Hồi 648
Tác giả: Huỳnh Dị
Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn cúi mình trên đầu núi phía bắc ngạn Đại Hà nhìn thấy chừng mười cỗ thủy sư thuyền của nhà Đường từ Hoàng Hà tiến vào kênh Thông Tế, toàn bộ là chuyến thuyền nhỏ có tính cơ động cao, binh sĩ trên thuyền nai nịt gọn gàng, trông sẵn sàng ứng biến bất kỳ lúc nào.
Dưới ánh mặt trời mùa thu vào đầu giờ chiều, cột buồm nhấp nháy sáng khí thế bừng bừng như muốn nói rằng chiến thuyền của Đại Đường ta mặc sức tung hoành trên sông hồ.
Khấu Trọng thở ra một hơi lạnh buốt: “Lẽ nào Lý Thế Dân liệu việc như thần đến thế, biết được rằng chúng ta sẽ quay lại Bành Lương, vì vậy mới cử binh đi ngăn chặn trước một bước?”
Bạt Phong Hàn hừ mũi: “Ai ngăn nổi chúng ta? Ôi lại có thuyền nữa đến kia kìa?”
Khấu Trọng nhìn về phía tây Đại Hà, chỉ thấy cánh buồm san sát, hơn hai mươi chiếc thuyền lớn đầy khí thế theo dòng sông tiến đến. Trên mười mấy chiếc thuyền chiến nhỏ khác, đuổi theo sau toán quân phía trước, từ từ tiến vào kênh Thông Tế.
Trên chiếc thuyền lớn chở đầy binh lính và quân trang, mớn nước chìm xuống rất sâu.
Hai người nhìn nhau, hơn năm mươi chiếc thuyền lầu chở binh lính và lương thực hàng hóa.
Khấu Trọng ngẩn người nhìn lá cờ tung bay trên con thuyền lớn, cười khổ: “Đây là hai đội tác chiến lục quân và thủy quân do Lý Thế Dân chỉ huy, có phải Lý Thế Dân định để chúng tấn công Trần Lưu không nhỉ?”
Bạt Phong Hàn im lặng tính toán rồi thở dài: “Kế hoạch phản công của ngươi có lẽ chấm dứt ở đây rồi. Lý Thế Dân quả là dụng binh như thần, đến đây cũng chiếm được tiên cơ, đoàn quân này ước tính phải đến ba vạn, được sự chi viện của thủy sư hùng mạnh, lại có Khai Phong thành chẹn cứng lấy đường thủy làm tổng bộ chỉ huy, tiến có công, lui có thể thủ, hoặc ít nhất thì cũng có thể phong tỏa Vận Hà, chặn đánh bật cứ đoàn quân nào tiến lên Bắc của ngươi. Nói thẳng ra là, ngươi có giữ được Trần Lưu hay không còn phải trông ở mệnh trời, đối phương theo dòng nước tiến xuống tấn công, ngươi thì lại ngược dòng mà phòng thủ. Lý Thế Tích lại là mãnh tướng thân kinh bách trận, tình thế của chúng ta quả thực hết sức bất lợi.”
Khấu Trọng thắc mắc: “Lý Thế Dân phải chăng là xem thường Đậu Kiến Đức thái quá, đoàn tinh nhuệ thủy sư lẽ ra là tiếp tục tiến về phía đông bảo vệ Ngưu Khẩu Chữ, Bản Chữ, Huỳnh Dương, Hà Âm mới đúng, đối phó với Thiếu Soái quân của ta như thế này chẳng phải là giết gà mà dùng dao mổ trâu sao?”
Bạt Phong Hàn lắc đầu: “Lý Thế Dân không sơ suất khinh địch đâu, nhất định là còn có cách khác để đối phó với đội quân của Đậu Kiến Đức.”
Khấu Trọng giật mình: “Ta hiểu ra rồi!”
Bạt Phong Hàn hỏi: “Ngươi hiểu cái gì?”
Khấu Trọng trầm giọng nói: “Ta hiểu sách lược đối phó Đậu Kiến Đức của Lý tiểu tử, sự thực thì đêm hôm kia khi chặn bắt chúng ta trên Đại Hà, y đã lộ ra ý đồ rồi, chính là dựa vào Hổ Lao để chống Đậu Kiến Đức. Lý tiểu tử quả có tài đại tướng, mặc cho Đậu Kiến Đức vượt sông tấn công các thành ở phía đông và phía tây Hổ Lao, chỉ cần hắn nắm được quyền khống chế Đại Hà là ta không thể tiến lên phương Bắc được. Đại quân của Đậu Kiến Đức sẽ biến thành cánh quân lẻ loi trong vòng vây của địch, cứ liên miên giao chiến công thành, khó tránh khỏi hao tổn, lúc đó quân mệt, ngựa mỏi, lại bị Lý Thế Dân phái người đánh tập hậu cắt đứt đường vận lương, lòng quân tất dao động, Lý Thế Dân sẽ có cơ hội chiến thắng.”
