Chương 46
Tác giả: NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH
Trong những ngày lầm lũi đóng bè ở hoang đảo, tôi và Kiến nâu đã tình cờ cứu thoát một nhà thông thái của biển cả. đó là chú Tôm Cát. Và chính nhân vật này đã gúp chúng tôi rất đắc lực trong chuyến vượt biển lần thứ hai tìm về đất liền.
Thủa bấy giờ Tôm Cát đã nổi tiếng ở đại dương về những chuyến du lịch thần tình không bao giờ lạc hướng. Sở dĩ như vậy vì trên đầu chú có dấu một chiếc la bàn bé xíu cực kỳ chính xác.
Khi có ánh nắng mặt trời chiếu vào là chiếc la bàn bắt đầu chiếc la bàn
quay định hướng không bao giờ biết mệt mỏi. Nó chỉ tạm nghỉ khi biển cả tràn ngập sương mù, hoặc bị nhấn chìm trong giông bão. Tôm Cát đi biển nhiều và cũng nổi tiếng như bác Cồ Cộ ở trên đất liền. Nhưng chú không chỉ đi dong chơi ngắm danh lam thắng cảnh mà còn miệt mài vẽ một tấm bản đồ đi biển với ý đồ tốt đẹp là giúp cho những ai sa vào cảnh ngộ lưu lạc lang thang trên biển. Để làm việc được yên tĩnh, Tôm Cát đã tìm ra đảo Đen cặm cụi hoàn thành công trình của mình. Nhưng rủi thay ở đảo, chú đã lâm vào một tai nạn nguy hiểm mà không ai biết để đến cứu. Một lần biển động, nước dâng cao, Tôm Cát theo sóng xông vào tận trong đảo Đen, khi nước rút, vì mải công việc suy nghĩ trầm tư nghiên cứu nên chú bị mắc lại một vũng nước trong hõm đá. Thế là vô tình chú đã bị tì trong hỏm đá đó và chỉ còn đợi chết.
Trong những ngày chúng tôi lạc trên đảo thì tình cảnh của chú đã rất nguy kịch. Chú đang ngắc ngoải chết đói, chết ngạt vì nước trong hõm đá đã bốc hơi cạn gần hết.
Một buổi trưa nắng, tôi và Kiến Nâu trên đường khiêng ống sậy về tình cờ ghé vào hốc đá đó tránh nắng thì thấy Tôm Cát nằm thườn thượt, hai mắt lờ đờ, mồm cứ ngáp ngáp liên hồi. Đúng là một kẻ đang hấp hối. trông thấy
Tôm Cát Kiến Nâu vội reo lên:
- A! Con mồi to quá Kiến lửa ơi!
Hai đứa tôi vội quăng ống sậy, bò quanh Tôm Cát nhòm ngó rồi thích thú tranh nhau nói:
- May ghê, may ghê, Chú Tôm to quá.
- Sao lại có cái mồi béo bở thế này để ở đây nhỉ.
- Đúng là trời phật để dành cho mình đây.
- Phen này được bữa chén căng bụng. Gớm lâu quá rồi không được miếng thịt tôm, tớ thèm ghê.
Tôi và Kiến Nâu bàn nhau tính chuyện xả thịt chú chuyển dần về cái hốc đá dưới suối thì chợt chú Tôm Cát vặn mình rên rỉ kêu lên:
- Ôi... đừng ăn thịt tôi... Hãy cứu tôi... Ôi khát quá, ngạy quá.
Thấy chú Tôm chưa chết. Tôi và Kiến Nâu giật mình vội lùi xa thế thủ.
Trong lúc đó Tôm Cát cứ rên rỉ:
- Ôi... ôi... mệt quá... cầu xin hai cậu Kiến cứu tôi... đừng xả thịt tôi ...
Lúc bấy giờ, không hiểu sao chúng tôi đều thấy thương chú Tôm không may này. Kiến Nâu thật thà hỏi:
- Nằm ườn ra thế này, bọn này ngỡ là ngỏm rồi. Vậy là chư chết a?
- Chưa... hừ hừ... Vẫn còn sống. Chí khát và ngạt thôi.
- Sao đằng ấy lại bò vào đây?
- Tớ bị mắc cạn. Hai cậu cứu tớ đừng ăn thịt tớ vì tớ còn phải... Hừ hừ...
