Chương 22
Tác giả: Richard Adams
Có phải hắn không có khuôn mặt của kẻ lừa đảo? ... Khuôn mặt đáng nguyền rủa của Tyburn chẳng thể mang về lợi ích cho giới tu sĩ.
Tình Yêu cho tình yêu của Congreve
Loài thỏ (theo ông Lockley) cũng có nhiều điểm giống con người. Một trong những điểm đó chắc chắn là khả năng chống chọi tai ương và để cho dòng đời đẩy mình về phía trước, vượt qua những đau khổ và mất mát. Chúng có một đặc tính cố định nhưng rất khó miêu tả nó cho chính xác là sự tàn nhẫn hay thờ ơ. Nó thực chất là trí tưởng tượng giới hạn được trời phú và một trực cảm rằng Cuộc sống là Hiện tại. Một con thú hoang bị dồn đuổi với mục tiêu sống còn vượt trên tất cả thì sẽ mạnh mẽ như loài cỏ dạỉ. Với tư cách một giống nòi loài thỏ có được sự an toàn dựa vào lời hứa của Thần Mặt trời đối với El-ahrairah. Chưa đầy một ngày trôi qua sau khi Nhựa Ruồi, trong cơn mê sảng, bò đến chân rặng núi Watership Down. Tuy vậy, chú gần như đã bình phục, trong khi đó, anh bạn Hoa Chuông vô tư hơn thậm chí còn có vẻ không bị ảnh hưởng nhiều lắm sau những thảm họa khủng khiếp mà cậu vừa trải qua. Cây Phỉ và bạn bè chú quả có buồn đau và kinh hoàng hết sức trong lúc lắng nghe câu chuyện của Nhựa Ruồi. Nồi Đất khóc lóc và run rẩy một cách thương tâm trước cái chết của Cỏ Lưỡi Mèo, còn Quả Sồi và Thủy Cự thì đã phải kìm những tiếng nấc nghẹn ngào khi Hoa Chuông miêu tả khí độc đã giết chết những chú thỏ ở dười đất như thế nào. Tuy vậy, cũng như với người nguyên thủy, sự cảm thông sâu sắc và mạnh mẽ của chúng cũng đồng hành với cảm giác được giải thoát thực sự - thứ xúc cảm không hề giả tạo hay phải cố gắng làm ra thế. Khi mọi chuyện được kể lại, chúng lắng nghe không có một chút nỗi nghi ngờ hoặc thờ ơ mà ngay cả những con người văn minh tốt bụng nhất vẫn cảm thấy khi đọc một bài báo. Chúng có cảm tưởng như chính mình đang vật lộn trong những lối đi đầy khí độc và nổi cơn điên khùng với Cây Phiền Lộ trong cái hào cạn. Đó là cách chúng tỏ lòng tôn trọng người chết. Khi câu chuyện chấm dứt thì những yêu cầu của cuộc sống thực tế đầy khó khăn, nhọc nhằn lại trỗi dậy trong mỗi trái tim, hệ thần kinh, trong máu và dạ dày của chúng. Giá như những chú đã chết kia đừng chết! Nhưng ngoài kia vẫn còn có cỏ cần phải ăn, rau cần phải nhai, chất thải cần phải phóng ra, hang cần phải đào và đến lúc mệt thì vẫn cần phải lăn ra ngủ như thường. Ngày xưa ấy, người anh hùng Odysseus có mang được người bạn đồng hành nào lên bờ cùng vơai mình đâu. Thế mà ông vẫn ngáy khò khò bên nữ thần Calypso kiều diễm và đến khi thức dậy lại chỉ nghĩ về Penelope mà thôi.
Từ trước khi Nhựa Ruồi kết thúc câu chuyện của mình, Cây phỉ đã cúi xuống ngửi ngửi cái tai bị thương của Đội trưởng. Trước đấy, chú còn chưa có lúc nào để xem kỹ vết thương này, nhưng bây giờ trong khi kiểm tra, chú nhận ra rằng nỗi sợ hãi và sự rnệt mỏi không phải là nguyên nhân chính khiến Nhựa Ruồi suy sụp đến thế. Đội trưởng chắc chắn là bị thương nặng, còn nặng hơn Gạc Nai nữa. Chắc chắn anh ấy đã mất nhiều máu. Tai anh ấy rách te tua như một dải ruybăng và có cả một cục đất bám vào đó. Cây Phỉ không khỏi bực mình với anh bạn Bồ Công Anh. Khi một vài chú thỏ bị màn đêm tháng Sáu dịu dàng với vầng trăng tròn vành vạnh trên đầu lôi kéo đã bỏ đi kiếm ăn trên mặt đất, chú bảo Mâm Xôi chờ mình. Xám Bạc đã toan rời khỏi hang bằng lối đi khác, cũng quay lại nhập hội với chúng.
"Bồ Công Anh và hai người kia chắc chỉ chăm chăm chú chú làm cho tính thần của anh phấn chấn hơn." Cây Phỉ nói với Nhựa Ruồi "Đáng giận là họ đã không làm sạch vết thương. Đất cát dính vào như thế này rất nguy hiểm."
"Được rồi, anh thấy đấy..." Hoa Chuông bắt đầu, chú ta vẫn còn nán lại bên cạnh Nhựa Ruồi.
"Không phải lúc đùa cợt đâu," Cây Phỉ ngắt lời "hình như anh nghĩ rằng…"
"Nhưng tôi đâu có đùa." Hoa Chuông nói "Tôi chỉ định nói rằng tôi cũng muốn lau sạch tai Đội trưởng, nhưng mà nó quá nhạy cảm nên không thể chạm vào."
"Cậu ta nói đúng đấy." Nhựa Ruồi nói "Tôi e là mình đã không cho họ đụng đến. Nhưng hãy làm điều mà anh nghĩ là tốt nhất, Cây Phỉ ạ. Tôi thấy trong người đã khá hơn nhiều."
Cây Phỉ bắt đầu xem xét cái tai kỹ hơn. Máu đóng lại thành cục cứng ngắc, đen bầm và công việc này đòi hỏi lòng kiên nhẫn. Một lúc sau vết thương dài và lởm chởm bắt đầu rỉ máu sau khi đã được lau sạch. Xám Bạc tiếp tục công việc. Nhựa Ruồi gắng chịu đau hết sức mình, gầm gừ, oằn mình vì đau đớn và Xám Bạc phải cố tìm ra cái gì đó khiến chú ta chú ý mà phần nào quên đi cái đau.
"Cây Phỉ này," chú cất tiếng hỏi "ý tưởng mà anh nói đến là gì vậy - về con chuột ý? Anh bảo sẽ giải thích sau mà. Sao không nói cho chúng tôi nghe ngay bây giờ."
"Được thôi," Cây Phỉ bắt đầu "ý tưởng đấy chỉ đơn giản là thế này, trong hoàn cảnh của chúng ta không nên lãng phí bất cứ một điều gì có khả năng mang lại lợi ích về sau. Chúng mình đang ở một nơi xa lạ, lại còn chả biết gì mấy nên cũng cần bạn bè chứ. Rõ ràng là kẻ thù thì không thể làm điều gì tốt cho chúng ta hết, nhưng ở đây còn nhiều những sinh vật không phải là kẻ thù: chim, chuột, nhím và nhũng loại khác nữa. Loài thỏ chúng ta thường không có liên hệ mấy với những loài này, nhưng kẻ thù của họ cũng là kẻ thù của chúng ta trong nhiều trường hợp. Tôi nghĩ chúng ta hãy làm tất cả để các sinh vật này trở thành bạn. Điều này có thể giúp cho ta rất nhiều trong lúc khó khăn hoạn nạn."
