Hồi 683 - 684
Tác giả: Huỳnh Dị
Chiếc thuyền buồm xuôi dòng về phía đông.
Từ Tử Lăng và Hầu Hi Bạch ở lại đuôi thuyền giám sát động tĩnh, xem có chiếc thuyền khả nghi nào bám theo không. Địch nhân vốn xuất thân từ Hương gia, bang hội danh trấn thiên hạ trong việc thu thập tình báo, nên không thể không đề phòng.
Lái thuyền chính là thuộc hạ của một bang hội bằng hữu với Lôi Cửu Chỉ, y đối với con nước Trường Giang thuộc làu như lòng bàn tay.
Lôi Cửu Chỉ đến bên cạnh Từ Tử Lăng, nói với vẻ hưng phấn: “Chuyến đi này thực sự là điểm ngoặt quan trọng trong ‘diệt Hương đại kế’ của chúng ta, phải nói là vô cùng tuyệt diệu.”
Hầu Hi Bạch cười hỏi: “Tuyệt diệu như thế nào?”
Lôi Cửu Chỉ hớn hở: “Hương gia khẩn trương đến như thế, phải phát động toàn bộ nhân lực, vật lực của mình trong cả nước để tìm cho ra tung tích của đôi vợ chồng Hàn Trạch Nam, bên trong phải có nguyên nhân chứ.”
Từ Tử Lăng và Hầu Hi Bạch nghe qua, tinh thần liền chấn động.
Lôi Cửu Chỉ nói tiếp: “Khi Hàn Trạch Nam biết được Bạch Tiểu Thường đã có mang sáu tháng, bèn quyết định cùng nhau bỏ trốn. Hắn sắp đặt cẩn thận, mang theo cả lô sổ sách giấy tờ trọng yếu, kể cả danh sách thanh lâu đổ trường của Hương gia trong khắp các xứ, tên tuổi và cả chi tiết lương bổng của đầu lĩnh tại từng địa phương. Có được số sổ sách ấy thì xem như toàn bộ vương quốc tội ác của Hương gia sẽ nằm gọn trong tay chúng ta. Phu phụ Hàn Trạch Nam trốn khỏi Hương gia, mang số sổ sách giấu vào một nơi bí mật để làm bùa hộ mạng sau này, rồi chạy đến một tiểu trấn ở Ba Thục là nơi mà thế lực Hương gia chẳng có bao nhiêu. Bọn họ chọn nơi ẩn cư ở Ba Động Thành là nơi không có thanh lâu sòng bạc nào của Hương gia, đúng là không có ai hiểu biết về thế lực của Hương gia hơn bọn họ
Hầu Hi Bạch mừng rỡ: “Vậy bọn ta hãy lập tức đi lấy số sổ sách đó tung ra!”
Lôi Cửu Chỉ nói: “Số sổ sách đó ghi lại những chuyện dưới thời cựu triều Dạng đế, so với tình hình hiện nay đã có nhiều thay đổi, nên chỉ có giá trị tham khảo, nhưng đương nhiên cũng hết sức hữu dụng.”
Từ Tử Lăng hỏi: “Từ lúc đó đến nay đã có gì thay đổi?”
Lôi Cửu Chỉ nói: “Hương gia cưỡng bách dân nữ, vừa để phụng thị Dương Quảng, vừa là trông cậy vào sự bảo hộ của hắn hòng khuếch trương thế lực và đáp ứng nhu cầu của khách tầm hoa tại các thanh lâu đổ trường khắp xứ để thu lợi. Ngoài ra còn cung cấp đệ tử mới cho các hệ phái của Ma môn, giúp họ có hậu nhân kế tục. Chẳng những thế, chúng lại chuyên tâm huấn luyện các thiếu nữ để bán thẳng cho những nhà phú hộ quyền quý, trực tiếp thu lợi. Nhờ thế mà trong vòng vài chục năm ít ỏi, Hương gia đã khuếch trương được thế lực ra toàn quốc.”
Từ Tử Lăng bất giác đưa mắt nhìn Hầu Hi Bạch dò hỏi, họ Hầu lắc đầu đáp: “Đối với những việc lúc nhỏ, ta nhớ rất rõ, không hề có chút quan hệ nào với Hương gia hết.”
Lôi Cửu Chỉ gục gặt đầu, nói tiếp: “Việc kinh doanh mua bán phụ nữ của Hương gia bắt đầu từ lúc Dương Quảng lên ngôi, nhưng bọn họ cũng không ngờ nổi triều đình Dương Quảng lại sụp đổ mau đến thế. Từ sau khi Vũ Văn Hóa Cập lật đổ triều Tùy trở đi, bọn họ không dám táo gan theo đuổi công việc khiến người người căm giận như thế nữa. Bất quá, số thanh lâu sòng bạc của bọn họ đã bám rễ chắc chắn ở các nơi, chỉ cần biết phải trái với bọn đương chức đương quyền ở địa phương là vẫn có thể tiếp tục hưng vượng và phát triển. Trong tình thế hiện nay, bọn họ quyết định cấu kết với Lý Kiến Thành là người có nhiều khả năng trở thành hoàng đế nhất, nên đem toàn lực ra ủng hộ y.”
Từ Tử Lăng trầm giọng: “Vì vậy, bất cứ là Lý Thế Dân hay Khấu Trọng chiếm được ngôi vua, thế lực của Hương gia cũng sẽ sụp đổ tan tành. Có điều chưa rõ là Hương gia rốt cuộc có mối quan hệ như thế nào với Thánh môn?”
Lôi Cửu Chỉ đáp: “Quan hệ thực sự như thế nào e rằng chỉ có bản thân Hương Quý hiểu rõ. Y chắc chắn là người được Ma môn lục phái hợp sức tài bồi để thông qua y mà gom góp tiền bạc và khuếch trương thế lực cho Ma môn. Hương Quý có ba người con, các ngươi mới biết Trì Sanh Xuân và Hương Ngọc Sơn, nhưng còn huynh trưởng của bọn y thì cho các ngươi đoán thế nào cũng không ra đâu.”
Cả hai nghe nói thế đều ngẩn người ra.
Lôi Cửu Chỉ hạ giọng nói: “Chính là Dương Văn Can, quý tộc của Tùy triều trước đây, cùng với Dương Hư Ngạn có mối quan hệ mật thiết. Hương Quý vốn phái y vào kề cận Dương Quảng, phục thị dâm nhạc cho tên hôn quân này. Nhân đó mà y được Dương Quảng ban cho quốc tính, đổi tên từ Hương Văn Can thành Dương Văn Can, tạo nên thế lực to lớn của Hương gia, hùng cứ suốt một dải từ Quan Trung đến Kinh Triệu. Theo ta đoán, Dương Hư Ngạn vốn là một nhân vật của Ma môn, thấy Hương gia có giá trị lợi dụng nên cấu kết với Dương Văn Can, bề ngoài làm ra vẻ toàn lực phò tá Lý Kiến Thành, bên trong kỳ thực lại ngầm tính toán riêng tư.”
Từ Tử Lăng chợt hiểu ra, thảo nào mà Dương Văn Can có thể giật dây được cả Hương gia và Ma môn làm loạn.
