Chương 27
Tác giả: Richard Adams
Xin chúa phù hộ, chưa bao giờ con gặp những người như thế.
Signor Piozzi, được Cecilia Thrale trích dẫn
Ở Tổ Ong, Tóc Giả và Nhựa Ruồi đang đợi để bắt đầu cuộc họp mặt thứ hai kể từ khi Cây Phỉ mất tích. Không khí oi ả có phần dịu lại, bọn thỏ bắt đầu thức dậy và hết chú này đến chú khác chạy xuống lối đi từ những hang nhỏ hơn dẫn ra. Tất cả đều mang tâm sự chán chường dầy hoài nghi. Giống như nỗi đau từ một vết thương chí mạng, tác động của cú sốc lớn phải mất một thời gian mới được thấm thía đầy đủ. Khi một đứa trẻ được thông báo, lần đầu tiên trong đời, rằng người mà nó quen hơi bén tiếng đã chết thì mặc dù không phải không tin, nó vẫn không nhận thức được đầy đủ về cái tin này và sau đó vẫn hỏi lại - có lẽ phải hơn một lần - rằng người chết đang ở đâu, khi nào thì quay lại. Khi Nồi Đất gieo trong người chú, như một hạt giống u sầu, cái nhận thức rằng Cây Phỉ sẽ không bao giờ quay lại thì sự hoang mang của chú đã vượt qua nỗi đau buồn, và nỗi hoang mang ấy chú nhìn thấy được trên mọi phương diện trong những người bạn của mình. Không phải đối mặt với khủng hoảng nào trong hành sự và cũng chẳng có gì ngăn cản chúng tiếp tục cuộc sống như trước trong cánh đồng thỏ, nhưng bọn thỏ bị suy sụp khi nghĩ rằng vận may của chúng đã hết. Cây Phỉ đã chết, chuyến đi thuyết khách của Nhựa Ruồi hoàn toàn thất bại. Không biết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo đây.
Nhựa Ruồi gầy xơ xác, với cái bụng lồ lộ chỉ chứa toàn cỏ ngỗng và những mảnh ngưu bàng, đang nói chuyện với ba chú thỏ nhà và dùng hết tài ăn nói mà trấn an bọn kia. Bây giờ thì không ai có thề nói rằng Cây Phỉ đã hy sinh bản thân mình trong một trò đùa ngu xuẩn điên rồ nữa. Hai cô thỏ cái là thành quả duy nhất mà bất cứ ai có thể gặt hái được; là tài sản duy nhất của cộng đồng. Nhưng rõ ràng họ tỏ ra không thoải mái chút nào với cuộc sống mới khiến cả Nhựa Ruồi cũng đành tặc lưỡi mà rằng chẳng thể trông chờ gì hơn từ họ. Một khi thỏ cái bị hoảng loạn, họ dễ mắc bệnh vô sinh và làm sao những chị chàng này có thể thoải mái như ở nhà trong một khung cảnh hoàn toàn xa lạ ở cái nơi mà ai nấy đều lạc đi đâu mất trong những suy nghĩ u ám của mình? Họ có thể sẽ chết hoặc bỏ đi lang thang. Nhựa Ruồi một lần nữa bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ giải thích rằng chú tin tưởng quãng thời gian tốt đẹp hơn đang nằm phía trước, nhưng dù mạnh miệng nói thế bản thân chú cũng chẳng thấy điều đó có sức thuyết phục chút nào.
Tóc Giả cử Quả Sồi đi xem còn ai nữa chưa tới không. Quả Sồi trở lại báo cáo rằng Dâu Tây thì quá mệt còn Mâm Xôi và Thứ Năm thì chả thấy đâu.
"Thôi được, cứ mặc Thứ Năm." Tóc Giả nói "Tội nghiệp thằng bé, nếu ở một mình nó sẽ thấy thoải mái hơn, tôi dám nói như vậy."
"Nhưng mà cậu ấy không ở dưới hang." Quả Sồi nói.
"Đừng bận tâm." Tóc Giả lại nói. Nhưng một ý nghĩ chợt xuất hiện trong đầu chú. "Thứ Năm và Mâm Xôi à? Họ có thể rời đây mà không cho ai biết sao? Nếu làm thế mà những người khác biết thì không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra đây?" Liệu chú có nên yêu cầu Kehaar đi tìm họ khi trời vẫn còn sáng? Nhưng nếu chú mòng biển tìm ra họ, chuyện gì sẽ xảy ra? Có bắt họ quay lại được không? Mà nếu được thì làm thế liệu có ích gì khi cả hai lại muốn bỏ đi nữa? Đúng lúc ấy, Nhựa Ruồi bắt đầu nói và mọi người im lặng lắng nghe.
"Mọi người đều biết rõ chúng ta đang trong tình trạng rối loạn," Nhựa Ruồi nói "và tôi cho rằng chẳng bao lâu nữa chúng ta phải nói với nhau về chuyện làm gì là tốt nhất. Nhưng trước tiên, tôi nghĩ cần phải kể với các bạn về việc làm sao bốn chúng tôi, Xám Bạc, Gạc Nai, Dâu Tây và tôi trở về mà không có cô thỏ cái nào. Các bạn không cần phải nhắc chúng tôi nhớ rằng khi chúng tôi lên đường mọi người đều lạc quan nghĩ việc này sẽ xuôi chèo mát mái vì nó không có vẻ gì là khó khăn. Thế mà giờ chúng tôi dẫn xác về không, kẻ bị ốm, người bị thương. Chắc các bạn đang thắc mắc không hiểu ra làm sao."