"Tôi không thể nói rằng mình ủng hộ ý kiến đó." Xám Bạc vừa nói vừa lau chỗ máu rỉ ra trên mũi Nhựa Ruồi "Tôi cho rằng những con vật nhỏ này đáng bị xem thường hơn là có thể nhờ cậy được. Chúng thì làm được cái quái gì giúp ta chứ? Không thể đào hang cho ta, không kiếm thức ăn giúp ta mà cũng chẳng thể đánh nhau vì ta nữa. Chúng sẽ nói chúng rất thân thiện, điều đó thì chẳng có gì phải nghi ngờ, nhưng chỉ trong lúc mà ta còn giúp đỡ chúng, nhưng chuyện này đến đây phải chấm dứt. Tôi nghe con chuột đó hứa, 'Nếu anh cần chúng tôi sẽ đến.' Anh đánh cuộc là chúng sẽ đến, chừng nào mà nơi này còn thức ăn hoặc chỗ núp, nhưng chắc chắn một điều là chúng ta không mong nơi này đầy nhóc những con chuột và... bọ vừng, phải không?"
"Không, tôi không có ý như thế." Cây phỉ nói "Tôi không đề nghị mọi người phải đi tìm chuột đồng và mời chúng đến ở với chúng ta. Dù sao thì chúng sẽ chẳng cám ơn chúng ta về điều đó. Nhưng con chuột tối nay… chúng ta đã cứu sống nó…"
"Anh đã cứu nó thì đúng hơn." Mâm Xôi chữa lại.
"Được rồi, đằng nào nó cũng được cứu mạng. Nó sẽ nhớ điều này."
"Nhưng mà liệu nó có thể làm gì giúp chúng ta chứ?" Hoa Chuông thắc mắc.
"Trước hết là nó có thể nói cho chúng ta những gì nó biết về nơi này…"
"Chuột thì biết được quái gì! Mà dẫu có biết thì cũng không phải những điều loài thỏ muốn biết."
"Được rồi, tôi thừa nhận một con chuột có thể có hoặc chẳng ích lợi gì cho chúng ta." Cây Phỉ từ tốn nói "Nhưng tôi chắc rằng một con chim thì sẽ có ích nếu chúng ta có thể làm một cái gì đó cho nó. Chúng ta không biết bay, còn một vài con chim thì lại biết tường tận về nơi này. Chúng cũng biết khá nhiều về thời tiết. Tất cả những điều tôi muốn nói chỉ có vậy. Nếu bất cứ ai thấy một con vật hoặc một con chim không phải là kẻ thù của ta đang cần sự giúp đỡ thì hãy vì Chúa, đừng bỏ lỡ cơ hội. Điều này chẳng khác nào để cà rốt mục rữa trong đất."
"Vậy anh nghĩ thế nào?" Xám Bạc quay sang hỏi Mâm Xôi.
"Tôi nghĩ đó là một ý hay, nhưng những cơ hội thực sự theo cái kiểu mà Cây Phỉ nghĩ thì không hay xuất hiện đâu."
"Tôi nghĩ điều này đúng đấy." Nhựa Ruồi nhăn mặt nói khi Xám Bạc tiếp tục liếm vào tai chú "Ý kiến này chỉ đúng về mặt lý thuyết, nhưng sẽ không có nhiều dịp để áp dụng trong thực tiễn đâu."
"Tôi sẵn sàng thử một phen." Xám Bạc nói "Tôi cho rằng cũng đáng làm thế, chỉ để xem xem Tóc Giả sẽ kể những câu chuyện ru ngủ cho một con chuột chũi như thế nào."
"El-ahrairah từng làm điều đó," Hoa Chuông chen vào "và nó đã có hiệu quả. Các anh không nhớ à?"
"Không," Cây phỉ lên tiếng "tôi không biết câu chuyện ấy. Anh kể đi."
"Hãy đi ăn cái đã." Nhựa Ruồi nói "Cái tai này đã lấy hết tất cả sức lực của tôi vào lúc này."
"Phải, ít nhất thì bây giờ nó cũng sạch rồi." Cây Phỉ nhận xét "Nhưng tôi e nó sẽ không bao giờ được lành lặn và nguyên vẹn như cái tai kia nữa. Anh sẽ có một cái tai lởm chởm."
"Không hề chi," Nhựa Ruồi nói to "dù sao tôi cũng là một trong những kẻ may mắn."
Mặt trăng tròn vành vạnh uy nghi mọc lên trên bầu trời phía Đông không một gợn mây, bao phủ vùng núi cao yên bình này trong làn ánh sáng bàng bạc. Loài người chúng ta không ý thức được ánh sáng ban đêm chính là thứ đã đẩy lùi bóng đêm. Ánh sáng ban ngày, kể cả khi mặt trời không bị mây che khuất, đối với chúng ta dường như chỉ đơn giản là điều kiện tự nhiên của trái đất và không khí. Mỗi khi nghĩ về những dãy núi, ta có trong đầu hình ảnh núi non hiện lên trong ánh mặt trời, cũng giống như khi ta nghĩ về con thỏ với bộ lông của nó. Stubbs (Có lẽ tác giả muốn nói đến George Stubbs (1724-1806), một họa sĩ nổi tiếng chuyên vẽ về ngựa.) có thể nhìn thẳng vào bộ xương bên trong con ngựa, nhưng hầu hết chúng ta thì không: cũng vậy, chúng ta không thể nhìn thấy núi đồi nếu thiếu ánh sáng, cho dù ánh sáng không phải là một phần của những dãy núi như kiểu bộ da là một phần của chính con ngựa. Chúng ta coi ánh sáng mặt trời như một điều hiển nhiên. Nhưng ánh trăng là một vấn đề khác. Nó không liên tục. Trăng tròn rồi lại khuyết. Những đám mây có thể che kín trăng nhưng không thể che kín như vậy với ánh sáng ban ngày. Nước rất cần thiết cho chúng ta nhưng một thác nước thì không. Ở những nơi có thác nước, nó chỉ được coi như một thứ thêm vào, một vật trang trí đẹp đẽ. Chúng ta cần ánh sáng đến mức nó là yếu tố của sự sống, nhưng ánh trăng thì chúng ta không cần. Dù trăng có mọc hay không, sự hiện diện của nó cũng không phải điều cần thiết. Trăng luôn thay đổi. Nó dát bạc lên bãi bờ, cây cỏ, phân biệt những cọng cỏ dài khỏi những cọng khác, biến một khối nâu nâu phủ đầy sương giá của một lùm cây thành hằng hà sa số những đốm nhỏ phát sáng; hoặc hắt thứ ánh sáng mờ mờ dọc theo những cành cây ướt đẫm sương đêm như thể bản thân ánh sáng cũng uốn mềm được. Những chùm ánh trăng dài đổ xuống, trắng và sắc lẻm, giữa những thân cây, độ sáng mờ dần khi chúng lùi sâu vào cái khoảng không bùi bụi, mờ sương của những cánh rừng sồi lúc nửa đêm. Dưới ánh trăng, hai héc ta cỏ ống thô ráp cao đến đầu gối, nhấp nhô như sóng lượn, chộn rộn và lởm chởm như bờm ngựa, giờ đây hiện lên như mặt vịnh cuộn sóng, tất cả biến thành những vùng lồi lõm và khoảng tối. Cỏ mọc dày và bện chặt vào nhau đến mức gió cũng không thể làm nó lay động, nhưng chính ánh trăng dường như ban cho nó sự yên tĩnh vĩnh hằng. Không, chúng ta không thể coi ánh trăng như một điều hiển nhiên. Nó cũng giống như tuyết hoặc những hạt sương vào một buổi bình minh tháng Sáu. Nó không để lộ ra mà lại thay đổi những gì nó chiếu ánh sáng lên. Và độ sáng của nó rất kém, kém hơn nhiều so với ánh sáng ban ngày - làm chúng ta tưởng rằng nó chỉ là thứ gì đó được thêm vào những dãy núi này, để tặng cho nó, chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, một đặc tính tuyệt vời, phi thường khiến chúng ta phải cúi đầu ngưỡng mộ khi còn có thể, bởi vì chẳng bao lâu nữa nó sẽ lại tan biến mất.