Hầu Hi Bạch nói: “Hiện giờ Hương gia dường như đã biết vợ chồng Hàn huynh hợp tác với chúng ta, Hương Quý liệu sẽ phản ứng như thế nào?”
Bấy giờ Kiệt nhi chạy ào tới, mặt đỏ bừng vì hưng phấn, giật giật tay áo Hầu Hi Bạch, thét to: “Mẫu thân cháu nói Hầu thúc thúc là thiên hạ đệ nhất họa sư! Thúc thúc vẽ cho Kiệt nhi, phụ thân và mẫu thân cháu một bức họa được không?
Hầu Hi Bạch không cách nào từ chối, bị cậu ta kéo đi, đành ngoái đầu lại nhìn hai người cười khổ: “Ta có lẽ không phải là họa sư giỏi nhất, nhưng chắc chắn là họa sư thu tiền nhuận bút đắt nhất, bất quá lần này ta phục vụ miễn phí vậy.”
Một lớn một bé đi rồi, Từ Tử Lăng trầm ngâm: “Từ giờ trở đi, Hương gia sẽ thu xếp như thế nào nhỉ? Chẳng lẽ toàn bộ lầu xanh sòng bạc đều phải đóng cửa ư?”
Lôi Cửu Chỉ nói: “Chí ít, Hương Quý cần phải rút ra khỏi địa bàn quản trị của Khấu Trọng, trước khi thế lực của y bị nhổ bật gốc rễ.”
Từ Tử Lăng ngẩng mặt nhìn bầu trời đêm, thầm hình dung lại gương mặt của Khấu Trọng, trước khi thế lực của Hương gia tan nát, Khấu Trọng có thể nào thoát khỏi mệnh vận tương tự như vậy hay không?
o0o
Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn nhảy lên lưng ngựa, đối diện với địch nhân đang ùn ùn kéo tới sơn trại trên đỉnh dốc, theo sau khoảng ba ngàn quân phiêu kỵ, dàn thành trận thế trên đỉnh dốc nghiêm cẩn chờ đợi Khấu Trọng phát lệnh tấn công.
Địch nhân dừng chân bố trận, đứng đầu là La Sĩ Tín và Lưu Đức Uy, hai danh tướng đã trải ngoài trăm trận. Nếu Khấu Trọng muốn tiên phát chế nhân, xông vào trận, bọn thủ hạ sẽ mau chóng kết thành trận thế phòng ngự, dùng giáo mộc, cung tên trùng trùng che đỡ cho máy bắn nỏ và phi thạch đại pháo đang chuẩn bị nghênh đón những đợt tấn công của quân Khấu Trọng. Tạm thời, hai bên đã hình thành cục diện đối chọi nhau.
Khấu Trọng mắt chiếu thần quang, gạt bỏ chuyện sinh tử thắng bại ra khỏi tâm trí, chỉ nghĩ một điều, trước khi chết, hắn có thể đả thương được bao nhiêu quân địch.
Bạt Phong Hàn thấp giọng nói với Hình Nguyên Chân và Bạt Dã Cương đang đứng phía sau: “Ta cùng Thiếu soái lên trước, các người ở sau quan sát chờ cơ hội tiếp ứng, hãy nhớ phải tập trung lực lượng, không được phân tán.”
Hình Nguyên Chân và Bạt Dã Cương gật đầu tuân lệnh, trong thiên hạ, e rằng chỉ có mỗi Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn và một số rất ít người nữa có đủ đảm lượng và năng lực đối diện với thiên quân vạn mã mà không lo sợ, còn dám xông thẳng vào phá trận.
Khấu Trọng đưa tay vuốt ve cổ ngựa, than: “Ta thật có lỗi với mã huynh đệ, bất quá ta sẽ vì ngươi mà đòi nợ máu vậy.”
Bọn Hình Nguyên Chân hai người thầm thở dài, một khi địch nhân bắn tên nỏ ra, Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn muốn thoát khỏi cũng đã là chuyện vô cùng khó khăn, chiến mã cùng đi dĩ nhiên khó thể sinh tồn.
Hai tay dũng sỹ từ trong trại chạy ra, mang theo hai tấm khiên lớn trao cho Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn, nói rằng phụng mệnh Ma Thường tướng quân đưa đến, rồi liền quay về trại.
Khấu Trọng dồn chân khí vào tấm khiên, phát ra một tiếng coong vang dội, rồi nhóng mắt nhìn về phía đội quân chủ lực của Lý Thế Dân bên kia chiến tuyến, ha hả cười, nói: “Khấu Trọng ta xưa nay đã kinh qua vô số trận lớn nhỏ, chưa ai làm gì nổi ta, liệu Lý Thế Dân hôm nay có thể làm gì hơn được?”
Bạt Phong Hàn thét to: “Tắt lửa!”
Toàn bộ đèn đuốc của sơn trại lập tức tắt ngóm, trong ngoài tối đen như mực, cả đoàn quân kỵ mã của Khấu Trọng chìm vào bóng tối, trong khi phía địch quân đèn đuốc sáng choang, một sáng một tối, bất đồ hình thành nên một cảm giác căng thẳng đến nghẹt thở.
Khấu Trọng áp sát bụng ngựa, phóng xuống triền núi, Bạt Phong Hàn theo sát phía sau.
Hình Nguyên Chân, Bạt Dã Cương và Ma Thường ở trong trại cùng đồng thanh thét lớn, kéo theo tiếng reo hò cuồng mãnh trợ uy của Thiếu Soái quân trong ngoài trại, làm giảm đi phần nào nhuệ khí của quân địch đang bao vây bốn phía.
Lúc này, niềm tin lớn nhất của Thiếu Soái quân chính là ở chỗ có được hai vị thủ lĩnh vô địch Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn. Liệu họ có thể tái lập kỳ tích giúp mọi người thoát khỏi tai họa toàn quân tuyệt diệt hay không? Nhưng dù lòng tin của bọn họ đối với hai vị thủ lĩnh có lớn đến đâu, khi đối diện địch nhân với ưu thế áp đảo đến thế, cũng không tránh khỏi có phần dao động.
Địch quân thúc mạnh trống trận, cung trương nỏ dựng sẵn sàng, thủ thế chờ đợi.
La Sĩ Tín vừa hạ lệnh, bọn binh sĩ từ phía sau lập tức tràn lên lấp kín mọi khoảng trống, khiến cho hai người không tìm được kẽ hở nào xâm nhập vào trận. Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn nếu cứ cương cường xông thẳng trận, trong tình thế không thể thi triển quyền cước, sẽ khó tránh khỏi nạn loạn đao phân thây.
Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn xuống đến nửa chừng dốc, còn cách địch nhân chừng hơn nghìn bước, liền thi triển thuật người ngựa hợp nhất, đồng thời ghìm ngựa dừng lại.
Chiến mã dựng vó hí dài.