- Cậu cũng cảnh lạc tổ chứ gì?
Nom Tôm Cát oằn oại, tôi gnhĩ rằng chú cũng lâm vào cảnh bơ vơ lạc tổ như chúng tôi nên tôi hỏi vậy, nhưng chú lắc đầu:
- Không... Tớ không lạc tổ... Đừng ăn thịt tớ để tớ còn vẽ nốt bản đồ đi biển.
Tôi và chú Kiến Nâu dón dén lại gần và hỏi bản đồ đi biển là gì thì Tôm
Cát phều phào giải thích sơ qua cho nghe:
Nghe xong Kiến Nâu vặn râu kêu lên:
- Hay thật. Giá có cái bản đồ ấy thì chúng tớ đã không chết hụt ngoài biển.
- Thế thì cứu tớ mới... để tớ vẽ nốt... Làm phúc đi. Ôi!...mệt quá.
- Tất nhiên là chúng tớ sẽ không xả thịt cậu ra nữa. Nhưng cứu cậu thế nào đây.
Tôm Cát quá mệt, không nói được nữa. Chỉ còn dương mắt lờ đờ nhìn hai đứa tôi. Thật là tội nghiệp. Tôi và Kiến Nâu bò quanh quẩn lay gọi chú, nhưng chú chỉ còn ú ớ. Có lẽ Tôm Cát sắp tắc thở. Hai đứa tôi ngây ra nhìn nhau, lúng túng. Rồi Kiến Nâu bảo:
- Chỉ còn cách bọn ta chịu khó khiêng chú ta xuống suối.
- Nhưng nặng è cổ đấy.
- Chả nhẽ để mặc chú ta chết khô ở đây trong khi tấm bản đồ đi biển vẽ chưa xong. Chịu khó vậy Kiến Lửa ạ.
- Tớ nói vậy thôi. Nhất định tớ phải cứu Tôm Cát rồi.
Tôi và Kiến Nâu chụm râu bàn bạc một lúc rồi chúng tôi quyết định trói
sáu cẳng chú Tôm lại rồi luồn cái ống sậy qua và khênh chú lên.
Tôm Cát nặng lắm. Hai Kiến tôi phải cong cả đuôi mới khênh chú lên
khỏi cái hõm. Kiến Nâu lắc đầu ngoái lại, than với tôi:
- Trời ơi! Nặng quá. Cậu đi sau cẩn thận kẻo ngã què cẳng. Điệu này phải chiều mới đưa được chú ta xuống suối.
Đúng như Kiến Nâu nói. Hì hục mãi suốt từ trưa tới chiều tôi và Kiến Nâu mới khênh được Tôm Cát tới bờ suối. Lúc đặt Tôm Cát xuống bờ suối thì chú đã cứng mình, đờ râu ra và mắt trợn trừng. Kiến Nâu lo lắng bảo:
- Có lẽ Tôm Cát chết rồi, không thể cứu được.
Nhưng tôi chỉ cười thầm và lẳng lặng lăn Tôm Cát xuống nước. Quả nhiên vừa dìm Tôm Cát xuống dòng nước được một lúc thì hệt như Kiến Nâu hôm nọ, chú Tôm bỗng ngọ nguậy ngọ nguậy, tỉnh lại.
- Sống rồi.
Kiến Nâu reo lên, tí nữa thì cũng nhảy ùm xuống suối.
- Thật đúng là thần tình.
Tôi cười bảo:
- Y như đằng ấy hôm nọ thôi.
Tôm Cát nằm thở dưới suối một lát sau đã vùng dậy bơi lượn nhẹ nhàng tươi tắn. Nom thấy hai đứa tôi ngồi nghỉ trên bờ, chú bơi lại, ngóc đầu lên khua râu vui vẻ bảo:
- Nhờ có các cậu mà tớ được sống để nốt tấm bản đồ đi biển, các cậu tố bụng quá. Bây giờ làm quen với nhau nhé. Cho tớ hỏi vài lời. Hình như các cậu không phải thổ dân trên đảo thì phải?
- Bọn tớ là dân ở đất mẹ thân yêu.