Khi bọn thỏ đến cái hang trong rừng sồi, một luồng gió mạnh thổi qua những tán lá, kẻ những hình ô vuông và chấm màu lốm đốm lên mặt đất phía dưới, vừa lấy đi vừa ban phát ánh sáng dưới các cành cây. Chúng để tai lắng nghe, nhưng ngoài tiếng lá cây xào xạc thì từ đồng cỏ trống trải phía dưới không có âm thanh nào ngoài tiếng hót đơn điệu của một con chim chích xa xa trên bãi cỏ.
"Trăng đẹp quá!" Xám Bạc kêu lên "Hãy tận hưởng trong khi nó còn có ở đây."
Khi lên đến bờ đất, chúng gặp Đầu Gỗ và Thủy Cự đang quay lại.
"Ôi Cây Phỉ," Đầu Gỗ kêu lên "chúng tôi vừa nói chuyện với một con chuột khác. Nó đã nghe chuyện về con chim cắt lúc tối và tỏ ra rất thân thiện. Nó chỉ cho chúng tôi một nơi ở ngay phía bìa rừng bên kia toàn là cỏ mới cắt - hình như người ta cắt cỏ cho ngựa. Nó hỏi, "Các anh có thích cỏ, cỏ ngon không? Tất cả cỏ đều ngon hết." Thế là chúng tôi đi đến đấy. Thật hết ý, chả có nơi nào cỏ ngon hơn."
Cánh đồng cỏ mới cắt kéo đài đến 40 mét, dày khoảng tấc rưỡi. Cây Phỉ, trong tâm trạng lâng lâng vui vẻ vì vừa được chứng minh là mình đúng, đang lững thững đi đến một vạt cỏ ba lá. Tất cả bọn thỏ nhấm nhá thức ăn trong yên lặng.
"Cậu là một người có đầu óc đấy Cây Phỉ ạ." cuối cùng Nhựa Ruồi nói "Cậu và chú chuột của cậu. Xin cậu hãy nhớ cho, chúng ta sẽ tự mình tìm ra nơi này, chẳng chóng thì chầy, nhưng sẽ chẳng nhanh được như thế này."
Cây Phỉ có thể hạ cằm xuống đầy thỏa mãn, nhưng chú chỉ trả lời, "Rốt cuộc thì chúng ta sẽ không cần phải xuống núi nhiều." Đoạn chú nói thêm, "Nhưng Nhựa Ruồi này, anh biết đấy, người anh toàn mùi máu. Điều đó có thể nguy hiểm, kể cả khi ở đây, thôi mọi người hãy quay về rừng đi. Trong một đêm đẹp như thế này chúng ta có thể ngồi gần hang, nhấm nháp thức ăn trong khi Hoa Chuông kể cho chúng ta nghe câu chuyện của cậu ấy."
Chúng gặp Dâu Tây và Gạc Nai ở bờ đất; và trong lúc ai nấy đều nhai lại thức ăn một cách vui vẻ với những cái tai rủ xuống thì Hoa Chuông bắt đầu.
* * *
"Đêm qua Bồ Công Anh đã kể cho tôi nghe về cánh đồng thỏ của Anh Thảo Vàng và cả việc anh ấy đã kể chuyện Rau diếp của Đức vua. Điều ấy đã làm tôi nghĩ đến câu chuyện này, thậm chí còn trước cả khi Cây Phỉ giải thích chuyện con chuột nữa. Tôi thường nghe chuyện này từ ông nội mà ông thì bao giờ cũng bảo rằng nó xảy ra sau khi El-ahrairah đưa người cửa mình ra khỏi vùng đầm lầy Kelfazin. Họ tới những đồng cỏ Fenlo và đào hang ở đấy. Nhưng Hoàng tử Cầu Vồng vẫn để mắt đến El-ahrairah và ông hoàng này đã đi đến quyết định sẽ không nhắm mắt cho qua một trò dối gạt nào nữa của El-ahrairah.
Một buổi tối, El-ahrairah và Giỏ Cua đang ngồi trên một bãi đất ngập tràn ánh mặt trời thì Hoàng tử Cầu Vồng lướt qua đồng cỏ đi đến gần, cùng đi với ông là một chú thỏ mà El-ahrairah chưa từng gặp bao giờ.
"Chào buổi tối, anh bạn El-ahrairah thân mến." ông hoàng lên tiếng trước "Có một sự cải thiện vượt bậc trên những đầm lầy ở Kelfazin. Ta thấy tất cả những ả thỏ cái của ngươi đang bận rộn đào hố dọc lũy đất. Thế chúng đã đào một cái hang cho ngươi chưa?"
"Có chứ, thưa ngài." Ei-ahrairah đáp "Đây là cái hang dành cho tôi và Giỏ Cua. Cái bờ đất này vừa nhìn thấy là chúng tôi đã mê ngay ấy chứ."
"Ừ, trông cũng được lắm." Hoàng tử đáp "Nhưng ta e rằng mình phải nói cho ngươi biết một chuyện, El-ahrairah ạ, rằng ta nhận được mệnh lệnh rất nghiêm khắc từ Chúa tể Mặt trời, người không cho phép ngươi ở chung hang với Giỏ Cua nữa."
"Không được ở chung hang với Giỏ cua ư?" El-ahrairah hỏi lại "Nhưng mà vì cớ gì kia chứ?"
"Này El-ahrairah," Hoàng tử cao giọng "chúng ta biết tỏng ngươi và những trò lừa gạt của ngươi, còn cái tên Giỏ Cua này thì cũng trơn tuột và mánh lới chẳng kém gì, thật là thầy nào tớ ấy. Nếu cả hai ngươi cũng nhét vào một chỗ thì xem ra chẳng có gì hay ho cả. Bọn ngươi sẽ tìm cách lấy cả mây trên trời trước khi mặt trăng thay đổi hai lần mất. Không, Giỏ cua phải đi tìm một cái hang khác ở đầu kia cánh đồng. Bây giờ để ta giới thiệu với ngươi. Đây là Hufsa. Ta muốn ngươi làm bạn với cậu ta và trông nom cậu ta thật tử tế."