La Sĩ Tín biết rằng muốn chặn hai người cần phải dùng cung nỏ để đánh từ xa, nên lại phát ra mệnh lệnh, kỵ binh ở phía sau lập tức tách ra một đội khoảng nghìn người, phân thành hai cánh tả hữu băng ra, chủ động tấn công, đồng thời hai hàng thương thủ và ba hàng tiễn thủ ở phía trước cũng tề chỉnh đội hình tiến lên chặn bước Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn. Tiếng vó ngựa hòa với tiếng quân đi rầm rập cấu thành một loại tiết tấu đẫm đầy mùi vị tử vong sát phạt.
Vào thời điểm ngàn cân treo sợi tóc này, Khấu Trọng vẫn thản nhiên cười, bảo Bạt Phong Hàn: “Lão ca qua được trận này, chỉ sợ Tất Huyền không còn có thể là đối thủ của huynh.”
Bạt Phong Hàn quét mắt nhìn khắp nhánh bộ binh chính diện lẫn hai cánh quân khinh kỵ, mắt chiếu thần quang sáng quắc, trầm giọng nói: “Chúng ta thà chết cũng không bỏ cuộc.”
Còn chưa dứt lời, tiếng chiêng đã vọng lên gấp rút, nghe như từ phía cánh quân của Lý Thế Dân xa xa vẳng lại, khẩn cấp ra lệnh triệt thoái.
Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn đều sửng sốt, hoàn toàn không hiểu nổi việc gì đang xảy ra nữa.
o0o
Từ Tử Lăng và Lôi Cửu Chỉ bước vào khoang thuyền, vừa đúng lúc nhìn thấy Hầu Hi Bạch trổ tài họa hình Hàn thị phu phụ và Kiệt nhi sống động như thật. Vân Ngọc Chân mở cửa để lộ dung nhan kiều mỹ như xưa, dịu dàng nói: “Ta có thể nói vài câu với Từ Tử Lăng chăng?”
Lôi Cửu Chỉ vỗ vỗ vai Từ Tử Lăng, tế nhị bỏ đi. Từ Tử Lăng đành bước vào phòng Vân Ngọc Chân, xếp bằng ngồi xuống.
Vân Ngọc Chân ngồi xuống bên kia bàn, khẽ thở dài.
Từ Tử Lăng ngạc nhiên hỏi: “Mỹ nhân sư phụ vẫn còn lo lắng việc gì thế?”
Vân Ngọc Chân lộ vẻ cay đắng, than: “Ôi chao! Mỹ nhân sư phụ ư? Ta đã lâu rồi không còn nghe được những lời nói êm tai như thế, Vân Ngọc Chân này đã không còn được như xưa. Tử Lăng lần này lại ngồi thuyền lướt sóng, cảm thấy thế nào? Nghe thấy tiếng mái chèo khua nước quen thuộc, tiếng thân thuyền lướt sóng thiết thân, cả thảy đều khiến lòng người xao động. Trước kia ta vẫn thấy thế là thường, thậm chí chán ghét, cho đến giờ này mới nhận ra đã đánh mất biết bao điều quý báu, tiếc rằng không thể vãn hồi.”
Từ Tử Lăng hiểu nàng đang hối hận về những hành vi xưa kia đã khiến cho thủ hạ bạn bè lìa bỏ, gã trầm tư một chút, rồi nghiêm nét mặt nói: “Cứu vãn chuyện xưa, quả là không có khả năng, song mỹ nhân sư phụ cũng có thể nhìn lại quá khứ với một thái độ khác. Riêng về phần ta, kinh lịch kể cũng đã nhiều nên mạo muội góp ý đôi lời. Sao mỹ nhân sư phụ không ổn định lại tâm trạng, khôn ngoan lựa chọn cho bước đường tương lai của mình, sinh mệnh dẫu sao vẫn còn đẹp đẽ và sung mãn lắm.”
Vân Ngọc Chân cười khổ, đáp: “Ngươi thật chẳng giống Khấu Trọng, lúc nào cũng quá thẳng thắn. Thật ra ta cũng chẳng có chuyện gì, chỉ là nhất thời cảm xúc, phải nói ra cho nhẹ lòng thôi.”. Nàng lưỡng lự giây lát rồi quay đầu nhìn vào mắt y, ra vẻ thản nhiên nói tiếp: “Các ngươi có từng nghĩ đến nên đối đãi với Tiêu Tiễn như thế nào chưa?”
Đến lượt Từ Tử Lăng cười khổ: “Trong lúc sự sống chết của Khấu Trọng còn chưa biết ra sao, tính đến những vấn đề ấy có phải là xa xôi quá không? Nghe nói Tiêu Tiễn, Lý Tử Thông và Phụ Công Hựu đã kết thành liên minh, hợp lực đối phó Đỗ Phục Uy, có phải là thật không?”
Vân Ngọc Chân đáp: “Tiêu Tiễn và Phụ Công Hựu kết minh là sự thật, nhưng không có liên quan gì với Lý Tử Thông cả. Lý Tử Thông đã đầu hàng nhà Đường, lẽ nào dám mạo hiểm đắc tội với Đường thất mà đối phó với Đỗ Phục Uy, cũng là hàng thần của Lý Đường chứ?”
Từ Tử Lăng không nén được, buột hỏi: “Tiêu Tiễn với Hương gia, quan hệ với nhau thế nào?”
Vân Ngọc Chân sảng khoái đáp liền: “Quan hệ giữa Tiêu Tiễn và Hương gia chính là quan hệ giữa Ba Lăng Bang và Hương gia, đôi bên cùng có lợi. Dưới thời cựu triều, Ba Lăng Bang thông qua Hương gia mà được Dương Quảng dung túng hoành hành bá đạo, mau chóng bành trướng thế lực, tiền nhiệm bang chủ của Ba Lăng Bang là Yên Can Lục Kháng Thủ là một người có dã tâm rất lớn, chẳng những không chịu thua sút Hương gia mà còn muốn thâu tóm các nguồn lợi từ thanh lâu đổ quán của Hương gia nữa. Hương Quý hợp mưu với Tiêu Tiễn là vì Dương Hư Ngạn thích sát Lục Khán Thủ, giúp cho Tiêu Tiễn được ngồi vào chiếc ghế bang chủ của Ba Lăng Bang.
Từ Tử Lăng ngạc nhiên hỏi: “Thật thế sao?”
Vân Ngọc Chân gật đầu: “Bất quá mối quan hệ của Tiêu Tiễn và Hương gia đang ở trên bờ vực đổ vỡ, vấn đề ở chỗ Tiêu Tiễn không chịu hiểu tình thế, cùng Lâm Sĩ Hồng hợp tác. Tử Lăng hẳn đã biết ngoài Âm Quý Phái ra, Lâm Sĩ Hồng là một đại nhân vật hết sức xuất sắc mới xuất hiện gần đây chứ?”
Từ Tử Lăng gật gật đầu tỏ vẻ đã hiểu, nhưng rồi lại thắc mắc: “Hương Ngọc Sơn đã đứng về phe Lâm Sĩ Hồng, sao năm xưa lại sai khiến ta và Khấu Trọng đi hành thích Nhậm Thiếu Danh, kẻ hợp tác với Lâm Sĩ Hồng? Lại còn việc Dương Hư Ngạn hành thích Hương Ngọc Sơn lúc đó nữa, là cớ sự gì?”