"Chẳng ai trách anh hết, Nhựa Ruồi à." Tóc Giả nói.
"Tôi cũng không biết mình có đáng trách hay không nữa." Nhựa Ruồi trả lời "Nhưng các bạn sẽ nói cho tôi biết khi nghe xong câu chuyện này.
Buổi sáng chúng tôi ra đi có thể nói là tiết trời rất đẹp cho những chú thỏ trên chặng đường thiên lý và chúng tôi cảm thấy không có gì phải vội vã. Tôi nhớ là không khí se se lạnh như thể còn lâu nữa thì mặt trời mời đổ nắng rực rỡ và da trời xanh ngắt không một gợn mây. Có một nông trại nằm cách mạn kia cánh rừng này không xa và mặc dù con người không rời khỏi giường vào lúc tinh mơ như thế, tôi cũng không chọn đường đó, mà cứ đi lên vùng đất cao dần lên ở phía Tây. Chúng tôi tưởng đâu đi mãi sẽ lên đến đỉnh nhưng chẳng có bất cứ đỉnh núi nào ở mạn Bắc cả. Vùng cao nguyên cứ trải dài ra mãi, rộng mênh mông, khô cằn và vắng lặng. Có nhiều nơi thỏ có thể trú ẩn - những gốc ngô, hàng giậu và lũy đất - nhưng không có rừng mà chỉ có những cánh đồng bát ngát ngút tầm mắt với lớp đất nhẹ có những tảng đá lửa trắng rất to. Tôi hy vọng có thể đến được một vùng mà loài thỏ chúng ta đã quen - với những đồng cỏ và cánh rừng - nhưng chúng tôi không tìm được. Dù sao chúng tôi cũng tới con đường có một hàng rào cây rậm rạp tươi tốt ven đường và quyết đinh đi theo nó. Chúng tôi nghỉ ngơi và dừng lại một lúc vì tôi luôn cẩn thận tránh đụng phải kẻ thù, Tôi chắc rằng đây không phải là vùng đất tốt cho chồn ecmin và cáo nhưng thực ra tôi cũng không biết rõ chúng tôi sẽ làm gì nếu gặp phải một con như vậy."
"Tôi chắc là chúng tôi đi qua một con chồn, rất gần." Xám Bạc tiếp lời "Tôi có thể đánh hơi thấy mùi của nó. Nhưng các bạn cũng thừa hiểu tập tính của lũ săn mồi - nếu chúng khôn thực sự đi săn mồi thì chúng sẽ không để ý đến bạn. Chúng tôi cố không để lại nhiều mùi và vùi phân xuống đất như mèo vẫn làm."
"Thế là, khoảng gần trưa," Nhựa Ruồi tiếp tục "chúng tôi tới một cánh rừng hẹp và dài chạy vắt qua con đường mà chúng tôi đang đi. Rừng ở vùng đất thấp thật kỳ lạ, phải không. Khu rừng này không rậm hơn cánh rừng sồi trên đầu chúng ta, nhưng nó trải dài ngút tầm mắt thành một đường thẳng tắp. Tôi không thích những đường thẳng như kẻ chỉ vì con người làm ra những thứ như thế. Các bạn có thể đoán là chúng tôi tìm thấy một con đường chạy bên ngoài khu rừng này. Nó vắng vẻ, trống trải và dù sao thì chúng tôi cũng không thích lảng vảng quanh đấy, vì thế chúng tôi đi xuyên qua rừng sang phía bên kia. Kehaar bay trên đầu, nhìn thấy chúng tôi trên cánh đồng bèn bảo chúng tôi đổi hướng. Tôi hỏi cậu ta xem chúng tôi đã đi được bao xa thì Kehaar bảo mới được nửa đường, thế là tôi nghĩ hãy tìm một nơi nào đó trú tạm trong đêm đi là vừa. Tôi không thích những nơi trống huơ trống hoác nên cuối cùng chúng tôi cào lớp đất dưới đáy một cái hố nhỏ mà chúng tôi tìm thấy để có chỗ ngả lưng, sau đó đi ăn và ngủ một đêm ngon giấc.
Tôi nghĩ không cần kể tất tần tất mọi chuyện cho các bạn nghe. Trời đổ mưa ngay sau bữa ăn sáng, cùng vời nó là ngọn gió buốt lạnh thật khó chịu, thế là chúng tôi ở lại chỗ trú cho đến tận xế trưa. Rồi trời cũng hửng lên một chút và chúng tôi lại lên đường. Đường đi không còn suôn sẻ như trước vì những vũng nước mưa lõm bõm, nhưng vào lúc chập tối tôi nghĩ chúng tôi đã gần đến đích. Tôi còn đang nhìn quanh quất thì thấy một chú thỏ rừng băng qua bãi cỏ, bèn hỏi xem chú có biết một cánh đồng thỏ rất lớn gần đây không.
"Efrafa à?" Chú ta hỏi "Các anh muốn đến Efrafa hả?"
"Phải, nếu như nó có tên gọi như thế."
"Anh biết nó à?"
"Không," tôi đáp "chúng tôi không biết và bây giờ muốn hỏi xem nó ở đâu."
"Vậy thì lời khuyên của tôi là các anh hãy mau mà cao chạy xa bay, càng nhanh càng tốt."
Tôi còn đang ngơ ngác không biết nên hiểu thế nào thì thấy có ba chú thỏ bất ngờ nhảy lên lũy đất, cũng đúng như cái cách mà tôi đã làm khi đến bắt anh, Tóc Giả ạ. Một chú trong bọn hỏi, "Cho tôi xem dấu của anh?"