Kiến Nâu nói vậy rồi vuốt rẩu vẻ đắc ý. Tôi bèn kể tỉ mỉ cảnh ngộ tuyệt
vọng của chúng tôi hiện nay cho Tôm Cát nghe. Tôm Cát lắc đầu liên hồi, kêu lên:
- Sao mà số kiếp các cậu long đong thế... Chao ôi... Long đong quá... Giá mà tớ vẽ xong cái bản đồ đi biển thì các cậu đâu đến nỗi bị lạc một trận hụt chết thế... Ôi... số các cậu long đong quá.
Rồi chú lo lắng hỏi chúng tôi:
- Thế hai cậu Kiến giờ trú tạm ở đâu?
- Chúng tớ lập tổ quanh quẩn đây thôi. Ở dưới một hóc đá to.
Kiến Nâu đỡ lời, đưa mắt cho tôi. “Chú vẫn chưa quên thói quen của cảnh sống độc thân là phải giữ kín chỗ trú ở”
- Các cậu chỉ nên ở đây thôi, chớ có xông vào sâu trong kia, nguy hiểm lắm.
Và Tôm Cát bám vào một hòn sỏi, ngoi đầu lên khỏi mặt nước nói với
chúng tôi:
- Các cậu đang lạc vào một hoang đảo cổ xưa. Ở trong đảo có rất nhiều cây cổ đại như dương xỉ, tùng bách và nhiều loài vật từ lâu đời tính tình rất hung ác chỉ quen ăn thịt lẫn nhau. Hòn đảo này là một đứa con hoang của bể khơi. Nó lang thang nay đây mai đó chẳng chịu ở đâu lâu. Cách đây hơn một ngàn năm, nó còn bám vào quần đảo San Hô ở vùng biển phương Bắc.
Nhưng rồi không hiểu sao bỗng nhiên nó tách ra và trôi nổi tới đây. Chắc các cậu đã đọc dòng chữ khắc ở vách đá đen to tướng ở ngoài kia rồi chứ. Tên nó là “Đảo đen Cô độc”.
Tôi và Kiến Nâu đồng thanh nói:
- Chúng tớ cũng đã được nghe ông Sứa Lửa kể về hòn đảo này rồi. Chính ông Sứa Lửa đang đi tìm nó đấy.
- Những kẻ nghiên cứu bể thì rất mê hòn đảo này vì họ tìm thấy ở đây rất nhiều dấu vết cổ xưa để lại. Nhưng tớ khuyên các cậu đừng có mò sâu vào trong đó kẻo gặp chuyện kinh khủng đấy.
- Không vào sâu thì không kiếm được ống sậy. Mà chúng tớ thì đang cần ống sậy và dây rừng để đóng bè vượt biển.
- Thế thì các cậu phải cẩn thận lắm mới được.
- Cám ơn cậu đã dặn dò. Nhưng mà này, chúng tớ muốn nhờ cậu một việc có được không. Tôi cúi xuống sát dòng nước và thong thả nói với Tôm Cát:
- Khi nào đóng bè xong, đằng ấy cho tớ mượn tấm bản đồ đi biển nhé. Để tớ tìm đường về vùng Dừa ngọt ngào.
Tôm Cát gật đầu lia lịa:
- Được rồi, được rồi, không cho các cậu mượn thì cho ai mượn nữa. Nhất là các cậu lại là những loài ở trên đất liền không thạo đi biển. Các cậu cứ đóng bè xong tớ cho mượn liền.
- Nhưng lúc bấy giờ chúng tớ biết tìm cậu ở đâu?
- Các cậu cứ xuôi theo dòng suối này sẽ ra một bờ vịnh nhỏ, rồi chèo
thẳng sang bờ cát vàng bên kia vịnh, tìm cái tháp đá hình quả ô mai. Tớ hiện giờ đang ở trong một hốc nhỏ dưới đáy tháp.
- Cái tháp ấy cũng bằng đá đen à?
- Không. Nó trắng như ánh nắng buổi trưa. Cái tháp trắng ấy thuộc về một hòn đảo khác không tên. Xưa kia ở đây chỉ có hòn đảo không tên. Khi hòn đảo Đen trôi tới rồi dính vào hòn đảo không tên tạo thành một cái vịnh nhỏ.
Thôi, bây giờ tớ về cái tháp Trắng của tớ đây, xa nó lâu quá rồi, mà tấm bản đồ vẽ dở dang cất giấu ở đó. Tớ nhớ nó quá. Về nhé. Tạm biệt hai cậu Kiến tốt bụng.