Vân Ngọc Chân nói: “Mỗi thời mỗi khác, lúc đó Hương gia ngỡ rằng Tiêu Tiễn chịu làm con cờ cho họ thao túng, hy vọng có thể nhân lúc thiên hạ đại loạn mà đục nước béo cò, nên mới đối đầu với Âm Quý Phái. Bây giờ Ma môn các phái đã liên kết lại, Tiêu Tiễn cũng vì cố kỵ với Ma môn, nên không thể lại cùng Hương gia hợp tác. Còn việc Dương Hư Ngạn hành thích Hương Ngọc Sơn, chỉ là đóng trò mà thôi, nếu không sao lại xảo hợp phát động đúng lúc các ngươi đang ở cùng với Hương Ngọc Sơn chứ, bỏ cái dễ, chọn cái khó để làm gì?
Từ Tử Lăng cuối cùng cũng đã làm rõ được mối quan hệ phức tạp giữa Hương gia và Tiêu Tiễn. Gã cũng ngầm đoán ra nàng Vân Ngọc Chân vốn có những mối quan hệ nam nữ hết sức tùy tiện này rất có thể có những liên hệ bí mật nào đó với Tiêu Tiễn, nên mới quan tâm đến số phận của y. Gã thở ra một hơi dài, nói: “Bất luận là Khấu Trọng và Lý Thế Dân ai thắng trong cuộc đấu này, Tiêu Tiễn bị vây khốn trong góc Đại Giang đó, có trốn cũng không khỏi số phận bị tiêu diệt. Ai có thể chiếm được Ba Thục và Trung nguyên đều có khả năng thu thập Tiêu Tiễn. Nếu người đó là Khấu Trọng, hắn nhất quyết không buông tha cho Tiêu Tiễn đâu. Bang chủ hẳn phải hiểu rõ mối ân oán đó sâu xa hơn bất cứ ai.”
Vân Ngọc Chân buồn bã nói: “Nếu đã như vậy, tại sao các ngươi lại tha cho ta?”
Từ Tử Lăng nói: “Kẻ tội đầu chính là Hương Ngọc Sơn, chứ không phải người, Vân Bang chủ chớ nghĩ ngợi lung tung nữa; quá khứ đã là quá khứ, chúng ta có được như ngày hôm nay, Bang chủ cũng có công lao rất lớn, cho dù là công tội ngang nhau. Chỉ cần Bang chủ sẵn lòng dốc toàn lực giúp chúng ta vì đời trừ hại, đã tạo công đức vô cùng rồi. Sau khi ta có thể lên phương bắc đến Bành Lương xem tình hình của Khấu Trọng ra sao, Lôi đại ca sẽ toàn quyền phụ trách việc đối phó với Hương Quý, bang chủ có thể tín nhiệm y.”
o0o
Bấy giờ Khấu Trọng, Bạt Phong Hàn cho đến toàn thể Thiếu Soái quân đều ngơ ngẩn chẳng hiểu việc gì đang diễn ra, tròn mắt nhìn xuống, đoàn quân của Đại Đường đang rùng rùng khí thế hung hăng chuẩn bị toàn lực tấn công bỗng nhiên rút nhanh như thủy triều.
Muốn đến là đến, muốn đi là đi.
Đường quân lui nhưng không loạn, rõ là đã được tinh luyện. Thoái lui trước để kết trận, kế tiếp đến lượt máy bắn cung và phi thạch đại pháo từ từ rút theo đoàn quân. Soái quân của Lý Thế Dân cũng có chuyển động, đi ra hai bên, bố trận tại hai tòa tiểu sơn gần đó, nhường chỗ cho bộ binh từ tuyến đầu di chuyển ra sau.
Bạt Phong Hàn nhíu mày: “Lý Thế Dân đang chơi trò gì nhỉ?”
Khấu Trọng đảo mắt nhìn quanh, trầm giọng: “Hay là y muốn tự mình ra trận?”
Bạt Phong Hàn lắc đầu: “Điều này thật không hợp với phép dùng binh, tuy không ai cấm, nhưng lâm trận rút lui là nguy hiểm vô cùng.”
Khấu Trọng cười khổ: “Tiếc là chúng ta không đủ sức tấn công, nếu không đã có thể dạy cho Lý Thế Dân biết thế nào là mùi vị thất trận.”
“Keng! Keng! Keng!”
Trong tiếng chiêng thu quân, tiền quân của binh Đường đã chỉnh tề rút ra phía sau, biến thành hậu đội, dừng lại lập trận.
Hai cánh soái quân tả hữu của Lý Thế Dân lại hội hiệp thành một, biến thành tiền quân, rời khỏi dốc núi ngoài ba ngàn bộ.
Bạt Phong Hàn lãnh đạm nhận xét: “Chỉ cần Lý Thế Dân dùng bọn Huyền Giáp chiến sỹ làm chủ lực, toàn thể kỵ binh xung sát lên đây, là đủ để đánh bại chúng ta hoàn toàn rồi.”
Khấu Trọng đang định trả lời, bỗng thấy bộ binh của Lý Thế Dân đều đã rút hết, chỉ còn tuyến kỵ binh ở lại.
Khấu Trọng sửng sốt: “Con bà nó! Chuyện gì đang xảy ra vậy? Không lẽ Lý Thế Dân định sai mỗi kỵ binh công trại, nếu như vậy số thương vong sẽ rất lớn, thật chẳng khôn ngoan chút nào.”
Bạt Phong Hàn chuyển mục quang nhìn về hướng đông, quãng đồng trống chìm trong bóng tối vẫn không có bất kỳ động tĩnh nào.
Khấu Trọng lại thốt lên kinh ngạc: “Mẹ ơi! Lý Thế Dân rút quân thật rồi.”
Lúc bấy giờ, hai cánh quân khinh kỵ của Lý Thế Dân cũng quay đầu rút khỏi, chỉ còn lại đội Huyền Giáp chiến sĩ.
Đột nhiên, đèn đuốc phía địch quân lần lượt tắt ngóm, cả hai bên chiến trường toàn bộ chìm vào bóng tối, trên nền trời đêm bỗng lộ ra nét diễm lệ của những vì sao rải rác khi nãy còn bị mây mờ che khuất, không gian ngập tràn tư vị hòa bình yên tịnh, đối nghịch hoàn toàn với bầu không khí căng thẳng của hai phe đối địch đang triển khai một trường ác chiến.
Đến lượt Bạt Phong Hàn giật mình rúng động, mục quang chăm chú nhìn về cánh đồng phía đông, thất thanh kêu lên: “Có tiếng vó ngựa!”
Khấu Trọng cũng nghe thấy từ phía đông ẩn ước có tiếng vó ngựa truyền lại, lộ vẻ kinh ngạc lẫn mừng rỡ: “Phải chăng là bọn Tuyên Vĩnh đã đẩy lui được quân Lý Thế Tích, quay lại giúp chúng ta?”
Ma Thường ở đằng sau cũng đã nghe được những âm thanh kỳ lạ, chong mắt hướng về phương đông.