"Cậu ấy từ đâu đến vậy?" El-ahrairah hỏi "Tôi chắc là chưa từng trông thấy cậu ấy bao giờ."
"Cậu ta đến từ một vùng đất khác," ông hoàng trả lời "nhưng không có gì khác biệt với bất cứ một con thỏ nào. Ta hy vọng ngươi sẽ giúp cậu ta ổn định cuộc sống ở đây. Và trong khi cậu ta tìm hiểu nơi này, ta chắc ngươi sẽ vui lòng cho cậu ta ở chung với ngươi chứ."
El-ahrairah và Giỏ Cua cảm thấy cực kỳ bực bội khi không thể ở chung với nhau trong cái hang của mình. Nhưng một trong những nguyên tắc của El-ahrairah là không bao giờ cho phép ai thấy mình giận dữ, mặt khác ông cũng phần nào thấy thương hại Hufsa, cho rằng cậu ta hẳn sẽ thấy cô đơn và lạc lõng ở một nơi xa lạ. Thế là ông chào hỏi cậu ta và hứa sẽ giúp cậu ta sớm ổn định. Hufsa vô cùng thân thiện và có vẻ sốt sắng chiều lòng mọi người, còn Giỏ Cua thì phải chuyển đến ở đầu kia cánh đồng.
Tuy vậy, một thời gian sau, El-ahrairah bắt đầu phát hiện rằng luôn có một cái gì đó khiến cho các kế hoạch của mình không thành. Một đêm, lúc ấy là vào mùa xuân, khi ông đưa một số thỏ của mình đến một cánh đồng ngô để chén những đọt lá non, họ phát hiện có một người đàn ông mang súng đi lại dưới ánh trăng, và họ đã may mắn thoát khỏi đó mà không gặp rắc rối gì. Một lần khác, sau khi El-ahrairah tìm ra một con đường dẫn đến một vườn bắp cải rồi đào được một cái lỗ dưới chân hàng giậu, thì sáng hôm sau đã thấy lỗ hổng bị chằng kín lại bằng dây thép, ông bắt đầu có ý ngờ vực rằng, có lẽ âm mưu của mình đã bị tiết lộ cho những kẻ đáng nhẽ không được biết.
Một hôm, ông quyết định sẽ cài bẫy Hufsa, thử xem cậu ta có phải là "kẻ tay trong" không. El-ahrairah chỉ cho cậu ta một con đường di tắt qua cánh đồng, bảo rằng con đường này dẫn đến một nông trại cách biệt, bên trong trồng toàn củ cải đỏ và trắng, không quên làm như vô tình tiết lộ rằng bản thân mình và Giỏ Cua cũng muốn đến đó vào sáng hôm sau. Trong' thực tế, ông không định làm thế mà cũng chẳng nói cho bất cứ ai khác về con đường cũng như vườn rau kia. Ngày hôm sau, trong lúc thận trọng đi trên con đường này, ông thấy một sợi dây thép gài trong lớp cỏ.
Chuyện này làm cho El-ahrairah nổi trận lôi đình, bởi vì đối với người của ông, điều đó có nghĩa là bị sập bẫy và cái chết. Tất nhiên, ông không cho rằng chính Hufsa đã chăng dây thép hoặc thậm chí biết là bẫy đã được giăng ra. Nhưng rõ ràng nó đã báo tin cho một ai đó, kẻ đó không phải là kẻ đã dụng công sắp đặt cái bẫy này. Cuối cùng El-ahrairah đi đến kết luận chắc chắn rằng Hoàng tử Cầu Vồng đã chuyển tin báo của Hufsa cho người chủ trại hoặc người gác vườn, còn bản thân mình thì không bận tâm đến hậu quả những chuyện đã xảy ra. Cuộc sống của những con thỏ đang trong vòng nguy hiểm vì Hufsa - đó là không kể đến số rau diếp và bắp cải mà họ bị mất. Sau chuyện này, El-ahrairah cố không nói với Hufsa bất cứ chuyện gì. Nhưng xem ra điều này thật khó, bởi vì, như tất cả các bạn đều biết, bọn thỏ chúng ta rất giỏi trong việc giữ bí mật với những loài thú khác, nhưng lại rất kém trong việc giữ bí mật với đồng loại của mình. Cuộc sống trong những cánh đồng thỏ với những cái hang nối kết chằng chịt với nhau không phải là nơi phù hợp với những điều bí mật. El-ahrairah cân nhắc việc giết Hufsa. Nhưng ông biết rằng nếu ông làm vậy, Hoàng tử Cầu Vồng nhất định sẽ tìm đến và rốt cuộc ông chỉ rước thêm nhiều rắc rối vào thân. Ông trở nên bứt rứt khó chịu khi cứ phải giữ bí mật với Hufsa bởi vì ông biết, một khi nó đã nhận ra rằng họ đã phát hiện nó là gián điệp, nó sẽ báo cáo chuyện này với Hoàng tử Cầu Vồng và ông hoàng chắc chắn sẽ đưa nó đi và nghĩ ra những chiêu thức mới còn tồi tệ hơn.
El-ahrairah cứ nghĩ hoài nghĩ mãi. Ông nghĩ đến tận tối ngày hôm sau khi Hoàng tử Cầu Vồng đến thăm cánh đồng thỏ.
"Dường như ngươi đã có những thay đổi lớn trong tính cách El-ahrairah à." ông hoàng nhận xét "Không cẩn thận, thiên hạ có thể bắt đầu tin ngươi đấy. Vì có dịp đi qua đây, ta nghĩ mình phải tạt qua để cảm ơn lòng tốt của ngươi về việc quan tâm chăm sóc Hufsa. Ở với ngươi có vẻ cậu ta thấy thoải mái như ở nhà mình vậy."
"Phải, cậu ta cảm thấy thế, phải không ạ?" El-ahrairah đáp "Chúng tôi trở nên tốt đẹp cùng nhau, chúng tôi ở chung một hang cũng rất vui vẻ. Nhưng tôi bao giờ cũng nhắc nhở người của mình rằng, "Đừng đặt niềm tin vào các hoàng tử nếu không…"
"Này El-ahrairah," Hoàng tử cắt ngang lời Ei-ahrairah "ta chắc là mình có thể tin tưởng ngươi. Và để chứng minh lời ta nói không mảy may giả dối, ta quyết định sẽ trồng một vụ cà rốt ở cánh đồng sau ngọn đồi đằng kia. Đất ở đấy rất màu mỡ nên ta chắc cây cối sẽ mọc tốt. Chắc chắn sẽ không kẻ nào dám mơ đến chuyện ăn trộm cà rốt của ta. Thật vậy ngươi có thể đến xem ta trồng, nếu ngươi muốn."
"Nhất định tôi sẽ đến chứ," El-ahrairah reo lên "điều này chắc chắn sẽ thú vị lắm đây!"