Tôm Cát cúi chào chúng tôi rồi ve vẩy bơi đi. Nhưng vừa ra giữa dòng,
bỗng nhiên chú quay lại và hớt hải gọi.
- Hai cậu Kiến Lửa ơi. Tớ hỏi câu này các cậu cứ thật thà trả lời nhé. Hình như các cậu thích chén thịt Tôm lắm phải không?
Tưởng Tôm nói điều gì. Nghe thấy vậy, tôi ngượng cụp râu. Còn Kiến
Nâu thì lúng túng chống chế:
- Ấy... không... họ nhà Kiến chúng tớ... mà mà... Nhưng mà sao cậu lại hỏi thế?
- Cậu Nâu cứ trả lời thật bụng đi. Tớ hỏi thật thà đấy.
- Quả là lâu lắm rồi chúng tớ chưa được chén miếng thịt nào cả.
Thấy Tôm Cát hỏi không có vẻ chế diễu. Tôi cũng đành nói thẳng.
- Từ hôm lên đảo chúng tớ toàn chén rêu đá, uống nước suối. Bây giờ có miếng thịt thì... thì... nhất là thịt Tôm thì còn gì bằng.
- Chúng tớ cũng thích chén thịt Ruồi nữa. Chà! Giá có miếng thịt tươi ở
đây, tớ sẽ đem quay nắng vàng lên để , chà... chà.
Kiến Nâu đõ lời tôi rồi xít xao. Tôm Cát mủm mỉm cười vặt nghéo luôn
cái càng rồi quẳng lên bờ, nói đế theo:
- Tớ biết ngay mà, đây, gọi là có món quà tặng các cậu bữa chén.
Sự việc diễn ra nhanh quá khiến cho tôi và Kiến Nâu ngớ ra. Nhìn cái
Càng tôm ngọ nguậy trên bãi sỏi. Kiến Nâu ân hận kêu lên.
- Chết thôi... ai bảo cậu vặt cẳng đi thế này.
Còn tôi thì dậm cẳng kêu.
- Khổ quá, khổ quá.
Nhưng Tôm Cát tươi cười vểnh râu vung cái càng còn lại lên đầy vẻ đắc ý, khoe khoang:
- Đừng lo, đừng lo. Vài tuần sẽ mọc lại thôi. Tớ chỉ cần một cái càng này là đủ vẽ bản đồ đi biển rồi. Giá mà không vội vẽ xong thì tớ biếu mỗi cậu một cái càng cho Trong những ngày lầm lũi đóng bè ở hoang đảo, tôi và Kiến nâu đã tình cờ cứu thoát một nhà thông thái của biển cả. đó là chú Tôm Cát. Và chính nhân vật này đã gúp chúng tôi rất đắc lực trong chuyến vượt biển lần thứ hai tìm về đất liền.
Thủa bấy giờ Tôm Cát đã nổi tiếng ở đại dương về những chuyến du lịch thần tình không bao giờ lạc hướng. Sở dĩ như vậy vì trên đầu chú có dấu một chiếc la bàn bé xíu cực kỳ chính xác.
Khi có ánh nắng mặt trời chiếu vào là chiếc la bàn bắt đầu chiếc la bàn
quay định hướng không bao giờ biết mệt mỏi. Nó chỉ tạm nghỉ khi biển cả tràn ngập sương mù, hoặc bị nhấn chìm trong giông bão. Tôm Cát đi biển nhiều và cũng nổi tiếng như bác Cồ Cộ ở trên đất liền. Nhưng chú không chỉ đi dong chơi ngắm danh lam thắng cảnh mà còn miệt mài vẽ một tấm bản đồ đi biển với ý đồ tốt đẹp là giúp cho những ai sa vào cảnh ngộ lưu lạc lang thang trên biển. Để làm việc được yên tĩnh, Tôm Cát đã tìm ra đảo Đen cặm cụi hoàn thành công trình của mình. Nhưng rủi thay ở đảo, chú đã lâm vào một tai nạn nguy hiểm mà không ai biết để đến cứu. Một lần biển động, nước dâng cao, Tôm Cát theo sóng xông vào tận trong đảo Đen, khi nước rút, vì mải công việc suy nghĩ trầm tư nghiên cứu nên chú bị mắc lại một vũng nước trong hõm đá. Thế là vô tình chú đã bị tì trong hỏm đá đó và chỉ còn đợi chết.