Bạt Phong Hàn biến sắc: “Thế thì làm sao bây giờ? Hay là chúng ta đến cảnh báo cho Đậu Kiến Đức?”
Khấu Trọng thở dài: “Bây giờ Đậu Kiến Đức đang tự tin như thế, nói gì cũng không lọt tai y đâu, nhất là lại do ta cảnh báo thì y lại còn cho rằng ta hại y nữa. Ôi, cứ vượt sông hãy hay. Nếu không giữ được Trần Lưu, để thủy sư Đại Đường theo Vận Hà xuôi xuống nam, đến thẳng Giang Đô, Thiếu Soái quân của ta sẽ bị Lý Thế Tích nhổ cả gốc lẫn rễ, còn gay go hơn cả Lạc Dương.”
Bạt Phong Hàn nhảy dựng lên: “Việc không thể chậm trễ, chúng ta đi ngay.”
o0o
Từ Tử Lăng chậm rãi lên núi, trong lòng thấy yên tĩnh lạ thường.
Tiếng chuông của giờ đọc kinh tối vẳng xuống từ đỉnh núi nhuộm trong ráng chiều, mỗi hồi chuông như chân ngôn của người xuống tóc, gõ thẳng và trái tim của Từ Tử Lăng. Phật giáo là một tôn giáo hòa bình, giả sử người ở tái nội và Tái ngoại đều hết lòng tin theo Phật giáo thì thiên hạ sẽ thái bình nhưng điều này vĩnh viễn không thể nào trở thành sự thật, quần ma làm loạn, hai nhà Phật, Đạo phải liên thủ chống lại, vệ đạo trừ ma.
Có điều cuộc đấu tranh quả thực đã vi phạm lý tưởng của Phật môn, vì vậy thế hệ Từ Hàng Tịnh Trai chọn ra những truyền nhân kiệt xuất nhất gánh vác trọng trách này, khiến Không môn không phải tiến vào vòng mưa máu gió tanh.
Mưa gió ở Lạc Dương không hề ảnh hưởng đến sự hòa bình của nơi tụng niệm Thiền tông. Chẳng hạn như kẻ tấn công là quân lang sói Đột Quyết thì đã đi một lẽ. Vì vậy trọng trách mà sư Phi Huyên phải gánh ngoài mục đích là vì hạnh phúc của nhân dân cũng còn vì bảo vệ Sa môn.
Ôi! Sư Phi Huyên!
Gã mong muốn làm sao Sư Phi Huyên cũng giống như lần trước, đang lặng lẽ đợi gã trong thiền viện, gã có thể dốc hết tâm sự và nỗi thống khổ trong lòng với nàng, để cho suy nghĩ sáng suốt của nàng mở lối dẫn đường cho gã, nhưng gã cũng biết mình không còn cơ hội gặp lại nàng nữa, ý nghĩ ấy khiến gã tan nát cõi lòng.
Đi hết bậc thang, Tử Lăng lên đến đỉnh đồi, khoảnh sân trước Đại Hùng bảo điện vắng ngắt không một bóng người, chúng tăng trong chùa đang tập trung ở nhà đọc kinh trước Đồng điện, tiếng đọc kinh và tiếng gõ mõ vang vọng trong không gian.
Tử Lăng định thần, chắp tay sau lưng, tiến vào cửa viện.
Một người đang thong thả bước ra khỏi Đại Hùng bảo điện, tiến xuống bậc cấp, vẻ mặt sáng sủa thanh tú, chính là Liễu Không, trụ trì tụng niệm Thiền tông. Trông ông rất bình tĩnh, tủm tỉm cười tựa hồ đang có ý chờ Tử Lăng tới.
Một cảm giác thân thiết khó diễn tả trào lên trong lòng Từ Tử Lăng, cảm giác đó như là lăn lộn quá nhiều năm bên ngoài, chịu bao nhiêu giày vò thất bại nay được trở về gặp người thân, vừa cảm động vừa muốn khóc. Gã đứng ngẩn ra ngạc nhiên.