Khấu Trọng không kềm được trống ngực đổ dồn, Lý Thế Dân lần này có hành động hết sức kỳ quái, thêm vào tiếng vó ngựa đang vang lên ở phương đông, chỉ có thể cho gã một cách giải thích duy nhất, chính là có nhân mã phương khác đến chi viện. Nghĩ đến đây, hắn quay đầu, thét to: “Thắp đuốc lên!”
Khi đèn đuốc của sơn trại được thắp lại, đằng sau ngọn đồi phía đông xuất hiện ánh lửa sáng rực, lại thấy vô số kỵ binh đóng khắp sườn đồi núi đến cánh đồng phía đông, tinh kỳ phấp phới, uy phong lẫm lẫm.
Khấu Trọng kích động thét: “Con bà nó! Chính là nhạc phụ tương lai của ta giá đáo.”
Thiếu Soái quân trong sơn trại tưởng như chết đi sống lại, tiếng reo vui vang lên như sấm động, vang dội khắp cả chiến trường.
Cuối cùng thì “Thiên đao” Tống Khuyết vào đúng thời khắc quyết định nhất, đã kịp đưa quân đến cứu viện.
- o O o -
HỒI 684
Vận Trù Duy Ác
Từ Tử Lăng cửa vào phòng, Âm Hiển Hạc lúc đó thần tình ngơ ngẩn đứng trước cửa sổ, mục quang đăm đăm nhìn ra bờ sông tối đen.
Từ Tử Lăng đến bên cạnh y, vốn định nói rất nhiều điều, cuối cùng một lời cũng không nói được. Trong đầu gã chợt hiện lại lần đầu gặp Âm Hiển Hạc, vị kiếm khách cao ngạo một mình đứng trong hậu viện của Ấm Mã Dịch giữa làn hơi nước vần vũ tại ôn tuyền... Lúc đó vẫn chưa biết y ôm trong lòng mối thương tâm, chỉ nghĩ tính y vốn cô độc cách người, bất cận nhân tình.
Âm Hiển Hạc từ từ nói: “Cho dù hy vọng mong manh đến đâu, ta cũng sẽ đến cùng trời cuối đất để tìm cho được Âm Tiểu Kỷ, Từ huynh không cần quan tâm đến ta nữa.”
Từ Tử Lăng hơi ngẩn người: “Về mặt đó thì Lôi đại ca nhất định có biện pháp. Năm xưa Giang Đô có binh biến, hơn trăm thiếu nữ nhân cơ hội đào tẩu, chỉ cần tìm được một vài người trong số đó là có manh mối để truy tìm tung tích của Kỷ muội, chứ không đến nỗi không còn cơ hội nào.”
Âm Hiển Hạc cười khổ đáp: “Lúc đó binh hoang mã loạn, chuyện gì cũng có thể phát sinh, huống chi muội ấy là một nữ nhi yếu đuối, ôi!”
Từ Tử Lăng nghiêm mặt: “Chuyện gì cũng đều có an bài, ông trời đã cho chúng ta biết được tin tức của lệnh muội từ Hàn phu nhân thì không thể nào tàn nhẫn đến như vậy!”
Âm Hiển Hạc im lặng không nói.
Hai mắt Từ Tử Lăng lóe sáng, trầm giọng: “Hình như tiểu đệ biết một vị thiếu nữ trong nhóm người đào thoát Giang Đô của Kỷ muội năm xưa.”
Âm Hiển Hạc giật mình, quay lại nhìn gã, hai mắt lộ ra tia hy vọng như ánh lửa, hỏi: “Là ai?”
Từ Tử Lăng quay nhìn Âm Hiển Hạc, thầm quyết định, thề tận lực hoàn thành tâm nguyện của y, đáp: “Là tài nữ bán nghệ không bán thân nổi danh nhất Trường An, Kỷ Thiến. Nghe nói danh khí của nàng gần đây xấp xỉ với Thượng Tú Phương vang danh toàn quốc.” Rồi giải thích tiếp: “Kỷ Thiến trăm phương nghìn kế muốn theo tiểu đệ học tập đổ thuật, chính là muốn báo phục Hương gia, chỉ tiếc là nàng không tín nhiệm tiểu đệ, do đó không chịu thổ lộ chuyện của lệnh muội. Nhưng rõ ràng lúc ấy tiểu đệ cảm nhận được nàng có quen lệnh muội.”
Âm Hiển Hạc trầm giọng: “Ta phải lập tức lên bờ, đến ngay Trường An gặp Kỷ Thiến hỏi cho ra lẽ.”
Từ Tử Lăng nhíu mày: “Hiện tại ở Trường An đang diễn ra cuộc chiến tranh nảy lửa giữa Lý gia và Khấu Trọng, canh phòng khẩn trương, không có an bài ổn thỏa, Âm huynh sợ khó bước chân vào Trường An nửa bước, có lẽ chúng ta nên thương lượng với Lôi đại ca trước, nhờ huynh ấy tính biện pháp vẹn toàn.”
Âm Hiển Hạc kiên quyết lắc đầu: “Ta đến Trường An xem tình hình rồi tính cách sau, Từ huynh giúp đỡ nhiều như vậy, ta xin khắc ghi trong lòng.”
Từ Từ Lăng cười khổ: “Kỷ Thiến có thể do còn ám ảnh chuyện xưa nên trở nên rất thận trọng và luôn nghi ngờ, Âm huynh dù tìm được tận nơi, chỉ sợ khó được nàng tín nhiệm.”
Hai mắt Âm Hiển Hạc toát lên thần sắc kiên định, chầm chậm buông từng lời từng chữ: “Chỉ cần có một chút cơ hội, ta tuyệt không bỏ qua.”
Từ Tử Lăng không còn cách nào thuyết phục, đành nói: “Như vầy có được không? Chúng ta trước hết tiễn ba người nhà Hàn huynh đến Chung Ly, sau đó đi thuyền lên phía bắc đến Bành Lương, xác định tình hình của Khấu Trọng, rồi đệ cùng Âm huynh đến Trường An tìm Kỷ Thiến, đệ có phương pháp lén vào Trường An mà thần không biết quỷ không hay, xong xuôi bọn ta sẽ âm thầm rút đi.”
o0o
Sơn trại đèn đuốc sáng trưng như ban ngày, năm ngàn quân khinh kỵ tiên phong của Tống gia chọn đỉnh đồi cao bố trận, Khấu Trọng quét mắt nhìn, nhưng vẫn không thấy bóng dáng Thiên Đao Tống Khuyết.
Trời vừa sẩm tối được nửa khắc, trận địa của Đường quân truyền ra tiếng luân xa, chứng tỏ Lý Thế Dân đã lệnh cho thủ hạ nhân lúc đêm tối đẩy máy bắn cung và Phi Thạch đại pháo về doanh địa đằng xa.
Bạt Phong Hàn nhìn từ xa trận thế của kỵ binh Tống gia, tán thưởng: “Binh là tinh binh, ngựa là ngựa giỏi, cho dù bôn ba cấp bách, vội vã đến đây nhưng vẫn giữ trật tự kỷ luật, khí thế áp đảo, đủ khả năng phân tranh cao hạ với Đường quân.”