Trong những ngày chúng tôi lạc trên đảo thì tình cảnh của chú đã rất nguy kịch. Chú đang ngắc ngoải chết đói, chết ngạt vì nước trong hõm đá đã bốc hơi cạn gần hết.
Một buổi trưa nắng, tôi và Kiến Nâu trên đường khiêng ống sậy về tình cờ ghé vào hốc đá đó tránh nắng thì thấy Tôm Cát nằm thườn thượt, hai mắt lờ đờ, mồm cứ ngáp ngáp liên hồi. Đúng là một kẻ đang hấp hối. trông thấy
Tôm Cát Kiến Nâu vội reo lên:
- A! Con mồi to quá Kiến lửa ơi!
Hai đứa tôi vội quăng ống sậy, bò quanh Tôm Cát nhòm ngó rồi thích thú tranh nhau nói:
- May ghê, may ghê, Chú Tôm to quá.
- Sao lại có cái mồi béo bở thế này để ở đây nhỉ.
- Đúng là trời phật để dành cho mình đây.
- Phen này được bữa chén căng bụng. Gớm lâu quá rồi không được miếng thịt tôm, tớ thèm ghê.
Tôi và Kiến Nâu bàn nhau tính chuyện xả thịt chú chuyển dần về cái hốc đá dưới suối thì chợt chú Tôm Cát vặn mình rên rỉ kêu lên:
- Ôi... đừng ăn thịt tôi... Hãy cứu tôi... Ôi khát quá, ngạy quá.
Thấy chú Tôm chưa chết. Tôi và Kiến Nâu giật mình vội lùi xa thế thủ.
Trong lúc đó Tôm Cát cứ rên rỉ:
- Ôi... ôi... mệt quá... cầu xin hai cậu Kiến cứu tôi... đừng xả thịt tôi ...
Lúc bấy giờ, không hiểu sao chúng tôi đều thấy thương chú Tôm không may này. Kiến Nâu thật thà hỏi:
- Nằm ườn ra thế này, bọn này ngỡ là ngỏm rồi. Vậy là chư chết a?
- Chưa... hừ hừ... Vẫn còn sống. Chí khát và ngạt thôi.
- Sao đằng ấy lại bò vào đây?
- Tớ bị mắc cạn. Hai cậu cứu tớ đừng ăn thịt tớ vì tớ còn phải... Hừ hừ...
- Cậu cũng cảnh lạc tổ chứ gì?
Nom Tôm Cát oằn oại, tôi gnhĩ rằng chú cũng lâm vào cảnh bơ vơ lạc tổ như chúng tôi nên tôi hỏi vậy, nhưng chú lắc đầu:
- Không... Tớ không lạc tổ... Đừng ăn thịt tớ để tớ còn vẽ nốt bản đồ đi biển.
Tôi và chú Kiến Nâu dón dén lại gần và hỏi bản đồ đi biển là gì thì Tôm
Cát phều phào giải thích sơ qua cho nghe:
Nghe xong Kiến Nâu vặn râu kêu lên:
- Hay thật. Giá có cái bản đồ ấy thì chúng tớ đã không chết hụt ngoài biển.
- Thế thì cứu tớ mới... để tớ vẽ nốt... Làm phúc đi. Ôi!...mệt quá.
- Tất nhiên là chúng tớ sẽ không xả thịt cậu ra nữa. Nhưng cứu cậu thế nào đây.
Tôm Cát quá mệt, không nói được nữa. Chỉ còn dương mắt lờ đờ nhìn hai đứa tôi. Thật là tội nghiệp. Tôi và Kiến Nâu bò quanh quẩn lay gọi chú, nhưng chú chỉ còn ú ớ. Có lẽ Tôm Cát sắp tắc thở. Hai đứa tôi ngây ra nhìn nhau, lúng túng. Rồi Kiến Nâu bảo:
- Chỉ còn cách bọn ta chịu khó khiêng chú ta xuống suối.
- Nhưng nặng è cổ đấy.
- Chả nhẽ để mặc chú ta chết khô ở đây trong khi tấm bản đồ đi biển vẽ chưa xong. Chịu khó vậy Kiến Lửa ạ.
- Tớ nói vậy thôi. Nhất định tớ phải cứu Tôm Cát rồi.