Liễu Không tiến lại gần, chấp tay mỉm cười: “Tử Lăng có khỏe không?”
Từ Tử Lăng cười khổ: “Đại sư mới là khỏe ấy, tiểu tử ít phúc khổ lắm.”
Liễu Không khẽ niệm phật, hiền từ nói: “Xin mời Tử Lăng theo ta.”
Từ Tử Lăng theo sau bậc kỳ nhân có thể cải lão hoàn đồng này, vòng qua Đại Hùng bảo điện, đi qua khoảng sân mà các tăng nhân đang tụng niệm, tiến vào Đại Hùng bảo điện.
Vì trời tối, chúng tăng hoàn toàn không biết Từ Tử Lăng đến nên không ai lộ vẻ chú ý.
Từ Tử Lăng không dám kinh động đến sự thanh tĩnh của họ, cho đến khi bước vào con đường đá hai bên trồng toàn trúc, không nhịn được mới hỏi: “Hình như đại sư biết rằng ta sẽ đến đúng không?”
Liễu Không bình thản đáp: “Có thế nói như vậy. Vừa rồi ta đang đã tọa trong thiền thất, bỗng nhiên sinh tục niệm nên mới bước ra ngoài cửa núi xem, nào ngờ gặp ngay Tử Lăng.”
Đi qua các tăng xá, lại một lần nữa Từ Tử Lăng đặt chân lên con đường có hai bên vách khắc toàn những phù điêu tượng Phật, tự dưng bị ảnh hưởng bởi không khí thâm u của đạo Phật rũ sạch lòng trần bỗng có cảm giác muốn thoát ly trần thế. Từ Tử Lăng khẽ thở dài: “Lần này ta đến bái kiến đại sư là muốn nhờ đại sư chuyển lời cho Sư Phi Huyên, nói với cô ấy rằng Tử Lăng không chỉ phụ sự ủy thác mà còn bội ước để cuốn vào cuộc đấu tranh giữa Khấu Trọng và Lý Thế Dân.”
Liễu Không khẽ niệm Phật, nhưng không hề trách cứ, dẫn gã đi thẳng đến Phương trượng viện ở sát vách đá. Đi qua cửa không vào, đặt chân lên con đường rải sỏi ở một vạt rừng trúc khác, đến một nơi có thể trông thấy tường thành Lạc Dương, đứng im, bất động.
Từ Tử Lăng tựa như không dám quấy rối sự tập trung sự suy nghĩ của ông nên dè dặt đứng nhích về phía sau một chút. Gió đêm thổi tới như nước triều khiến vạt áo hai người bay lất phất.
Đèn đuốc ở thành Lạc Dương phía xa trông vàng vọt thê lương khó tả. Liễu Không khẽ nói: “Phi Huyên đã đoán trước rằng mọi việc sẽ thế này nên đã chỉ ra rằng nếu xuất hiện tình huống này, thì nhất định không phải là do ngươi không chịu từ bỏ tình cảm huynh đệ với Khấu Trọng mà cho rằng đó là điều hợp nhất với phúc phận của bá tánh.”
Từ Tử Lăng ngẩn người: “Phi Huyên quả thực đã nói thế à?”
Liễu Không phì cười rồi mắng rằng: “Nhà Phật không biết nói dối. Tử Lăng tưởng rằng bần tăng lừa ngươi để an ủi ngươi chăng?”
Từ Tử Lăng nói với vẻ hối lỗi: “Xin đại sư chớ trách, chỉ là vì... chỉ là vì Lý Thế Dân là người Phi Huyên chọn kế thừa Hòa Thị Bích, mà ta thì lại đối đầu với hắn, có lẽ đã làm trái lại ý chỉ của Phi Huyên rồi.”
Liễu Không mỉm cười hỏi: “Hòa Thị Bích ở đâu?”
Từ Tử Lăng ngạc nhiên ngẩn người.
Liễu Không nhìn gã ánh mắt bí hiểm, khuôn mặt trang nghiêm, giọng điệu hiền hòa: “Người nào buộc dây thì người ấy sẽ cởi. Chuyện tương lai chẳng ai đoán được, chúng ta là người của Không môn, khó mà trực tiếp dấn thân vào chém giết đấu tranh của trần ai, chỉ có thể chọn người xứng đáng để bảo vệ Sa môn của chúng ta.”