Khấu trọng vừa định nói, Bạt Phong Hàn đã vỗ vai gã bảo: “Còn chưa đi mà bái kiến nhạc trượng tương lai của đệ? Hiện giờ dù có gan trời thì Lý Thế Dân cũng không dám tấn công qua đây, chỗ này để Bạt mỗ áp trận cho.”
Khấu Trọng cười nói: “Lão nhân gia vẫn chưa thật sự giá lâm, đệ nên trụ thêm một chút nữa để trấn giữ thế trận.”
Mục quang Bạt Phong Hàn quét về thảo nguyên đen tối phía Đường quân, nói: “Nếu ta là Lý Thế Dân, hiện tại lập tức triệt thoái, nếu không mặt sau bị vây, nhân mã của hắn vĩnh viễn không thể rời khỏi Ấn Đàm Sơn.”
Khấu Trọng thở dài: “Trận chiến ở Lạc Dương đã dạy đệ một điều rằng, tuyệt đối không thể xem thường Lý Thế Dân. Nếu dự liệu của đệ không sai, Tống gia quân của nhạc phụ tương lai trước hết giải cái ách vây thành cho Trần Lưu, sau đó ngày đêm kiêm trình đến cứu viện nhóm tàn quân đang bên bờ sinh tử của chúng ta. Lý Thế Dân dự liệu được thời gian đến của nhạc phụ, do đó bất chấp tất cả toàn lực công trại, cũng may chúng ta chống cự được đến thời khắc này, hồi tưởng lại, thành bại chỉ là cách một đường tơ, nghĩ tới cũng đủ toát mồ hôi hột.”
Bạt Phong Hàn gật đầu nói: “Trận chiến Lạc Dương này Bạt mỗ đạt được lợi ích cực lớn, từ chỗ chưa bao giờ trải qua chuyện tiếp cận tử vong mà mỗi thời khắc đều hít thở được khí tức tử vong.”
Khấu Trọng cười xòa: “Lão ca tựa hồ quên đi cái tư vị suýt chết dưới tay Tất Huyền.”
Bạt Phong Hàn lắc đầu: “Lần đó với lần này khác nhau, tất cả đều xảy ra quá nhanh. Từ lúc thoát khỏi Lạc Dương, có thời khắc nào chúng ta không phải sống trong ám ảnh tử vong? Nếu như không có số hỏa khí, chúng ta sớm chầu trời rồi.”
Đột nhiên, từ trong kỵ binh trận của Tống gia rần rần tiếng hoan hô vang động trời đất.
Hai gã quay nhìn, cờ xí bay rợp trời, thân hình hùng vĩ của “Thiên Đao” Tống Khuyết vững vàng như ngọn núi ngồi trên ngựa hiện ra trên đỉnh đồi, nhắm hướng sơn trại phi tới. Nhân mã còn lại của Tống gia vẫn án binh bất động trên các mỏm núi.
Khấu Trọng chộp lấy dây cương của Bạt Phong Hàn, tiện thể kéo gã lên cùng nghênh đón.
Trong ngoài sơn trại của Thiếu Soái quân đều vang lên tiếng cổ vũ nhiệt liệt, vui mừng như sấm động.
Thời khắc tối gian khổ cuối cùng cũng đã qua.
o0o
Lôi Cửu Chỉ nghe xong, gật đầu bảo: “Tình huống của Điệp công tử quả thật đáng đồng cảm, nếu là ta thì cũng sẽ không bỏ qua chút xíu manh mối nào. Vấn đề là ngươi phải phân thân như thế nào? Hay là để ta đi gặp Kỷ Thiến.”
Từ Tử Lăng đứng trên đầu thuyền đón gió, tà áo tung bay, thở dài: “Tiểu đệ đương nhiên biết mọi việc nặng nhẹ thế nào, nên trước hết phải xác định được tình hình của Khấu Trọng, rồi mới hạ quyết định sau cùng, chuyện gặp Kỷ Thiến cứ để đệ và y cùng tới Trường An sẽ thỏa đáng hơn. Cấm cung của Lý Uyên cao thủ như mây, rủi khi bọn ta bị bại lộ hành tung chẳng phải chuyện đùa đâu. Hành động đối phó Hương gia, lão ca ngươi là thống soái, đệ cùng Khấu trọng chỉ là tiểu tốt vẫy cờ la hét, những công việc vặt vãnh khác, cũng do bọn ta xử lí.”
Lôi Cửu Chi vỗ bụng cười lớn: “Lời lẽ thuyết phục của đệ ngày càng giống Khấu Trọng! Hương gia kết thành tử địch với hai người quả thật là tự mình diệt vong. Hiện giờ ta nắm chắc bí mật bố trí sào huyệt của Hương gia, ngày mà Khấu Trọng nhất thống thiên hạ, cũng chính là ngày tập đoàn tội ác Hương gia diệt vong.”
Từ Tử Lăng im lặng một hồi, rồi từ tốn hỏi: “Lôi đại ca tựa hồ nhận định Khấu Trọng nhất định sẽ thắng? Phải không?”
Lôi Cửu Chỉ cố nén cười, thân hình gầy gò đứng thẳng dậy, tay phải chộp lấy vai Từ Tử Lăng, hít một hơi dài, nói: “Người trong thiên hạ, bao gồm cả Lý Thế Dân trong đó, đều biết rằng Tống Khuyết tuyệt không để cho người khác đánh bại Khấu Trọng. Tống gia quân của ông ấy nhất định sẽ xuất hiện trong thời khắc tối hậu, khiến cho tình thế chuyển đổi.”
Từ Tử Lăng cười khổ: “Vấn đề là ông ấy có xuất hiện trong tình thế tối cần thiết hay không?”
Lôi Cửu Chỉ nhún vai: “Cái đó phải xem Tống Khuyết có giữ được uy danh của một Quân sư đại gia như mọi người ca tụng hay không. Sau khi Tống Khuyết trấn giữ Lĩnh Nam, không ai lấy được từ trong tay ông ta nửa tấc đất, nếu muốn khuếch trương, phía nam Đại Giang sớm đã trở thành thiên hạ trong tay ông ấy. Nhưng ông ta vẫn im hơi lặng tiếng cho tới khi gặp được Khấu Trọng mới rời Lĩnh Nam quyết tranh thiên hạ, chứng tỏ ông ta không chỉ hiểu được người khác mà càng nhìn thấu bản thân. Tin ta đi! Xét về tầm nhìn xa rộng và khả năng nắm bắt thời thế, thiên hạ không ai có thể hơn Tống Khuyết.”