"Dấu à?" Tôi hỏi "Dấu là cái gì? Tôi không hiểu."
"Vậy, các anh không phải người ở Efrafa?"
"Không, chúng tôi đang định đi đến đấy. Chúng tôi là khách phương xa."
" Vậy các anh đi theo chúng tôi chứ?" Không hề có những câu đại loại như, "Có phải các anh từ xa đến?" hay "Các anh có gặp mưa không?" hoặc một điều gì tương tự.
Thế rồi ba chú thỏ đưa chúng tôi ra khỏi lũy đất và đấy là cách chúng tôi đến Efrafa như người ta gọi nơi này như thể. Tốt nhất tôi nên kể cho các bạn đôi điều về nó đê các bạn có thể hình dung tại sao lũ chúng tôi khi đi tươi tốt khi về bủng beo thảm hại như thế này.
Efrafa là một cánh đồng thỏ rộng lớn, lớn hơn nhiều so với cánh đồng của chúng ta - ý tôi muốn nói là cánh đồng của Chúa Thanh Lương Trà. Một trong những nỗi sợ hãi thường trực trong mỗi chú thỏ sống ở đây là bị con người tìm được và gieo cho chúng căn bệnh rnù trắng. Cả cánh đồng này được bố trí sao cho có thể giấu đi sự tồn tại của nó. Những cái hang đều được ẩn giấu, các Cốt Cán điều khiển tất cả thỏ khác bằng mệnh lệnh. Bạn không thể sống cuộc đời theo ý mình, đổi lại bạn được an toàn, nếu đó là một thứ xứng đáng với cái giá phải trả.
Cũng như các Cốt Cán, thỏ ở đây còn có một thứ mà họ gọi là Hội đồng, mỗi thành viên trong Hội đồng có trách nhiệm về một phần việc cụ thể nào đó, Chú thì trông coi việc ăn cỏ, chú thì chịu trách nhiệm về những đường chạy trốn, kẻ lại chăm lo việc sinh con đẻ cái, và cứ tiếp tục như vậy. Về phần các thỏ "thường dân", chỉ có một số lượng nhất định được phép ở trên mặt đất vào cùng một thời điểm. Mỗi chú thỏ đều được đóng dấu từ khi mới ra đời: thỏ 1ớn cắn chúng rất sâu vào phía dưới cằm hoặc ở hông hoặc chân trước . Sau đó thì suốt đời mỗi chú thỏ được nhận diện qua vết sẹo này. Bạn không được phép có mặt trên mặt đất ngoài khoảng thời gian trong ngày được chỉ định cho cái Dấu mình mang trên người."
"Ai đã ngăn các anh lại." Tóc Giả càu nhàu.
"Đây mới là phần đáng sợ nhất. Đội ngũ cốt Cán, phải, nếu không có mặt ở đó thì các bạn không thể hình dung dược. Thỏ Thủ lĩnh là một thỏ có tên là Hoắc Hương: Thống soái Hoắc Hương, ấy là người ta gọi hắn như vậy. Tôi sẽ nói về hắn sau. Dưới hắn có các Đội trưởng - mỗi tay chịu trách nhiệm một Dấu - dưới mỗi Đội trưởng lại có các sĩ quan va lính gác, ngoài ra Đội trưởng còn có một tốp giúp việc làm nhiệm vụ vào mọi lúc, ngày cũng như đêm. Nếu con người tình cờ đi qua một nơi nào gần đấy, điều này cũng không hay xảy ra lắm, thì lính gác có nhiệm vụ báo động từ xa trước khi người này đến đủ gần để phát hiện bất cứ cái gì. Họ cũng phát ra những báo động về kẻ thù, ngăn không cho bất cứ thỏ nào "bậy" không đúng chỗ, việc phóng uế chỉ được thực hiện ở những chỗ quy định trong cái rãnh, nơi có thể vùi phân xuống đất. Nếu lính gác gặp bất cứ thỏ nào trên mặt đất mà họ biết là không được phép, họ đều đòi cho xem dấu. Có Chúa mới biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu bạn không giải thích được mình là ai - nhưng tôi lại có thể đoán khá chuẩn. Thỏ ở Efrafa thường đi ra ngoài ban ngày vào những lúc không thấy bóng Thần Mặt trời. Nếu Dấu của họ quy định đi ăn đêm thì họ phải ăn vào ban đêm bất kề trời mưa hay tạnh, nóng hay lạnh. Tất cả quen vơi việc trò chuyện, chơi đùa và kết đôi trong những cái hang dưới đất. Nếu một Dấu (một chú thỏ mang một Dấu nhất định) không thể ăn vào giờ đã định vì lý do này khác - ví như có một con người làm việc gần đó - thì đấy là điều tồi tệ. Họ đã lỡ lượt của mình và phải đợi cho đến ngày hôm sau."
"Nhưng chắc là sống kiểu ấy sẽ thay đổi bọn chúng nhiều lắm?" Bồ Công Anh hỏi.