Từ Tử Lăng hiểu ra: “Lý Thế Dân chính là người bảo vệ mà Phi Huyên chọn.”
Liễu Không lắc đầu: “Lý Thế Dân chỉ là người may mắn mà Phi Huyên chọn để bảo vệ bá tánh. Còn Sa môn hộ pháp thì là người khác, mà người đó chính là Từ Tử Lăng.”
Từ Tử Lăng la lên: “Gì cơ?”
Liễu Không mỉm cười: “Quyết định đó của Phi Huyên chưa hề dẫn đến một sự tranh luận nào trong Sa môn, Ninh Đạo Kỳ thì càng đồng ý. Từ Lăng được truyền bí pháp của Chân Ngôn đại sư đâu phải là ngẫu nhiên, đó là do cơ duyên của số phận. Có nhân tất có quả, có quả tất có nhân, nhân quả có liên quan với nhau, biển khổ vô biên, Từ Lăng đã trôi nổi trong biển khổ, nhất định có nhiều điều phiền não, chỉ cần có thể giữ gìn được chính giác, thì khổ đã làm sao, sướng đã làm sao?”
Trong lòng Từ Tử Lăng dạt dào sôi nổi, thì ra chính gã lại là Sa môn hộ pháp do Phi Huyên khâm tuyển, rốt cuộc là chuyện gì nhất thời gã ngỡ ngàng không hiểu, muôn vàn cảm xúc trộn rộn trong lòng. Sư Phi Huyên quả thật coi trọng gã quá!
Từ Tử Lăng cau mày: “Liệu có nhầm lẫn gì không? Chưa bao giờ cô ấy tiết lộ gì với ta về việc hộ pháp cả?”
Liễu Không đáp: “Được thì được, không được thì thôi, việc gì mà phải nói.”
Từ Tử Lăng nghi hoặc: “Bây giờ thì hình như ta phá hoại nhiều hơn bảo vệ. Nói thế nào mới được đây. Phi Huyên thường trách móc ta không khuyên được Khấu Trọng rút lui khỏi cuộc phân tranh. Bây giờ ta lại còn tham gia vào cuộc tranh giành đó nữa, nếu Phi Huyên quả thực đã từng tuyển ta làm hộ pháp thì sau khi biết được tình hình hiện nay thì chắc chắn sẽ rút lại quyết định. Sự việc mà cô ấy không mong muốn nhất đã đang xảy ra. Một khi Tống Khuyết bắc thượng thì thiên hạ sẽ chia thành cục diện Nam Bắc đối đầu, chẳng biết đến ngày nào thiên hạ mới thái bình.”
Liễu Không khẽ than “Thiện tai!”, rồi bình tĩnh nói: “Chuyện đời rất phức tạp, ai có thể dùng trí tuệ của mình để phán đoán được tất cả những sự biến đổi trong tương lai! Chúng ta chỉ có thể lựa chọn dựa theo những nhận định của bản thân, Từ Tử Lăng cũng chỉ có thể hành xử theo lòng mình, không cần phải nghĩ đến những việc khác. Nếu Tử Lăng phiền muộn vì sự việc hiện nay, chỉ vì thời cơ nhất thống thiên hạ và hòa bình chưa đến, khi thời cơ đến rồi thì Tử Lăng khắc hiểu. Lão nạp chỉ nói đến đây thôi. Tuy Phi Huyên ở Tịnh Trai nhưng lòng vẫn ở giang hồ, không có chuyện gì che mắt được cô ấy. Tử Lăng đi đi!”
o0o
Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn đến được Trần Lưu thì họ vui mừng quá sức vì Hư Hành Chi đã điều binh khiển tướng xong xuôi, gọi cả Tuyên Vĩnh và một vạn năm ngàn Thiếu Soái quân đến tăng cường phòng thủ cho thành Trần Lưu, không chỉ gia cố phòng ngự mà còn cho quân đêm ngày xây dựng thạch trại ở các cứ điểm hai bờ Vận Hà, sĩ khí dâng cao, dân quân một lòng phấn đấu vì sự tồn vong.
Ngoài Tuyên Vĩnh và hai phó tướng đắc lực của y là Cao Chí Minh và Chiêm Công Hiển, Bốc Thiên Chí còn chỉ huy thủy sư của Thiếu Soái quân gồm ba con thuyền lớn, hai mươi bốn Phi Luân thuyền và ba mươi ba hạm đội bảo vệ dải đường sông của Trần Lưu.