Tôi và Kiến Nâu chụm râu bàn bạc một lúc rồi chúng tôi quyết định trói
sáu cẳng chú Tôm lại rồi luồn cái ống sậy qua và khênh chú lên.
Tôm Cát nặng lắm. Hai Kiến tôi phải cong cả đuôi mới khênh chú lên
khỏi cái hõm. Kiến Nâu lắc đầu ngoái lại, than với tôi:
- Trời ơi! Nặng quá. Cậu đi sau cẩn thận kẻo ngã què cẳng. Điệu này phải chiều mới đưa được chú ta xuống suối.
Đúng như Kiến Nâu nói. Hì hục mãi suốt từ trưa tới chiều tôi và Kiến Nâu mới khênh được Tôm Cát tới bờ suối. Lúc đặt Tôm Cát xuống bờ suối thì chú đã cứng mình, đờ râu ra và mắt trợn trừng. Kiến Nâu lo lắng bảo:
- Có lẽ Tôm Cát chết rồi, không thể cứu được.
Nhưng tôi chỉ cười thầm và lẳng lặng lăn Tôm Cát xuống nước. Quả nhiên vừa dìm Tôm Cát xuống dòng nước được một lúc thì hệt như Kiến Nâu hôm nọ, chú Tôm bỗng ngọ nguậy ngọ nguậy, tỉnh lại.
- Sống rồi.
Kiến Nâu reo lên, tí nữa thì cũng nhảy ùm xuống suối.
- Thật đúng là thần tình.
Tôi cười bảo:
- Y như đằng ấy hôm nọ thôi.
Tôm Cát nằm thở dưới suối một lát sau đã vùng dậy bơi lượn nhẹ nhàng tươi tắn. Nom thấy hai đứa tôi ngồi nghỉ trên bờ, chú bơi lại, ngóc đầu lên
khua râu vui vẻ bảo:
- Nhờ có các cậu mà tớ được sống để nốt tấm bản đồ đi biển, các cậu tố bụng quá. Bây giờ làm quen với nhau nhé. Cho tớ hỏi vài lời. Hình như các cậu không phải thổ dân trên đảo thì phải?
- Bọn tớ là dân ở đất mẹ thân yêu.
Kiến Nâu nói vậy rồi vuốt rẩu vẻ đắc ý. Tôi bèn kể tỉ mỉ cảnh ngộ tuyệt
vọng của chúng tôi hiện nay cho Tôm Cát nghe. Tôm Cát lắc đầu liên hồi, kêu lên:
- Sao mà số kiếp các cậu long đong thế... Chao ôi... Long đong quá... Giá mà tớ vẽ xong cái bản đồ đi biển thì các cậu đâu đến nỗi bị lạc một trận hụt chết thế... Ôi... số các cậu long đong quá.
Rồi chú lo lắng hỏi chúng tôi:
- Thế hai cậu Kiến giờ trú tạm ở đâu?
- Chúng tớ lập tổ quanh quẩn đây thôi. Ở dưới một hóc đá to.
Kiến Nâu đỡ lời, đưa mắt cho tôi. “Chú vẫn chưa quên thói quen của cảnh sống độc thân là phải giữ kín chỗ trú ở”
- Các cậu chỉ nên ở đây thôi, chớ có xông vào sâu trong kia, nguy hiểm lắm.
Và Tôm Cát bám vào một hòn sỏi, ngoi đầu lên khỏi mặt nước nói với
chúng tôi:
- Các cậu đang lạc vào một hoang đảo cổ xưa. Ở trong đảo có rất nhiều cây cổ đại như dương xỉ, tùng bách và nhiều loài vật từ lâu đời tính tình rất hung ác chỉ quen ăn thịt lẫn nhau. Hòn đảo này là một đứa con hoang của bể khơi. Nó lang thang nay đây mai đó chẳng chịu ở đâu lâu. Cách đây hơn một ngàn năm, nó còn bám vào quần đảo San Hô ở vùng biển phương Bắc.
Nhưng rồi không hiểu sao bỗng nhiên nó tách ra và trôi nổi tới đây. Chắc các cậu đã đọc dòng chữ khắc ở vách đá đen to tướng ở ngoài kia rồi chứ. Tên nó là “Đảo đen Cô độc”.
Tôi và Kiến Nâu đồng thanh nói:
- Chúng tớ cũng đã được nghe ông Sứa Lửa kể về hòn đảo này rồi. Chính ông Sứa Lửa đang đi tìm nó đấy.