"Đúng thế." Nhựa Ruồi đáp "Hầu hết bọn họ không thể làm bất cứ việc gì ngoài những việc được giao. Họ không bao giờ ra ngoài lãnh địa Efrafa và không bao giờ phải đánh hơi để phát hiện kẻ thù. Mục đích duy nhất của mỗi thỏ ở đây là phấn đấu để lọt vào hàng ngũ Cốt Cán vì những đặc quyền đi kèm và mục đích duy nhất của một Cốt Cán là có chân trong Hội đồng. Một khi vào Hội đồng, họ sẽ có tất cả những gì tốt nhất. Phàm đã là Cốt Cán thì phải luôn mạnh mẽ, cứng rắn không biết nhượng bộ là gì. Các Cốt Cán thay phiên nhau làm cái mà họ gọi là Tổng tuần tra. Nghĩa là đi khắp những vùng lân cận tiếp giáp với Efrafa và phải sống phơi mình trên mặt đất vài ngày trong một đợt tuần tra như thế. Một phần là để tìm ra bất cứ thứ gì có thể tìm, một phần để lôi luyện bản thân, giúp họ trở nên cứng cáp và khôn ngoan hơn. Bất cứ thỏ lang thang nào mà họ tìm được đều bị bắt và mang về Efrafa. Nếu thỏ kia không chịu thì sẽ bị giết. Họ coi thỏ lang thang là phần tử nguy hiểm bởi vì hắn thu hút sự chú ý của con người. Những cuộc Tổng tuần tra này được báo cáo lên Thống soái Hoắc Hương và Hội đồng; đến lượt mình họ sẽ ra phán quyết xem phải làm gì, xử lý như thế nào với bất cứ cái gì lạ mà họ cho là nguy hiểm."
"Vậy họ đã để lạc mất các anh trên đường đi hả?" Hoa Chuông hỏi.
"Không, không phải thế. Sau này chúng tôi được biết rằng, sau khi chúng tôi bị Đội trưởng Thạch Trúc giải đi một lúc, một phái viên từ Đội Tổng tuần tra chạy về Hội đồng báo cáo rằng họ bắt được bốn thỏ từ miền Bắc tìm đến Efrafa, và xin mệnh lệnh. Sau đó phái viên kia quay về báo rằng chúng tôi được an toàn trong vòng kiểm soát.
Dù sao thì sau đó Đội trưởng Thạch Trúc cũng đưa chúng tôi xuống một cái hang nằm trong một con hào. Miệng hang là một phần của cái ống bằng đất nung cũ kỹ, nếu con người kéo cái ống ra, miệng hang sẽ sập xuống che đậy dấu tích của lối đi bên trong. Tại đây, những vị khách không mời chúng tôi được bàn giao cho một Đội trưởng khác - bởi vì Thạch Trúc phải lên trên mặt đất để thực hiện nốt phiên trực của mình. Chúng tôi được dẫn đến một cái hang lớn và được bảo là hãy tự nhiên như ở nhà.
Có những thỏ khác trong hang, và nhờ biết cách lắng nghe và đặt câu hỏi mà tôi biết được phần lớn những điều vừa kể cho các bạn. Chúng tôi "giao lưu" với một số cô nàng và tôi làm quen với một nàng tên là Sương Mai (Hyzenthlay, nghĩa là "Lông sáng như sương mai"). Tôi kể cho cô nàng nghe vấn đề của chúng ta ở đây và lý do của chuyến đi còn nàng thì nói cho tôi biết về Efrafa. Khi nàng kể xong, tôi thốt lên, "Nghe sao mà khủng khiếp quá. Mọi chuyện bao giờ cũng như thế sao?" Sương Mai nói không hẳn như vậy mẹ nàng kể cho nàng nghe rằng nhiều năm trước, cộng đồng này ở một nơi khác và nhỏ hơn nhiều, nhưng khi Thống soái Hoắc Hương đến, ông ta đã bắt mọi người phải chuyển đến Efrafa, rồi sau đó từng bước lập ra một hệ thống ngụy trang và hoàn thiện nó cho đến khi loài thỏ sống ở Efrafa cũng an toàn như những vì sao trên bầu trời. "Phần lớn các thỏ ở đây đều chết vì già, trừ một số bị Cốt Cán giết." Sương Mai giải thích "Nhưng vấn đề là ở chỗ nơi này đang lâm vào cảnh đất chật người đông. Bất cứ cái hang mới nào được phép đào cũng đều phải thực hiện dưới sự giám sát của Cốt Cán với tiến độ rất chậm và cẩn thận vô cùng. Tất cả đều được ngụy trang khéo léo, như các anh thấy đấy. Chúng tôi trở nên đông đúc và nhiều thỏ không được ra khỏi hang lên mặt đất đúng với nhu cầu tối thiểu của họ. Vì một số lý do, cánh đồng thỏ lâm vào cảnh âm thịnh dương suy. Nhiều thỏ trong số chị em chúng tôi không thể chửa đẻ vì nơi này đông đúc quá rồi, nhưng không ai được phép rời khỏi đây. Chỉ cách đây mấy ngày, khá đông chị em chúng tôi đã đến gặp Hội đồng xin phép được rời khỏi đây, bắt đầu một cộng đồng mới ở đâu đó. Chúng tôi hứa sẽ đi thật xa, xa tít tắp, xa đến chừng nào mà họ muốn. Nhưng Hội đồng không muốn nghe một chuyện như thế, không, chẳng vì lợi ích của ai cả. Mọi việc không được phép diễn ra như thế. Hệ thống sẽ bị phá vỡ. Chính vì thế những chuyện như vậy không được phép nêu ra."
Chà, tôi mới bụng bảo dạ, xem ra có nhỉều hy vọng đây. Chắc chắn người ta sẽ không khước từ thỉnh cầu của chúng ta, phải không? Mà chúng ta thì chỉ muốn rước đi mấy cô thỏ thôi, chứ có phải là các cậu thỏ đâu. Họ thì đang lâm vào tình trạng khủng hoảng thừa thỏ cái và chúng ta sẽ mang mấy nàng đi thật xa, xa đến nỗi không một ai ở đây từng đặt chân đến.