Tính thêm Trần Trường Lâm và ba nghìn quân thủ thành thì tổng binh lực ở Trần Lưu đã đạt hơn hai vạn, tuy không đủ để tấn công Khai Phong nhưng vẫn thừa sức giữ Trần Lưu.
Tuyên Vĩnh và Lạc Kỳ Phi ra đón hai người. Cây cối ở Trần Lưu đã bị chặt sạch, phơi ra cả một khoảng trơ trụi. Hai người ra khỏi thành năm dặm.
Khấu Trọng giới thiệu cho Bạt Phong Hàn làm quen với Tuyên Vĩnh và Lạc Kỳ Phi xong thì ngạc nhiên hỏi: “Các ngươi gieo quẻ hay sao mà biết Lý Thế Dân sẽ tấn công Trần Lưu để đến trước chuẩn bị thế?”
Tuyên Vĩnh hân hoan đáp: “Chúng ta đâu có năng lực gieo quẻ tiên tri ấy, mà phải khâm phục Hư quân sư sáng suốt nhìn xa trông rộng, Thiếu soái đi rồi, quân sư đến tìm chúng ta thương nghị, cho rằng Lý Tử Thông không đáng lo ngại, vì vậy có thể dời trọng binh đến đóng ở Lương Đô và Trần Lưu để ứng phó với những chuyện bất ngờ, khi Thiếu soái cần thì có thể xuất binh đánh Hổ Lao và chi viện cho Lạc Dương, nếu không thì là bỏ gốc lấy ngọn rồi.”
Bạt Phong Hàn nhảy lên một con ngựa do binh sĩ dẫn tới, cười nói: “Chắc phải phong Hư quân sư của các ngươi thành Quốc sư mới đúng.”
Khấu Trọng cười ha hả: “Có lý. Suy nghĩ của Hành Chi còn chu đáo hơn ta”, lại hỏi Kỳ Phi rằng: “Ở đằng Khai Phong có động tĩnh gì không?”
Lạc Kỳ Phi cung kính đáp: “Quân Đường xua thủy sư trọng quân đến Khai Phong xong thì án binh bất động, tạo thành thế đối lập với chúng ta. Chúng ta đang lo lắng không biết nên công hay nên thủ thì may quá, Thiếu soái đã về làm chủ, chúng ta không phải phiền lòng và tranh luận về việc đó nữa.”
Khấu Trọng ngạc nhiên hỏi: “Ai là người chủ chiến?”
Tuyên Vĩnh thẳng thắn nói: “Là thuộc hạ. Hạ quân dẫn binh đến Vũ Trắc bất kỳ lúc nào cũng có thể vượt sông. Nếu chúng ta không phối hợp thì sẽ để lỡ mất cơ hội tốt.”
Khấu Trọng hơi ngạc nhiên, lộ vẻ trầm tư rồi nhảy lên lưng ngựa, tươi cười rồi bật ngón tay cái bảo: “Không hổ là mãnh tướng hàng đầu của Thiếu Soái quân, đối mặt với cường địch vẫn không khiếp sợ. Vậy thì người chủ thủ là ai?”, vừa nói vừa thúc ngựa phi.
Mọi người cùng phi ngựa theo, Tuyên Vĩnh nói: “Là Hư quân sư, y nói nhất định phải liên lạc trước với Thiếu soái, làm rõ tình hình, xác định xem nên tiến hay thoái, nếu không, chẳng may thất bại, địch nhân men theo Vận Hà tiến xuống nam, cái gốc của Thiếu Soái quốc sẽ lung lay, thuộc hạ cũng đồng ý với ý kiến của Quân sư.”
Khấu Trọng vui vẻ nói: “Các ngươi có thương lượng có mưu định trước rồi mới hành động, quả là phúc khí của Thiếu Soái quân. Ta và lão Bạt sẽ đi Lạc Dương trước khi trời tối, mong rằng trong mấy canh giờ nữa có thể sắp xếp xong xuôi. Ôi, ta đói meo rồi.”
o0o
Từ Tử Lăng ngồi ở một ngọn núi khác gần Tịnh Niệm Thiền Tông, thẫn thờ nhìn về Lạc Dương ở phía xa, trong lòng nhớ đến câu “khoảng khắc hiện tại” của Bạt Phong Hàn.
Gã biết mình đang nhìn Lạc Dương, muốn làm được điều đó nói thì dễ như trở bàn tay: đang nhìn Lạc Dương đồng thời biết là mình đang nhìn Lạc Dương, hệt như có hai bản ngã, một cái là mình với thể xác, một cái là mình trên tinh thần, dùng tinh thần để dò xét thể xác quả thực là một sự tập trung cao độ.