- Những kẻ nghiên cứu bể thì rất mê hòn đảo này vì họ tìm thấy ở đây rất nhiều dấu vết cổ xưa để lại. Nhưng tớ khuyên các cậu đừng có mò sâu vào trong đó kẻo gặp chuyện kinh khủng đấy.
- Không vào sâu thì không kiếm được ống sậy. Mà chúng tớ thì đang cần ống sậy và dây rừng để đóng bè vượt biển.
- Thế thì các cậu phải cẩn thận lắm mới được.
- Cám ơn cậu đã dặn dò. Nhưng mà này, chúng tớ muốn nhờ cậu một việc có được không. Tôi cúi xuống sát dòng nước và thong thả nói với Tôm Cát:
- Khi nào đóng bè xong, đằng ấy cho tớ mượn tấm bản đồ đi biển nhé. Để tớ tìm đường về vùng Dừa ngọt ngào.
Tôm Cát gật đầu lia lịa:
- Được rồi, được rồi, không cho các cậu mượn thì cho ai mượn nữa. Nhất là các cậu lại là những loài ở trên đất liền không thạo đi biển. Các cậu cứ đóng bè xong tớ cho mượn liền.
- Nhưng lúc bấy giờ chúng tớ biết tìm cậu ở đâu?
- Các cậu cứ xuôi theo dòng suối này sẽ ra một bờ vịnh nhỏ, rồi chèo
thẳng sang bờ cát vàng bên kia vịnh, tìm cái tháp đá hình quả ô mai. Tớ hiện giờ đang ở trong một hốc nhỏ dưới đáy tháp.
- Cái tháp ấy cũng bằng đá đen à?
- Không. Nó trắng như ánh nắng buổi trưa. Cái tháp trắng ấy thuộc về một hòn đảo khác không tên. Xưa kia ở đây chỉ có hòn đảo không tên. Khi hòn đảo Đen trôi tới rồi dính vào hòn đảo không tên tạo thành một cái vịnh nhỏ.
Thôi, bây giờ tớ về cái tháp Trắng của tớ đây, xa nó lâu quá rồi, mà tấm bản đồ vẽ dở dang cất giấu ở đó. Tớ nhớ nó quá. Về nhé. Tạm biệt hai cậu Kiến tốt bụng.
Tôm Cát cúi chào chúng tôi rồi ve vẩy bơi đi. Nhưng vừa ra giữa dòng,
bỗng nhiên chú quay lại và hớt hải gọi.
- Hai cậu Kiến Lửa ơi. Tớ hỏi câu này các cậu cứ thật thà trả lời nhé. Hình như các cậu thích chén thịt Tôm lắm phải không?
Tưởng Tôm nói điều gì. Nghe thấy vậy, tôi ngượng cụp râu. Còn Kiến
Nâu thì lúng túng chống chế:
- Ấy... không... họ nhà Kiến chúng tớ... mà mà... Nhưng mà sao cậu lại hỏi
thế?
- Cậu Nâu cứ trả lời thật bụng đi. Tớ hỏi thật thà đấy.
- Quả là lâu lắm rồi chúng tớ chưa được chén miếng thịt nào cả.
Thấy Tôm Cát hỏi không có vẻ chế diễu. Tôi cũng đành nói thẳng.
- Từ hôm lên đảo chúng tớ toàn chén rêu đá, uống nước suối. Bây giờ có
miếng thịt thì... thì... nhất là thịt Tôm thì còn gì bằng.
- Chúng tớ cũng thích chén thịt Ruồi nữa. Chà! Giá có miếng thịt tươi ở
đây, tớ sẽ đem quay nắng vàng lên để , chà... chà.
Kiến Nâu đõ lời tôi rồi xít xao. Tôm Cát mủm mỉm cười vặt nghéo luôn
cái càng rồi quẳng lên bờ, nói đế theo:
- Tớ biết ngay mà, đây, gọi là có món quà tặng các cậu bữa chén.
Sự việc diễn ra nhanh quá khiến cho tôi và Kiến Nâu ngớ ra. Nhìn cái
Càng tôm ngọ nguậy trên bãi sỏi. Kiến Nâu ân hận kêu lên.
- Chết thôi... ai bảo cậu vặt cẳng đi thế này.
Còn tôi thì dậm cