngươi cảm thấy thế nào? Dẫu sao ở Trường An cũng ít người biết thân phận thật của ta. Nhưng muốn Kỷ Thiến tin lời chúng ta thật không dễ. Có thể vì trải nghiệm đáng sợ của nàng khi còn nhỏ, nàng rất e dè người lạ.”
Âm Hiển Hạc nói: “Đối với nàng, Tử Lăng là người lạ sao?”
Từ Tử Lăng cười khổ: “Cũng rất khó nói! Nhưng phải xem tâm trạng của nàng.”
Âm Hiển Hạc lo lắng nói: “Vậy thì làm sao?”
Từ Tử Lăng nói: “Trước tiên chúng ta phải tìm cách cho nàng ngồi xuống nói chuyện, sau đó đi thẳng vào đề, xem thử phản ứng của nàng rồi tùy cơ ứng biến. Ôi! Không giấu gì Hiển Hạc, đây là cách tốt nhất mà ta có thể nghĩ ra.”
Âm Hiển Hạc hai mắt lộ vẻ kiên định, nói: “Cứ thế mà làm!”
Từ Tử Lăng lo ngại nói: “Không còn sợ sao?”
Âm Hiển Hạc lắc đầu, nói như chém đinh chặt sắt: “Đúng thế! Trong lòng ta không còn sợ chút gì cả, dù điều nàng nói ra có đáng sợ đến mức nào, ta cũng sẽ dũng cảm đối mặt, huống chi được mất vẫn chưa biết kia mà.”
Từ Tử Lăng nói: “Có lẽ chuyện treo thưởng tìm người đã có hiệu quả, Tiểu Kỷ đang đợi huynh trở về Bành Lương đoàn tụ.”
Âm Hiển Hạc thẫn thờ nói: “Bây giờ ta chỉ nghĩ đến Kỷ Thiến.”
Từ Tử Lăng vỗ vai hắn: “Vậy chúng ta lập tức đi gặp Kỷ Thiến.”
Hai người xoay lưng lẩn vào rừng tuyết.
- o O o -