Một lúc sau một Đội trưởng khác đi tới, cho biết chúng tôi cần đi với anh ta tới cuộc họp Hội đồng.
Cuộc họp Hội đồng diễn ra trong một cái hang lớn. Nó dài và hơi hẹp một chút, không được tốt như Tổ Ong của chúng ta, bởi vì họ không có những chùm rễ cây làm thành một cái trần thoáng rộng. Chúng tôi phải đợi bên ngoài trong khi họ bàn luận đủ các chuyện linh tinh khác. Sự xuất hiện của chúng tôi chỉ là một vấn đề be bé trong chương trình nghị sự dưới cái tên: bắt được những kẻ lạ mặt. Có một thỏ khác cũng đợi ở ngoài và anh ta phải chịu sự giám sát đặc biệt của các Cốt Cán đặc nhiệm mà họ gọi là Cảnh sát Hội đồng. Cả đời tôi chưa bao giờ đứng gần một ai hồn kinh phách lạc đến thế - tôi nghĩ anh ta gần như phát điên lên vì sợ. Tôi hỏi một trong những cảnh sát có mặt ở đấy là thỏ này mắc vào vấn đề gì thì được biết anh ta tên là Blackavar, đã bị tóm trong khi đang cố gắng đào tẩu khỏi nơi này. Vậy là người ta giải anh bạn xấu số vào phòng họp, và lúc đầu tôi nghe tiếng anh ta cố giải thích này nọ, sau đó thì khóc hưng hức và cầu xin tha mạng: và khi anh ta đi ra tôi thấy tai anh ta đã bị xé toạc ra thành từng mảnh, còn te tua hơn cả tai tôi nữa. Tất cả chúng tôi hếch mũi về phía anh ta ngửi ngửi, sợ đến mất hết cả hồn vía, nhưng một trong những cảnh sát thấy vậy thì nói ngay, "Các anh không cần phải nhặng xị lên như thế. Nó còn giữ được cái mạng thế là đã phúc bảy đời rồi." Thế là trong khi chúng tôi nghiền ngẫm về cơ sự này thì một thỏ tới gần thông báo Hội đồng đang đợi chúng tôi.
Vừa vào đến nơi chúng tôi đã được đưa tới trước mặt Thống soái Hoắc Hương: thật rõ là một gã mặt sắt đen xì. Tôi nghĩ có khi cả anh nữa cũng chưa chắc đã là đối thủ của hắn, Tóc Giả ạ. Hắn to gần bằng con thỏ rừng và có một cái gì đó trong bộ dạng của hắn ta khiến anh phải sợ quýnh quáng, cứ như thể máu me, đánh nhau và giết chóc chỉ là một phần công việc hàng ngày của hắn. Tôi đã tưởng đâu hắn sẽ bắt đầu hỏi chúng tôi bằng những câu như chúng tôi là ai và chúng tôi muốn gì, nhưng hắn không làm thế. Hắn nói "Tôi sẽ giải thích những quy định của cộng đồng và những điều kiện mà các anh phải tuân theo khi sinh sống ở đây. Các anh phải chăm chú lắng nghe, bởi vì những quy định này cần phải được tôn trọng và bất cứ sự vi phạm nào đều sẽ bị trừng trị." Thế là tôi thanh minh ngay rằng có sự hiểu nhầm ở đây. Rằng chúng tôi là những thuyết khách thiện chí từ một cánh đồng thỏ khác đến thỉnh cầu thiện chí và sự giúp đỡ từ phía Efrafa. Sau đó tôi giải thích tiếp rằng tất cả những điều chúng tôi muốn là được họ cho phép để thuyết phục một vài cô thỏ cùng chúng tôi trở về cánh đồng thỏ của mình. Khi tôi nói xong, Thống soái mời trả lời rằng lời đề nghị của chúng tôi là không thể được và chẳng có gì phải thảo luận hết. Nghe vậy tôi mới mạnh dạn đề nghị họ cho phép chúng tôi ở lại một hai ngày hòng thuyết phục họ thay đổi ý kiến.
"Được," hắn nói "các ngươi có thể ở lại. Nhưng sẽ không có cơ cho các ngươi đứng trước Hội đồng lần nữa đâu, bất kể ở mức độ nào."
Tôi bèn nói rằng mọi người đã nhìn nhận vấn đề hơi có phần khắt khe. Yêu cầu của chúng tôi khá hợp lý. Và tôi tiếp tục bằng cách đề nghị họ hãy xét lại một vài điều từ quan điểm của chúng tôi, nhưng một thành viên khác trong Hội đồng - một lão thỏ già nua - đã nói, "Có vẻ như ngươi nghĩ mình có mặt ở đây là để tranh luận với chúng ta và dẫn đến một cuộc mặc cả thì phải. Trong khi chúng ta mới là người đưa ra luật lệ."
Khi ấy tôi mời nhắc họ nhớ rằng chúng tôi là người đại diện cho cả một cộng đồng thỏ, dẫu rằng cộng đồng ấy có thể nhỏ hơn chỗ họ đi nữa. Chúng tôi nghĩ mình nên được đối xử như những vị khách. Những chỉ nói xong tôi mới giật mình nhận ra rằng thì ra họ coi chúng tôi là tù binh, hoặc chẳng hơn gì tù binh, dù họ gọi chúng tôi là gì đi nữa.