Thế là El-ahrairah, Giỏ Cua, Hufsa và một vài thỏ khác theo Hoàng tử Cầu Vồng đến cánh đồng phía sau quả đồi. Họ giúp ông hoàng gieo hạt cà rốt xuống những luống đất dài. Đất ở đây thuộc loại nhẹ và khô - đúng loại đất thích hợp với cà rốt; nhưng toàn bộ công việc này khiến El-ahrairah tức điên lên bởi vì ông biết chắc rằng hoàng tử làm thế chỉ để bỡn cợt mình và để chứng tỏ rằng ông chắc mẩm là cuối cùng mình đã cắt được móng của El-ahrairah.
"Mùa màng chắc chắn sẽ bội thu." ông hoàng cất tiếng khi mọi việc đã được hoàn tất "Dĩ nhiên ta chắc là không một kẻ nào dám mơ đến chuyện trộm cà rốt của ta. Nhưng nếu có kẻ nào táo gan - nếu có kẻ nào dám ăn trộm, thì El-ahrairah ạ, cơn giận của ta sẽ khó mà lường được đấy. Cả đến vua Darzin mà dám lấy trộm, ấy là ta giả dụ thế, thì ta dám chắc rằng Chúa tể Thần Mặt trời sẽ thu lại vương quốc của ông ta mà ban cho người khác."
Nghe thế El-ahrairah hiểu, Hoàng tử Cầu Vồng có ý nhắc rằng nếu ông bắt quả tang El-ahrairah ăn trộm cà rốt thì Hoàng tử sẽ giết chết hoặc đày ông đi biệt xứ và đưa một thỏ khác lên làm thủ lĩnh, và ý nghĩ rằng tay thỏ ấy chắc chắn không phải ai khác ngoài Hufsa khiến ông điên ruột đến mức hai hàm răng bất giác nghiến trèo trẹo. Tuy vậy ngoài mặt ông vẫn giả bộ, "Vâng ạ, tất nhiên, phải thế chứ ắt là thế chứ."
Sau đó Hoàng tử bỏ đi.
Một đêm vào tuần trăng thứ hai sau ngày gieo trồng cà rốt, El-ahrairah cùng Giỏ Cua đi thăm cánh đồng. Không có người tỉa bớt lá nên những chiếc lá trổ ra dày dặn, xanh mướt. El-ahrairah ước đoán rằng đa số củ cà rốt sẽ nhỏ hơn bàn chân trước của mình một chút. Trong lúc ông đang ngắm nghía những gốc cà rốt dưới ánh trăng thì một kế hoạch chợt nảy ra trong đầu. Từ lâu ông đã cảnh giác hơn với Hufsa - trong thực tế không một ai biết hành tung của Hufsa - và trên đường quay về nhà ông cùng Giỏ Cua đã đào một cái hố ở một bờ ruộng khuất nẻo rồi cả hai chui xuống bàn tính. Tại đây, El-ahrairah hứa với Giỏ Cua rằng không những mình sẽ ăn trộm cà rốt của Hoàng tử Cầu Vồng mà họ sẽ cùng nhau "chơi" cho Hufsa một vố nhớ đời. Cả hai nhảy lên khỏi hố, Giỏ Cua đi đến nông trại ăn cắp một ít hạt ngô, El-ahrairah thì dành cả đêm hôm ấy bắt ốc sên, đó quả là một công việc kinh tởm.
Tối hôm sau, El-ahrairah ra ngoài từ sớm và trong khi đi như vậy được một lúc ông gặp nhím Yona đang thơ thẩn đi dọc hàng rào.
"Này Yona," ông gọi "anh bạn có thích cả lô những con ốc sên béo ú ngon lành này không?"
"Có chứ, tôi thích lắm, El-ahrairah à," Yona đáp "nhưng chẳng dễ mà bắt được chúng đâu. Anh sẽ biết rõ điều đó nếu anh là nhím như tôi."
"Này, những con này ngon lắm đấy," El-ahrairah dụ dỗ "và anh có thể có tất tật. Nhưng tôi còn có thể cho anh nhiều hơn nữa nếu anh làm những gì tôi bảo mà không thắc mắc gì hết. Anh có biết hát không?"
"Hát ư? Làm quái gì có chú nhím nào hát được cơ chứ?"
"Đúng," El-ahrairah gật gù "đúng lắm. Nhưng anh cần phải cố gắng nếu muốn có những con ốc sên này. À, phải rồi. Đây là một cái hộp rỗng cũ mèm tôi nhặt được, người nông dân đã đánh rơi trong cái rãnh kia. Tốt hơn, tốt hơn rồi đây. Nào bây giờ anh sẽ nghe tôi nhé."
Trong lúc đó, ở trong rừng Giỏ Cua đang nói chuyện với chú gà lôi Hawock.
"Ô này anh bạn Hawock, anh có bơi được không?"
"Tớ chẳng bao giờ đi gần nước nếu có thể tránh được, anh bạn Giỏ cua ạ." Hawock nói "Tớ không thích nước lắm. Nhưng dù vậy tớ vẫn cho rằng nếu buộc phải làm vậy, tớ vẫn có thể xoay xở để nổi trên mặt nước một lúc."
"Tuyệt lắm. Nào đến đây đi. Xem này tôi có khối ngô - anh cũng biết cái của này hiếm như thế nào vào mùa này - và anh sẽ có tất cả chỗ ngô này, chỉ với mỗi một điều kiện nhỏ, anh hãy bơi một chút trong cái hồ ở bìa rừng đằng kia. Hãy nghe tôi giải thích trong khi chúng ta đi đến đó nhé." Vừa nói, họ vừa băng qua khu rừng.
Đêm đến, El-ahrairah bước vào hang mình thì thấy Hufsa đang nhá thức ăn. "À Hufsa, cậu đây rồi." ông vui vẻ hỏi "Tốt lắm, tôi chẳng dám tin một ai khác đâu. Chỉ giữa tôi và cậu thôi nhé, không một ai khác được biết đâu đấy."
"Sao, có chuyện gì đấy, ông El-ahrairah?" Hufsa sốt sắng hỏi.
"Chả là tôi đang nhòm ngó những củ cà rốt của Hoàng tử Cầu Vồng và không thể nhịn lâu hơn nữa. Đó là những củ ngon nhất tôi từng thấy trên đời. Tôi quyết định sẽ ăn trộm tất cả - hoặc gần như tất cả. Tất nhiên, nếu tôi đem theo nhiều thỏ trong cuộc chinh phạt kiểu này thì chúng ta sẽ sớm gặp rắc rối. Mọi việc sẽ vỡ lở, sớm muộn gì cũng sẽ đến tai Hoàng tử. Nếu chỉ có hai ta "đánh quả" này thì thần không biết quỷ không hay đâu."
"Được tôi sẽ đi." Hufsa nói "Nhưng hãy để đến tối mai." Bởi vì nó mẩm tính như vậy nó sẽ có thời gian mật báo cho Hoàng tử Cầu Vồng.
"Không." El-ahrairah nói, giọng chắc nịch "Tôi sẽ đi bây giờ. Ngay bây giờ."
Ông tự hỏi không biết Hufsa có cố chống lại ý định này không, nhưng khi nhìn lại nó thì ông hiểu ngay là Hufsa đã chắc đến chín phần rằng đây sẽ là ngày tận thế của El-ahrairah và cái ngày nó sẽ được lên làm chúa tể đã đến rất gần.