Từ Tử Lăng lặng nhìn sông lớn cuồng cuộn, trong lòng chợt hiện lên ngọc dung của Sư Phi Huyên, Tống Khuyết và Khấu Trọng, giống như nước sông uốn lượn Trung nguyên, thiên hạ ai có thể tranh phong? Khi ưu thế của Lý phiệt mất đi, Sư Phi Huyên có ngồi đó nhìn Lý Thế Dân do chính tay nàng tuyển lựa gặp phải họa hay không, với trí tuệ thông thiên như thế thì cục thế sẽ được nàng chuyển biến thế nào?
o0o
Tống Khuyết thần thái oai hùng, ngồi trên lưng ngựa trông càng vũ dũng hơn so với khi ở Ma Đao Đường, trên chiến trường mà thần thái tự tại phiêu diêu, Khấu Trọng cùng Bạt Phong Hàn dám phát thệ là chưa bao giờ gặp người nào được như thế. Ông ta vận khinh giáp, bên ngoài khoác chiến bào, đón gió tung bay, phong thái bao trùm khắp thiên hạ.
Tống Khuyết không đội khôi giáp, trên đầu chỉ buộc dây vải đỏ, đuôi dây vắt sang hai bên vai, gương mặt anh tuấn lại mang phong phạm học giả mỉm cười hiền hoà thâm tình, Thiên Đao đeo sau vai, cán đao nhô nghiêng lên vai trái, giục ngựa chạy tới như thiên thần giáng thế.
Trong nhóm tướng lĩnh tùy tùng có ba người tướng mạo khá đặc biệt, khi nhìn qua đã thấy đại tướng Lý Liêu, Khấu Trọng còn nhận ra “Hổ Y Hồng Phấn” Âu Dương Thiến, khi gã đến Lĩnh Nam gặp Tống Khuyết, từng lén nhìn thấy nàng. Hai người còn lại một mập một ốm, người mập thì như cái thùng phi, giáp trụ trên người ép chặt lấy thân khiến y muốn đùn thịt ra, mặc dù thân hình quá khổ, đặc biệt là cái bụng phì lũ như cái trống, nhưng lại khiến cho người ta có cảm giác linh động hoạt bát trái ngược hẳn với tướng mạo. Người ốm thì thân người dài ngoẵng, mặc đồ văn sĩ, có tướng mạo cao hơn rất nhiều so với người bình thường, mục quang sắc bén, lại thêm bộ râu dài tự nhiên, ngoại hình tiêu sái dễ nhìn. Hai người đều khoảng tứ tuần.
Những người còn lại đều là tướng lĩnh cùng binh mã của Tống gia. Khấu Trọng biết trong số đó có Tống Bang, người hộ tống Tống Ngọc Trí đến Trần Lưu gặp gã. Người của Tống gia mặc khôi giáp tướng lĩnh có mấy chục người, đều ở tuổi tráng niên, ai nấy thần thái anh dũng, tư thế hào hùng lộ rõ ra ngoài, khiến người ta không khỏi cảm thấy Tống phiệt binh hùng tướng mạnh, hảo thủ như mây.
Nhân mã hai bên cuối cùng cũng gặp nhau ở trên một ngọn đồi, thúc ngựa dừng lại.
Tống Khuyết ngẩng đầu cười: “Tốt lắm! Khấu Trọng ngươi làm tốt lắm, không phụ kỳ vọng của lão phu.”
Khấu Trọng cười khổ đáp: “Nếu phiệt chủ chỉ cần chậm một bước, tiểu tử có thể đã hồn quy địa phủ gặp các vị đại ca ngưu đầu mã diện làm quỷ sứ chuyên tâm vỗ mông ngựa cho bọn họ!”
Âu Dương Thiến nhịn không được cười phá lên, yểu điệu chớp mắt, sau đó cảm thấy có điều thất thố, bèn nghiêng đầu e ngại.
Tống Khuyết cũng không nhịn được cười, mục quang chuyển sang Bạt Phong Hàn, gã liền chắp tay cung kính chào: “Bạt Phong Hàn tham kiến phiệt chủ.”
Hai mắt Tống Khuyết phóng ra thần quang như xuyên thấu Bạt Phong Hàn, sau đó mặt nở nụ cười thân thiện, bảo: “Không ngờ rằng sau Tất Huyền còn có Bạt Phong Hàn ngươi, hèn gì người Đột Quyết có thể xưng bá thảo nguyên như vậy.”
Bạt Phong Hàn mỉm cười thoải mái, không đáp lời.
Sau đó, Tống Khuyết chỉ chư tướng hai bên giới thiệu cho hai gã biết, người mập chính là chủ nhân của Phiên Ngu “Lý soái” Vương Trọng Tuyên, người ốm chính là lãnh tụ của Lang thủy Trần Trí Phật, ngoài Âu Dương Thiến, các nhân vật siêu quần của Nam phương đều tụ tập ở đây.
Tống Gia chư tướng trừ Tống Bang, người khiến Khấu Trọng ấn tượng sâu đậm nhất chính là hai vị tướng lĩnh thanh niên tên Tống Sảng và Tống Pháp, từ khí khái của nhất lưu cao thủ, có thể tưởng tượng họ tung hoành giữa chiến trường anh dũng vô địch.
Mục quang của Tống Khuyết quét về phía quân Đường, như thể nhìn rõ trời đêm nhưng chẳng khác ban ngày, quan sát tình thế địch nhân, rồi điềm nhiên hòa hoãn nói: “Lý Thế Dân vất vả cả ngày đến nơi này đợi chúng ta tấn công ồ ạt, nhưng lão phu làm sao để hắn đạt được sở nguyện?”
Bạt Phong Hàn ngạc nhiên hỏi: “Phiệt chủ không định thừa thế công kích, để hắn triệt thoái khỏi Ấn Đàm sơn sao?”
Tống Khuyết cười mỉm, nhẹ giọng đáp: “Phong Hàn biết ta tại sao lại cố gắng đến chi viện trước trận đại tuyết tung hoành mà không đợi sang xuân mới lúc trời ấm hoa nở chăng?”
Bạt Phong Hàn im lặng suy tưởng một lúc, đột nhiên thở dài: “Phong Hàn phục rồi!”
Tống Khuyết ngửa mặt lên trời cười lớn: “Tốt! Không thẹn là nhân vật siêu trác cùng sinh tử với con rể ta sau này. Mọi người hãy nghe ta nói, ta sau này sẽ không cần tránh né gì nữa, từ giờ trở đi, Tống gia quân trở thành Thiếu Soái quân, chỉ nghe mệnh lệnh của Thiếu soái.”
Mọi người nghe thế đều hô to hưởng ứng, sĩ khí dâng trào.
Khấu trọng hoảng kinh nói: “Sao lại như thế được? Lão nhân gia người...?”
Tống Khuyết ngắt lời gã: “Đừng có như đàn bà thế! Đại trượng phu mà sợ cái gì? Tương lai thống nhất thiên hạ, hoàng đế chính là Khấu Trọng ngươi chứ không phải là Tống Khuyết ta, cái này là do tự bản lĩnh ngươi làm nên đấy!” Tiếp đó biểu hiện vẻ mỉm cười bình hòa: “Ngươi gần như một nửa là con ta rồi, lão phu không giúp ngươi thì giúp ai?”