Nhưng cái khó của tâm pháp này là không thể kéo dài được, suy nghĩ của con người cứ biến đổi liên, trong thoáng chốc mình có thể bị hấp dẫn hoặc bị phân tán vì một việc gì đó. Nhưng vấn đề lớn hơn là làm thế chẳng có chút hứng thú nào cả, vì vậy đây là sự khổ hạnh về tinh thần theo kiểu Bạt Phong Hàn khiến y trở thành kiếm thủ đáng sợ nhất trên đời, một người có tư cách trong một thời gian ngắn khiêu chiến Tất Huyền.
Ví dụ bây giờ gã đang nhớ Sư Phi Huyên da diết, đó là cảm xúc không thể đè nén, giống như nước xô vào phá vỡ đê.
Gã muốn khóc, lại bỗng cảm thấy có lỗi với Thạch Thanh Tuyền. Gã đã quyết tranh thủ nàng ta, thì không nên vương vấn Sư Phi Huyên nữa, nhưng cảm xúc đó khó mà cầm được.
Vì sao Phi Huyên lại chọn gã làm hộ pháp Sa môn? Có phải nàng đánh giá cao gã không?
Nếu hiện tại có Phi Huyên thì thích biết bao, gã có thể nghe cái giọng êm ái như tiếng tơ, thủ thỉ tâm sự với nàng duyên do, rồi thông qua Phật lý tinh thâm của nàng để giải thích những nhân quả duyên phận vi diệu.
Gã không có yêu cầu gì khác, chỉ hy vọng trước khi nàng đắc đạo có thể giống như Ngưu lang Chức nữ trên trời, xa nhau một thời gian lại được gặp mặt, dẫu gặp một cách thuần túy thôi.
Đột nhiên gã lại nhớ tới “khoảng khắc hiện tại” của Bạt Phong Hàn, lại một lần nữa cảm thấy đang nghĩ đến Sư Phi Huyên, lại hối lỗi với Thạch Thanh Tuyền, cũng vì thế mà suy nghĩ vượt qua cả nhớ mong và hối lỗi.
Từ Tử Lăng bàng hoàng sực hiểu, tâm pháp của Bạt Phong Hàn quả là pháp môn vô thượng của tu hành. Càng có thể thấy rằng trong lòng Bạt Phong Hàn nhất định là đang tràn đầy mâu thuẫn và thống khổ, vì vậy phải dùng chiêu thức “đối chứng hạ dược” để khu trừ tâm ma, để bản thân có thể “tỉnh” khỏi giấc mộng kinh tỉnh trong đời người.
Từ Tử Lăng nghĩ tới đây, chợt lên tinh thần, hệt như rút ra khỏi “khoảng khắc hiện tại”, nỗi đau và sự mâu thuẫn vì nhung nhớ lại thuộc về gã, đồng thời cũng không thuộc về gã. Loại cảm giác đó vi diệu khó tả, và khổ sở đến mức không còn gì khổ hơn.
Từ Tử Lăng đứng dậy, chăm chú nhìn về phía Lạc Dương.
“Boong! Boong! Boong!”
Tiếng chuông bên Thiền viện vang lên sau lưng.
Chưa từng có lúc nào mà gã rõ hơn lúc này rằng võ công của mình đã có đột phá, đạt tới một cảnh giới tinh thần mà chưa bao giờ mơ tưởng tới.
Áp lực của chiến tranh đang giày vò gã rất khổ suốt mười mấy ngày qua, khiến gã có cảm giác tội lỗi là đã có lỗi với Sư Phi Huyên. Nhưng bây giờ gã thành công là đã thoát được cảm giác vướng bận đó, tinh thần nhục thể tách đôi, mà cũng là hợp nhất.
Đây chính là cách thể hiện của tâm pháp “có” và “không” mà gã lĩnh ngộ trước đây.
Do có vào không, do không vào có.
Gã không chỉ nghe thấy tiếng ve sầu tiếng côn trùng nỉ non bốn bên, mà còn hưởng thụ cảm giác đê mê vì Sư Phi Huyên.
Từ Tử Lăng phì cười, tất cả mọi phiền não được quét sạch, cảm giác được mình bước đi, thi triển thân pháp, mặt đất lùi về phía sau, vượt qua núi đồi, tiến về Lạc Dương.
- o O o -