Cả hai cùng ra cánh đồng tràn ngập ánh trăng. Mới đi được một đoạn dọc theo hàng rào thì chúng thấy một cái hộp cũ nằm trong hào. Ngồi nghễu nghện trên cái hộp là nhím Yona. Những cái lông cứng của nó dính đầy cánh hoa tầm xuân, trong khi nó cố sức phát ra những tiếng rừ rừ the thé trong cổ nghe rất kỳ cục và vẫy loạn cái chân sau đen sì lên. Cả hai dừng lại nhìn nó.
"Anh đang làm cái trò gì vậy." Hufsa kinh ngạc hỏi.
"Hát với vầng trăng ấy mà." Yona đáp "Tất cả loài nhím đều hát Với trăng để gọi bọn ốc sên đến. Chắc là anh biết điều này chứ?"
"Ối la la, ốc sên và trăng, ốc sên và trăng
Đảm bảo cho lợi ích của loài nhím trung thành."
"Khiếp cái giọng đến là kinh khủng!" El-ahrairah bình luận, quả thực giọng hát nghe ghê thật. "Đi mau thôi trước khi hắn kêu gọi tất cả kẻ thù đến vây quanh chúng ta." Thế là họ lại tiếp.
Một lúc sau, họ đến gần một cái hồ ở bìa rừng. Khi đến gần hơn, họ nghe thấy tiếng kêu quàng quạc và tiếng quạt nước, rồi trông thấy chú gà lôi Hawock đang chạy loạn xạ trên mặt nước, cái đuôi dài nổi lên trên mặt hồ phía sau nó.
"Chuyện quái quỷ gì xảy ra thế này?" Hufsa kêu lên "Hawock, anh bị bắn à?"
"Không, làm gì có chuyện đó." Hawock đáp "Tôi bao giờ cũng bơi vào những đêm trăng tròn. Nó làm cho cái đuôi của tôi dài thêm ra; với lại cái đầu tôi không thể có mãi màu đỏ, trắng và xanh lá cây nếu không bơi. Nhưng chắc anh phải rõ điều này chứ? Ai cũng biết như vậy mà."
"Sự thật là," El-ahrairah ghé tai Hufsa thì thầm "hắn ta không thích bị ai bắt gặp trong cảnh này đâu. Nào ta đi thôi."
Đi tiếp thêm một đoạn nữa, họ đến một cái giếng cũ gần một cây sồi đại cổ thụ. Người nông dân đã lấp giếng từ lâu nhưng miệng nó trông vẫn sâu và đen ngòm dưới ánh trăng.
"Nghỉ chân một lát chứ hả?" El-ahrairah hỏi "Chỉ một chút thôi."
Trong khi ông nói, một con vật có vẻ ngoài kỳ cục nhất trên đời ló ra khỏi bãi cỏ. Nó trông giống một con thỏ nhưng thậm chí dưới ánh trăng cũng có thể thấy nó có một cái đuôi màu đỏ và đôi tai dài màu xanh lá cây. Miệng nó ngậm đầu mẩu của cái que trăng trắng mà con người vẫn đốt ở miệng. Đó chính là Giỏ Cua nhưng đến Hufsa cũng không thể nhận ra nó là ai. Giỏ Cua đã tìm được loại bột dùng làm thuốc tắm cho cừu ở nông trại và đã ngồi vào trong đó để nhuộm cho cái đuôi có màu đỏ. Hai tai thì chú kết lên những tràng hoa nhăng và chiếc que trắng làm cho chú phát ốm lên.
"Xin Thần Mặt trời cứu giúp chúng con!" El-ahrairah kêu lên "Cái gì thế này? Hãy hy vọng rằng đây không phải là kẻ thù trong đội quân một ngàn!" Ông nhảy lên, trong tư thế sẵn sàng bỏ chạy. "Ngươi là ai vậy?" ông hỏi, toàn thân run bắn lên.
Giỏ Cua búng búng vào cái que trắng.
"Thế là," Giỏ Cua nói giọng oai vệ, "thế là ngươi đã thấy ta, El-ahrairah ạ! Bao nhiêu con thỏ sống cả đời rồi chết, hỏi có mấy con được gặp ta. Ít lắm hoặc chẳng có rnột mống! Ta là một trong những thỏ truyền tin của Chúa tể Mặt trời đây, người bí mật dạo quanh trái đất vào ban ngày còn ban đêm thì trở về lâu đài vàng của mình! Ngài thậm chí vào lúc này đang ngồi đợi ta ở đầu kia thế giới và ta phải mau mau đến gặp ngài, xuyên qua tâm trái đất. Vĩnh biệt nhé, El-ahrairah!"
Chú thỏ kỳ lạ nhảy qua thành giếng và biến mất trong bóng đen dưới đáy giếng.
"Chúng ta đã thấy cái lẽ ra không được thấy!" El-ahrairah nói giọng kinh hoàng "Nơi này mới đáng sợ làm sao! Nào ta đi mau lên."
Họ rảo bước nhanh hơn và chẳng bao lâu sau đã đến cánh đồng cà rốt của Hoàng tử Cầu Vồng. Họ ăn cắp bao nhiêu cà rốt thì tôi không biết, nhưng tất nhiên như mọi người đã rõ, El-ahrairah là một ông hoàng vĩ đại và chẳng cần thắc mắc làm gì, ông sử dụng những quyền lực mà tôi và các bạn không ai biết được. Nhưng ông nội tôi thì bao giơ cũng nói rằng, cho đến sáng thì cả cánh đồng đã trơ trụi chẳng còn một cây cà rốt nào. Tất cả chỗ cà rốt được giấu dưới một cái hang sâu trên cồn đất bên cạnh khu rừng. Xong xuôi, El-ahrairah và Hufsa về nhà. El- ahrairah tập hợp hai, ba người thân tín và ở lì dưới hang với họ suốt ngày, chỉ có Hufsa kiếm cớ đi ra ngoài vào buổi chiều mà không cho ai biết mình đi đâu.
Tối hôm ấy, khi El-ahrairah và người của mình bắt đầu ăn cỏ dưới bầu trời đỏ rực ánh hồi quang thì Hoàng tử Cầu Vồng đi đến cánh đồng thỏ. Sau lưng ông có hai con chó đen cao to lừng lững.
"El-ahrairah," ông hoàng tuyên bố "ngươi đã bị bắt."
"Vì lẽ gì ạ?" El-ahrairah hỏi lại.
"Ngươi biết điều đó rõ hơn ai hết. Đừng bắt ta phải chịu đựng thêm những trò lừa đảo và láo xược của ngươi nữa. Chỗ cà rốt đấy đâu rồi?"
"Nhưng nếu tôi bị bắt thì ít nhất tôi cũng phải được bảo cho biết là mình mắc tội gì chứ?" El-ahrairah cãi lý "Thật không công bằng khi tuyên bố tôi bị bắt rồi lại đặt câu hỏi ngược lại cho tôi."
"Đi thôi, đi thôil El-ahrairah," Hoàng tử dằn giọng "đừng làm mất thời gian nữa. Nói cho ta biết cà rốt giấu ở đâu thì ta sẽ chỉ đày ngươi đến miền Bắc mà không lấy mạng ngươi."