Thế đấy, tôi không còn muốn nói thêm gì nữa về kết cục của cuộc họp mặt đó. Dâu Tây đã cố hết sức giúp tôi. Anh ấy nói đầy thuyết phục về mối quan hệ xã giao theo nghi thức và sự tương thân tương ái tự nhiên giữa loài vật với nhau. "Loài vật không cư xử như con người." Dâu Tây nói "Nếu phải đánh nhau họ sẽ đánh, nếu phải giết họ sẽ giết. Nhưng họ không ngồi lại với nhau, dùng trí khôn của mình để nghĩ ra những cách thức khác nhau hòng hủy hoại cuộc sống của những sinh vật khác hoặc làm tổn thương chúng. Họ có lòng tự trọng và tính thú."
Chỉ là đàn gảy tai trâu. Cuối cùng chúng tôi bỏ cuộc còn Thống soái Hoắc Hương thì phán, "Hội đồng không có thời gian mà lãng phí với các ngươi nữa, ta sẽ giao các ngươi về một đội, để Đội trưởng phổ bỉến nội quy cho các ngươi. Bọn các ngươi hãy gia nhập vào Đội Dấu Cánh Tả, nằm dưới quyền chỉ huy của Đội trưởng Lưỡi Rắn. Sau đó, chúng ta sẽ gặp lại các ngươi lần nữa, rồi các ngươi sẽ thấy chúng ta hoàn toàn thân thiện và tử tế với những thỏ nào hiểu rõ người ta chờ đợi gì ở chúng."
Đến đấy một Cốt Cán đưa chúng tôi đến chỗ Đội Dấu Cánh Tả. Có vẻ như Đội trưởng Lưỡi Rắn quá bận rộn không có thời gian gặp thành viên mới còn tôi thì cũng cẩn thận tránh xa đường đi của hắn, sợ rằng hắn có thể muốn "đóng dấu" chúng tôi một lúc nào đó. Nhưng chẳng bao lâu sau, tôi bắt đầu hiểu điều mà Sương Mai muốn nói khi cho rằng hệ thống này không còn vận hành một cách hợp lý nữa. Các hang ở đây rất chật chội - ít nhất là theo tiêu chuẩn của chúng ta, bạn có thể dễ dàng thoát khỏi sự chú ý. Thậm chí dù cùng trong một đội, các thỏ cũng không biết hết nhau. Chúng tôi cũng tìm được chỗ của mình trong hang và cố ngủ một giấc, nhưng vào gần đêm, chúng tôi bị đánh thức dậy và được thông báo đi ăn. Tôi những tưởng đây là cơ hội chạy đi ăn dưới ánh trăng, nhưng hình như ở đâu cũng có lính gác. Ngoài bọn lính gác, Đội trưởng còn có hai giao liên làm nhiệm vụ chạy hỏa lực đến bắt cứ hướng nào có thể có động.
Ăn xong chúng tôi lại đi xuống đất. Gần như tất cả bọn thỏ ở đây đều có vẻ ngoan ngoãn, dễ bảo. Chúng tôi tránh xa họ, bởi vì chúng tôi định trốn đi khi có cơ hội nên không muốn bị nhiều người để ý. Nhưng dù đã cố hết sức,! tôi vẫn không thể nghĩ ra một kế hoạch nào khả dĩ.
Chúng tôi lại đi ăn lần nữa, vào trước buổi trưa ngày hôm sau, ăn xong lại chui về hang. Thời gian trôi chậm vô cùng. Cuối cùng - chắc vào lúc nhá nhem tối - tôi gia nhập vào một tốp thỏ nhỏ đang lắng nghe một câu chuyện. Và mọi người biết không đó lại chính là chuyện "Rau diếp của Đức vua". Kẻ kể chuyện này còn lâu mới sánh được với Bồ Công Anh của chúng ta, nhưng tôi vẫn lắng nghe, chỉ để có một cái gì đó mà làm. Khi chú kể đến đoạn El-ahrairah giả trang thành thầy thuốc rồi vào cung của vua Darzin thì tôi chợt lóe lên một ý tưởng. Đây là một kế hoạch liều lĩnh, nhưng tôi nghĩ vẫn có cơ hội thành công, đơn giản là bởi vì một thỏ ở Efrafa đều có thói quen cắm đầu làm theo chỉ thị của cấp trên mà không thắc mắc gì hết. Tôi đã quan sát Đội trưởng Lưỡi Rắn, anh ta gây cho tôi ấn tượng là một chàng thỏ dễ mến, tận tâm, hơi có phần yếu đuối và có vẻ phiền não vì phải làm quá nhiều việc vượt quá khả năng của mình.
Đêm ấy, chúng tôi được gọi đi ra ngoài ăn tối. Trời tối đen như mực và có mưa, nhưng các bạn sẽ không phiền lòng về những điều nhỏ nhoi như thế ở Efrafa - bạn chỉ thấy sung sướng khi có dịp được ra ngoài nhấm nháp cỏ tươi. Bọn thỏ lũ lượt ra ngoài và chúng tôi chờ đợi để ra cuối cùng. Đội trưởng Lưỡi Rắn ra ngoài cồn đất cùng với hai liên lạc viên. Xám Bạc và những người khác đi ra ngoài ngay phía trước tôi, thế là tôi đi đến gần Đội trưởng thở hổn hển như vừa chạy ở đâu về.
"Đội trưởng Lưỡi Rắn!"
"Gì thế?" Anh ta vội hỏi lại "Có chuyện gì vậy?"
"Anh được triệu tập về Hội đồng, ngay lập tức."
"Tại sao? Anh muốn nói gì vậy? Để làm gì?"