Sau đó lão lại ngẩng đầu nhìn trời, nói: “Mọi người đều cho rằng người phương Nam rất bất lợi khi Bắc chiến, không chịu nổi gió tuyết, nên từ trước đến giờ, không có người phương Nam nào có thể chinh phục Bắc phương. Tống Khuyết ta không những không tin vào điều đó, còn có thể lợi dụng gió tuyết phương Bắc, hỗ trợ cho Thiếu soái đăng lên ngôi hoàng đế. Ta muốn chứng minh cho người phương Bắc thấy, thắng lợi tất thuộc về chúng ta.”
Khấu Trọng rúng động, cũng giống như Bạt Phong Hàn lúc nãy biểu hiện thần sắc bội phục sát đất.
Tống Khuyết vui vẻ hỏi: “Thiếu soái chắc đã hiểu.”
Khấu Trọng gật đầu đáp: “Tiểu tử ngu độn, đến lúc này mới rõ.”
Tống Khuyết quét mắt nhìn mọi người, bình tĩnh nói: “Lý Thế Dân bị bức phải lui về cố thủ Lạc Dương. Lần rút lui này trong vòng ba tháng đừng mong có thể phát binh nam hạ vì gió tuyết đã cản đường, chỉ đành nhìn ta quét sạch vùng cứ điểm chiến lược phía nam Lạc Dương vốn chưa ổn định căn cơ. Chúng ta lợi dụng thời khắc ba tháng quý báu này, lấy trước Tương Dương, Hán Trung, khống chế Đại Giang. Đến lúc trời ấm hoa nở vào đầu xuân năm mới chính là lúc chúng ta Bắc thượng.”
Bạt Phong Hàn trầm giọng hỏi: “Muốn công Lạc Dương, Tương Dương là đất phải tranh, nhưng còn Hán Trung, vì sao phiệt chủ lại trọng thị như vậy?”
Hai mắt Tống Khuyết bắn ra thần quang ánh lên trí tuệ không thể đoán, đáp: “Hán Trung là đất có hình thế hiểm yếu, phía trước khống chế đường bộ, phía sau có Tây Xuyên yểm trợ, phía trái thông với Kinh Tương giàu có, phía phải có ngựa của Tần Lũng. Bất kỳ ai muốn thủ cho được cửa phía bắc của Ba Thục, nhất định phải bảo vệ Hán Trung trước. Giải Huy ở Ba Thục vốn đã không còn nghe lời bản nhân, ta sẽ cắt tuyệt đường liên hệ duy nhất của hắn với Lý Đường, để hắn không còn dám vọng động gì nữa. Ba Thục định xong, Đại Giang sẽ là vật trong tay chúng ta, đâu đến lượt Tiêu Tiễn và Đỗ Phục Uy xưng vương xưng bá.”
Khấu Trọng vui mừng nói: “Đỗ Phục Uy lão nhân gia đồng ý toàn lực trợ giúp tiểu tử.”
Tống Khuyết bật cười nói: “Nếu vậy sẽ bớt cho chúng ta tốn một phen công phu. Khấu Trọng ngươi nên biết thiên hạ đã rơi vào tay ngươi một phần, Đỗ Phục Uy cũng đứng về phía chúng ta, ai dám cản đường cứ việc quét sạch, bằng vó ngựa uy dũng thống nhất nam phương với khí thế như cuồng phong quét lá. Trong chiến tranh, không đánh thì làm nhụt khí thế quân binh. Chúng ta nhân cơ hội Lý Đường không thể xuống phía nam, thống nhất hai bờ Đại Giang, lúc đó tranh thiên hạ, sẽ quyết định xem ngươi và Lý Thế Dân ai thắng ai bại.”
Khấu Trọng lúc này đối với chiến lược của Tống Khuyết vô cùng bội phục, khiêm nhường hỏi tiếp: “Sau khi Lý Thế Dân rút quân, chúng ta nên làm gì?”
Tống Khuyết cười nhẹ đáp: “Hiện giờ đại quân bắc thượng của chúng ta có bảy vạn, theo chân ta có ba vạn người, số còn lại đóng ở Bành Lương chờ lệnh. Tất cả hậu cần do Lỗ thúc phụ trách. Thuyền đội thủy sư của chúng ta phối hợp với Phi Luân chiến hạm của ngươi lại không bị gió tuyết ảnh hưởng, có thể đánh những trọng điểm chiến lược ở hai bên bờ thủy lộ, thậm chí có thể đến Ba Thục, đoạt lấy Hán Trung. Thiếu Soái quân là của ngươi, nói xem nên làm thế nào?”
Khấu Trọng nghe thế liền tâm lĩnh, hắng giọng đáp: “Tiểu tử minh bạch rồi! Lý Thế Dân rút thì ta cũng rút, bất quá chúng ta lấy lui làm tiến, trước về Bành Lương, thao luyện và tập hợp thủy sư, đợi cho gió tuyết đến, trước lấy Giang Đô, sau đó ngược dòng lên trên, phá Phụ Công Hựu, khống chế Tiêu Tiễn, rồi phân binh làm hai đường, một công Hán Trung, một đoạt Tương Dương, lúc đó Lạc Dương hay Trường An do chúng ta lựa chọn.”
Tống Khuyết cười lớn nói: “Trẻ con dễ dạy.”
Bạt Phong Hàn thán phục: “Chiến tranh như cờ thế, Phiệt chủ động một quân cờ liền cải biến ưu thế áp đảo của Lý Đường, lại không động đến một binh một tốt, nếu tại hạ là Lý Uyên, từ giờ trở đi mỗi thời khắc đều không thể ngủ yên.”
Hai mắt Tống Khuyết chớp lóe hàn quang, trầm giọng đáp: “Lý Uyên là cái thứ gì? Nhưng Lý Thế Dân đúng là nhân tài, khiến lão phu suýt tính lầm, may mà Khấu Trọng không làm lão phu thất vọng chút nào. Phong Hàn có biết tình thế mà Lý Thế Dân không thể không truy sát Khấu Trọng đều chính là do một tay lão phu tạo ra hay không?”
Bạt Phong Hàn cùng Khấu Trọng kinh ngạc đến sững sờ, thấy Tống Khuyết giống như một vị ma pháp sư chiến tranh, lật tay tạo mây, xoay tay làm mưa.
Thần thái của Tống Khuyết khôi phục lại vẻ tuyệt đối bình tĩnh, nhẹ nhàng nói: “Công phu hai mươi năm của lão phu vậy cũng không lãng phí, thiên hạ hình thế đều ở trong tay ta, mọi sự trọng yếu đều không giấu được. Lý Thế Dân xử tử Đậu Kiến Đức quả là điều thất bại lớn, khiến cho tình thế Hà Bắc phát sinh nhiều biến cố, đại tướng của Kiến Đức là Lưu Hắc Thát một lần nữa lãnh binh khởi nghĩa, kháng kích Đường quân. Vào lúc chúng ta Bắc thượng, Lý Thế Dân nhất định sẽ rơi vào thế bị giáp kích Nam Bắc. Lý Uyên à! Những ngày tươi đẹp của ngươi sắp hết rồi.”
Lúc này trời mờ sáng, Đường quân ở xa chỉ còn hơn vạn kỵ binh lược trận, những cánh quân còn lại nhanh chóng triệt thoái về phương hướng Ấn Đàm sơn.
- o O o -