"Thưa Hoàng tử cầu Vồng," El-ahrairah nhấn mạnh "đây là lần thứ ba tôi mong ngài có thể cho tôi biết mình bị bắt vì lý do gì không?"
"Được thôi, nếu đây là cách mà ngươi muốn chết thì El-ahrairah ạ, vụ này sẽ được xử theo đúng luật. Ngươi bị bắt vì tội danh ăn trộm cà rốt của ta. Ngươi đang nghiêm túc yêu cầu một phiên tòa xét xử đấy à? Ta cảnh cáo cho ngươi biết, ta có những bằng chứng buộc tội trực tiếp và nếu ra tòa thì chỉ bất lợi với ngươi thôi."
Vào lúc ấy người của El-ahrairah đã xúm đông xúm đỏ chung quanh, không đến mức gần quá vì họ còn kiêng dè những con chó. Chỉ có Giỏ Cua là không thấy tăm hơi đâu cả. Ông đã bỏ cả một ngày để chuyển cà rốt sang một cái hang bí mật khác và bây giờ đang ẩn mình ở nơi nào đó vì đã không thể làm cho cái đuôi trở lại màu trắng như cũ.
"Đúng vậy, tôi yêu cầu có một phiên tòa," 'El-ahrairah trịnh trọng nói "và tôi muốn phiên xử được phán xét bởi một bồi thẩm đoàn gồm những loài vật. Bởi vì sẽ là không công bằng, thưa Hoàng tử Cầu Vồng, khi ngài vừa buộc tội tôi lại vừa phán xét tôi."
"Sẽ có một bồi thẩm đoàn gồm những loài vật như ngươi muốn." Hoàng tử cả cười "Một bồi thẩm đoàn gồm những loài vật là kẻ thù của ngươi. Bởi một bồi thẩm đoàn toàn là thỏ thì sẽ từ chối kết tội ngươi, bất chấp bằng chứng được đưa ra."
Trước sự ngạc nhiên của mọi người, El-ahrairah lập tức đáp rằng ông bằng lòng với một bồi thẩm đoàn gồm những loài vật đối đầu với thỏ và ông hoàng đáp lại rằng mình sẽ triệu tập những loài vật đó đến ngay trong đêm ấy. El-ahrairah được giải về hang của mình, hai con chó dữ đứng ngoài canh gác. Mặc dù nhiều chú thỏ đã cố gắng thử nhưng không một người nào của El-ahrairah được phép vào thăm ông.
Tin tức lan nhanh trong khu vực chung quanh những hàng rào, cánh đồng và những khu rừng lân cận rằng El-ahrairah sẽ đứng trước một phiên tòa quyết định sự sống của mình và rằng Hoàng tử Cầu Vồng sẽ đưa ông đến trước một bồi thẩm đoàn gồm toàn những kẻ thù. Muông thú khắp nơi kéo đến làm vùng này chật như nêm. Khi trăng mọc, Hoàng tử trở lại cùng với một bầy thú toàn kẻ thù của loài thỏ, gồm hai con lửng, hai con cáo, hai con chồn, một con cú và một con mèo. El-ahrairah được áp giải ra ngoài với hai con chó kè kè hai bên. Kẻ thù ngồi trước mặt ông, mắt chúng tóe lửa dưới ánh trăng trông như những đốm than hồng. Chúng liếm môi liếm mép thèm thuồng, hai con chó thì thì thào thào rằng chúng được hứa hẹn sẽ nhận lãnh nhiệm vụ thi hành bản án. Tham dự phiên tòa có nhiều loài vật khác, trong đó có rất nhiều thỏ, con nào con nấy đều tin chắc phen này El-ahrairah đã đến ngày tận số.
"Bây giờ," Hoàng tử Cầu Vồng tuyên bố "hãy bắt đầu phiên tòa.Chắc không kéo dài lâu đâu. Hufsa đâu rồi?"
Hufsa bước lên phía trước, cúi chào và dập đầu mấy cái trước Hoàng tử rồi kể cho những kẻ thù trong bồi thẩm đoàn rằng đêm hôm trước El-ahrairah trở về hang khi nó đang lặng lẽ nhá thức ăn và đã dọa dẫm buộc nó phải đi cùng mình ăn trộm cà rốt của Hoàng tử Cầu Vồng. Nó những muốn từ chối, nhưng không thể, chỉ vì nó quá sợ. Cà rốt bây giờ đang được giấu trong một cái hang mà nó có thể chỉ cho mọi người thấy. Nó buộc phải làm những việc xấu xa này, nhưng ngay hôm sau nó đã chạy nhanh hết mức có thể để đến tâu lại với Hoàng tử Cầu Vống, bởi vì nó bao giờ cũng là một kẻ tôi tớ trung thành của Người.
"Chúng ta sẽ thu hồi cà rốt lại sau." Hoàng tử phán. "Còn bây giờ El-ahrairah, ngươi có bất cứ bằng chứng ngoại phạm nào đưa ra không hoặc có bất cứ điều gì muốn nói không? Hãy nhanh nhanh lên."
"Tôi chỉ muốn hỏi nhân chứng một vài câu," El-ahrairah từ tốn trả lời và bồi thẩm đoàn nhất trí rằng đó là một đòi hỏi chính đáng.
"Nào Hufsa," El-ahrairah bắt đầu "mọi người có thể nghe thêm chút ít về cái cuộc hành trình đi ăn trộm mà tôi và anh bị nghi ngờ là đã thực hiện không? Bởi vì tôi thực sự không nhớ một điều gì hết. Anh nói chúng ta ra khỏi hang rồi bắt đầu đi trong đêm tối. Sau đó chuyện gì đã xảy ra?"
"Chuyện gì à, El-ahrairah?" Hufsa phẫn nộ kêu lên "Sao ông có thể quên được kia chứ? Chúng ta đi dọc theo hào và ông không nhớ là chúng ta đã thấy một con nhím ngồi trên cái hộp ca một bài với vầng trăng à?"
"Một con nhím đang làm gì ?" Một trong hai con lửng sửng sốt kêu lên.
"Hát một bài với mặt trăng." Hufsa hấp tấp nói. "Mọi người đều biết rằng chúng làm thế để gọi ốc sên đến. Nó cắm những cánh hồng lên bộ lông nhọn và vẫy vẫy chân sau và…"
"Bình tĩnh nào, cứ từ từ thôi." El-ahrairah nói, giọng nhũn nhặn "Tôi không muốn anh nói những điều mà thực ra anh không có ý nói thế." El-ahrairah quay sang nói với bồi thẩm đoàn "Anh bạn đáng thương này thực sự tin vào những điều anh ta nói. Anh ta chẳng có ý gì, nhưng mà…"
"Nhưng đúng là nhím đã làm thế thật." Hufsa hét to "Nó hát, 'Ôi ốc sên-mặt-trăng, ôi ốc-sên- mặt-trăng! Để đảm bảo…'"
"Điều mà con nhím hát không thể là bằng chứng buộc tội." El-ahrairah nói "Thực ra, vấn đề này cũng cần xem xét lại. Thôi được rồi! Chúng ta trông thấy một con nhím mình phủ đầy cánh hoa hồng, ngồi trên một cái hộp hát hò gì đó. Vậy chuyện gì xảy ra sau đó?"