"Chắc chắn họ sẽ cho anh biết khi gặp anh." tôi đáp "Tôi sẽ không để cho họ phải đợi nếu ở vào trường hợp của anh."
"Nhưng mà anh là ai?" Lưỡi Rắn hỏi lại "Anh không phải là phái viên của Hội đồng. Tôi biết mặt tất cả bọn họ. Anh mang Dấu gì?"
"Tôi không ở đây để trả lời những câu hỏi của anh." tôi cao giọng nói "Hay là để tôi quay lại thông báo với họ rằng anh sẽ không đến?"
Đội trưởng bán tín bán nghi và tôi làm bộ như sắp bỏ đi. Nhưng rồi bất thình lình anh ta nói, "Thôi được," trông anh ta như thể cả ba hồn bảy vía đều đi sơ tán cả, thật tội nghiệp, "nhưng ai sẽ trông coi ở đây trong lúc tôi đi vắng?"
"Là tôi." Tôi đáp "Lệnh của Thống soái Hoắc Hương đấy. Nhưng mau quay trở lại nhé. Tôi không muốn bị chôn chân ở đây cả nửa đêm để làm nhiệm vụ của anh đâu." Đội trưởng ba chân bốn cẳng chạy đi. Tôi quay lại chỗ ba người kia nói, "Cứ ở yên đây nhé: và chuẩn bị sẵn sàng. Tôi đi xem qua bọn lính gác."
Sau đó bốn chúng tôi chạy biến vào trong bóng đêm và chắc chắn là chúng tôi mới chỉ chạy được một đoạn ngắn thì hai lính gác đã bất ngờ xuất hiện, cố ngăn chúng tôi lại. Chúng tôi chụm lại nghênh chiến vời bọn chúng. Tôi nghĩ chúng sẽ bỏ chạy, nhưng không, chúng đánh đấm như điên và một trong hai gã đã bổ một cú vào ngay mũi Gạc Nai. Nhưng tất nhiên hai đánh một chẳng chột cũng què, cuối cùng chúng tôi vượt qua bọn chúng và chạy thục mạng qua cánh đồng. Chúng tôi cũng chẳng biết mình chạy đi đâu nữa trong cái đêm tối đen kịt cùng mưa và gió, chỉ biết cắm đầu chạy miết. Tôi nghĩ một trong những lý do cuộc truy đuổi diễn ra chậm trễ là bởi vì anh bạn Lưỡi Rắn tội nghiệp không có mặt ở đó để ra lệnh. Dù sao thì chúng tôi cũng có một khởi đầu thuận lợi. Nhưng một lúc sau đã nghe có những bước chân đuổi theo, và tệ hơn nữa là chúng tôi bị đuổi kịp.
Tin tôi đi, Cốt Cán ở Efrafa hoàn toàn không phải là để cho có, họ phải thông qua những cuộc tuyển lựa khắt khe về vóc dáng và sức mạnh và chẳng có gì về thuật di chuyển trong thời tiết ẩm ướt và bóng tối mà họ lại không biết cả. Họ lại sợ Hội đồng đến mức xem ra trên đời này chẳng còn điều gì đáng sợ nữa. Chẳng bao lâu sau tôi hiểu rằng chúng tôi đang trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Đội truy tìm chắc chắn có tốc độ nhanh hơn chúng tôi khi chạy trong đêm tối mưa gió và chẳng bao lâu sau sẽ bắt kịp. Tôi toan nói với các bạn đồng hành rằng chúng tôi chỉ còn mỗi một cách là quay lại và chiến đấu thì thấy mình chạy đến một bờ đất rất lớn, gần như dốc thẳng lên trời. Còn dốc hơn cái sườn núi phía dưới chúng ta đây, hơn nữa trông nó có vẻ rất cân xứng tựa hồ con người đã tạo ra nó.
Vậy là, chẳng còn thời gian suy nghĩ nữa, chúng tôi cứ thế mà lao lên dốc. Sườn dốc phủ đầy những bãi cỏ thô ráp và bụi cây. Tôi không biết từ chân dốc đến đỉnh dài bao xa, nhưng tôi đoán phải cao bằng cây thanh lương trà trưởng thành, thậm chí có lẽ còn cao hơn. Lên đến đỉnh, chúng tôi thấy mình đang đi trên những phiến đá nhỏ và nhẹ cứ lăn đi dưới bước chân của chúng tôi. Điều này đã giúp chúng tôi tẩu thoát. Sau đó chúng tôi đến một chỗ có những tấm gỗ dèn dẹt, to bản và hai thanh kim loại lớn được vít chặt lại tạo ra những tiếng ồn - nghe như những tiếng u u trầm trầm kéo dài. Tôi vừa mới bụng bảo dạ rằng "Lại một thứ do con người làm ra đây," thì đã lăn tòm sang bờ dốc bên kia. Tôi đã không nhận ra rằng toàn bộ đỉnh của cái bờ đó rất hẹp và bờ bên kia cũng rất dốc. Tôi lộn nhào xuống bờ đất trong đêm tối, lao vào một bụi cây cơm cháy và nằm lại đó."
Nhựa Ruồi dừng lời, im lặng một lúc như thể đang duyệt lại những gì hiện ra trong ký ức. Cuối cùng chú nói.
"Thật khó có thể tả lại đầy đủ cho các bạn những gì xảy ra tiếp theo đó. Mặc dù cả bốn đều có mặt, chúng tôi không hiểu làm sao lại có những chuyện đó. Nhưng điều tôi nói sau đây là sự thật thuần túy. Có lẽ chính Thần Mặt trời đã phái những Sứ giả vĩ đại của Người đến cứu chúng tôi khỏi bọn Cốt Cán ở efrafa. Mỗi đứa trong chúng tôi đều lăn khỏi bờ dốc đến một điểm rơi khác nhau. Gạc Nai gần như không nhìn rõ đuờng vì máu me be bét thì gần như lao thẳng xuống đáy. Tôi bò dậy, nhìn lên đỉnh. Một chút ánh sáng trên bầu trời cũng được nhìn thấy bọn Efrafa nếu chúng xuất hiện. Và rồi... có một vật kỳ vĩ - tôi không thể đưa ra bất cứ một ý niệm gì về nó - chỉ biết rằng nó to bằng một ngàn lần hrududu - hoặc to hơn nữa - lù lù tiến ra khỏi bóng đ Toàn thân nó toàn những lửa, khói và ánh sáng, khiếp nó gầm rú mới gớm chứ, ra sức nện vào những thanh kim loại cho đến khi mặt đất cũng rung chuyển lên ở phía dưới. Nó lao vào giữa chúng tôi và bọn Efrafa như một ngàn trận bão tố cùng với những tia chớp. Tôi phải thú nhận với các bạn rằng cái tôi cảm thấy còn lớn hơn cả nỗi kinh hoàng thuần túy. Tôi... tôi không sao cử động được. Hơi nóng và tiếng ồn… tất cả xé toạc màn đêm ra làm hai. Tôi không biết chuyện gì xảy ra với bọn Efrafa nữa hoặc chúng đã chạy thoát hoặc chúng bị cái vật kia nghiến nát. Và rồi bất thình lình nó đi mất, chúng tôi nghe thấy nó biến mất, xình xịch rầm rầm, xình xịch rầm rầm rồi trôi dần xa dần vao trong đêm. Chúng tôi đứng trơ khấc lại một mình.
Mất một lúc lâu tôi vẫn không cử động được. Cuối cùng tôi cũng cố đứng dậy đi tìm những người kia, từng người một, trong đêm tối. Không ai trong chúng tôi nói một lời nào. Ở dưới chân dốc, chúng tôi phát hiện ra một kiểu đường hầm thông từ bờ bên này sang bờ bên kia. Chúng tôi chui vào đó và bò sang cái bờ mà chúng tôi đã trèo lên. Sau đó chúng tôi di một đoạn đường dài xuyên qua nhũng cánh đồng cho đến khi tôi biết chắc là chúng tôi đã hoàn toàn cách xa Efrafa. Chúng tôi bò vào một cái rãnh và ngủ ở đấy, cả bốn người, cho đến sáng. Chẳng có lý do gì giải thích tại sao không có bất cứ một cái gì đó đến kết liễu bọn chúng tôi, tuy vậy chúng tôi biết mình vẫn an toàn. Các bạn có thể nghĩ thật là một điều kỳ diệu khi được Thần Mặt trời cứu giúp bằng quyền năng của Người. Tôi cũng băn khoăn không biết có bao nhiêu thỏ được hưởng ân huệ này? Nhưng tôi phải nói rằng điều này còn đáng sợ hơn bị bọn Efrafa truy đuổi rất nhiều. Không một ai trong chúng tôi có thể quên được việc nằm trên bờ đất dưới trời mưa trong khi cái vật toàn khói và lửa ấy chạy qua đầu. Mà tại sao nó lại đến vì chúng tôi cơ chứ? Điều đó vượt quá những gì chúng tôi có thể biết.
Sáng hôm sau, tôi đi quan sát một vòng và chẳng bao lâu đã nhận ra được đâu mới là hướng đi đúng. Các bạn biết các bạn vẫn thường làm như thế nào mà. Mưa đã tạnh và chúng tôi lên đường. Nhưng chuyến đi về mới thật là khó nhọc. Tất cả không còn chút sức lực nào - tất cả chỉ trừ Xám Bạc: tôi không biết chúng tôi sẽ xoay xở như thế nào nếu không có cậu ấy. Chúng tôi đi ròng rã một ngày một đêm mà không được nghỉ lấy một lần cho ra nghỉ. Tất cả đều cảm thấy rằng trên đời này, điều duy nhất mà chúng tôi muốn làm là trở về đây càng sớm càng tốt. Khi về đến khu rừng vào sáng nay, tôi đã đi tập tễnh trong một giấc mơ tồi tệ. Tôi e là mình cũng chẳng khá hơn Dâu Tây tội nghiệp chút nào. Cậu ấy không phàn nàn một tiếng, nhưng sức khỏe suy sụp, cần nghỉ ngơi tĩnh dưỡng một thời gian đài, và tôi cho là mình cũng thế. Còn Gạc Nai - đây là lần thứ hai anh ấy nhận một vết thương tệ hại như thể. Nhung đó còn chưa phải là điều tệ hại nhất, đúng không? Chúng ta đã mất Cây Phỉ, đó là điều đáng sợ nhất có thể xảy ra. Một số các bạn đã có lời hỏi tôi vào lúc nãy rằng tôi có muốn lên làm Thủ lĩnh không. Tôi rất vui khi thấy các bạn tin tưởng ở mình, nhưng tôi đã là một ngọn đèn hết dầu rồi, tôi không thể đảm đương nhiệm vụ đó. Tôi cảm thấy mình khô khốc và trống rỗng như một cái nấm trứng mùa thu – như thể chỉ cần một ngọn gió là cũng có thể thổi bộ lông của tôi bay mất."