"Ừm," Hufsa tiếp "sau đó chúng ta đi đến một hồ nước và trông thấy một con gà lôi."
"Gà lôi à?" Một con cáo cất tiếng hỏi lại "Chà chà, ước gì tôi có thể gặp nó. Thế nó đang làm gì?"
"Nó đang bơi vòng vòng trên mặt nước…" Hufsa khẳng định.
"Nó bị thương hả?" Cáo hỏi.
"Ồ không, không." nhân chứng đáp "Tất cả bọn chúng đều làm thế để cho đuôi mọc dài hơn ấy mà. Tôi thật ngạc nhiên khi anh không biết điều đơn giản ấy."
"Để làm cái gì?" Cáo hỏi gặng.
"Để làm cho đuôi mọc dài hơn." Hufsa sưng sỉa nói "Chính nó đã nói như thế mà."
"Các ngài mới chỉ phải chịu đựng tên quái quỷ này trong một thời gian rất ngắn." El-ahrairah nói với những kẻ thù của mình ngồi trong bồi thẩm đoàn "Cần phải mất chút thời gian mời quen được với điều này. Hãy nhìn tôi đi! Tôi buộc phải sống với hắn, ngày cũng như đêm trong suốt hai tháng qua. Tôi vốn là người tử tế, biết điều nên đã nhẫn nại chịu đựng hắn trong khả năng của mình, nhưng rõ ràng điều này chỉ có hại cho tôi thôi."
Bốn phía chung quanh trở nên im lặng. Với vẻ kiên nhẫn đầy cha chú, El-ahrairah quay sang nhân chứng.
"Trí nhớ của tôi tồi tệ quá, xin anh cứ tiếp tục."
"Được thôi, El-ahrairah ạ," Hufsa nói "ông giả vờ giỏi lắm, nhưng mà ông cũng không thể nói là mình quên những gì xảy ra tiếp theo. Một con thỏ to lớn, nhìn đến khiếp với cái đuôi màu đỏ và đôi tai màu xanh từ trong bãi cỏ nhảy ra. Nó ngậm một cái que trắng trong mồm, rồi thoắt một cái nhảy vào một cái hố sâu, sau khi bảo với chúng ta rằng nó phải xuyên qua tâm trái đất để đi gặp Chúa tể Mặt trời ở đầu đằng kia."
Đến đây thì không một con vật nào trong bồi thẩm đoàn nói một lời nào nữa. Chúng chằm chằm nhìn vào Hufsa vào chầm chậm lắc đầu.
"Anh biết không, tất cả bọn chúng điên hết rồi." một con chồn thì thầm "Đúng là một 1ũ bé nhỏ xấu xa. Chúng có thể nói bất cứ chuyện ba láp nào khi bị dồn vào chân tường. Nhưng đây là câu chuyện tồi tệ nhất tôi từng nghe đấy. Chúng ta còn kẹt ở đây bao lâu nữa đây? Tôi đói quá rồi."
Thực ra El-ahrairah đã biết từ trước rằng, tuy kẻ thù ghét cay ghét đắng loài thỏ, nhưng chúng ghét nhất vẫn là những kẻ rõ là một tên đại ngốc mà cứ vênh váo tưởng mình ôm hết trí khôn của thiên hạ. Đó là lý do tại sao ông đồng ý có một bồi thẩm đoàn gồm toàn những con vật là kẻ thù của mình. Nếu thỏ ngồi trong bồi thẩm đoàn, chúng sẽ cố tìm hiểu câu chuyện của Hufsa cho đến ngọn ngành, song kẻ thù của thỏ thì không làm vậy, chúng căm ghét và coi thường nhân chứng nên chỉ muốn được đi săn mồi ngay khi có thể.
"Như vậy, mọi việc có thể được hiểu như thế này," El-ahrairah lên tiếng "Tôi và anh, chúng ta gặp một con nhím người đính đầy hoa hồng đang hát một bài, sau đó chúng ta trông thấy một con gà lôi hoàn toàn khỏe mạnh đang bơi vòng vòng trên mặt hồ, rồi chúng ta lại gặp một gã thỏ có cái đuôi đỏ, đôi tai xanh lá cây ngậm một cái que màu trắng, rồi hắn nhảy xuống một cái giếng sâu. Tôi nói như vậy có đúng ý anh không?"
"Đúng vậy." Hufsa mạnh mẽ khẳng định.
"Và rồi chúng ta đi ăn trộm cà rốt?"
"Phải."
"Có phải chúng màu tía có những cái đốm xanh lá cây không?"
"Cái gì tía có đốm xanh lá cây?"
"Cà rốt ấy."
"Ông biết quá rồi còn gì, không phải như thế El-ahrairah ạ. Chúng có màu bình thường mà. Bây giờ tất cả đang được giấu trong hang!" Chợt Hufsa hét lên một cách tuyệt vọng "Ở dưới hang ý, xuống đấy mà xem."
Phiên tòa ngừng lại trong khi Hufsa dẫn Hoàng tử Cầu Vồng xuống hang, họ không tìm thấy cà rốt và quay lại phiên tòa.
"Tôi đã ở dưới hang suốt cả ngày," El-ahrairah nói "và tôi có thể chứng minh điều đó. Đáng lý tôi có thể ngủ được, nhưng thật khó mà nhắm mắt được khi ta biết rõ về người ở cùng hang với mình, nhưng mà thôi... Tôi chỉ muốn nói rằng, rõ ràng tôi không có dịp ra ngoài đặng chuyển cà rốt đi chỗ khác hoặc làm bất cứ chuyện gì. Ấy là nếu như có chỗ cà rốt nào đó." ông nói thêm. "Nhưng giờ thì tôi chẳng có gì để nói nữa."
"Thưa Hoàng tử Cầu Vồng," con mèo lên tiếng "bản thân tôi căm ghét loài thỏ. Nhưng tôi không nghĩ chúng ta có thể tuyên bố rằng có bằng chứng kết luận con thỏ kia đã lấy trộm cà rốt của ngài. Nhân chứng rõ ràng bị loạn trí - cũng điên dại như tuyết và sương rnù vậy - và như thế có thể tuyên bố bị cáo vô tội và trả tự do cho bị cáo." Tất cả đều đồng ý với phán quyết của mèo.
"Tốt nhất ngươi hãy biến mau khỏi mắt ta." ông hoàng dằn giọng nói với El-ahrairah "Biến xuống hang của ngươi đi, trước khi ta phải động chân động tay với ngươi."
"Tôi sẽ làm như ngài muốn." El-ahrairah nói "Nhưng tôi có thể yêu cầu ngài mang tên thỏ kia ra khỏi chỗ chúng tôi không, bởi vì nó làm phiền chúng tôi ghê gớm bằng sự ngu ngốc và điên dại của mình?"
Thế là Hufsa phải ra đi cùng với Hoàng tử Cầu Vồng và người của El-ahrairah được sống trong yên bình, trừ việc họ rnắc phải chứng khó tiêu vì ăn quá nhiều cà rốt. Nhưng phải mất rất lâu cái đuôi của Giỏ Cua mới có lại cái màu trắng tự nhiên, ông nội tôi bao giờ cũng kết luận như vậy."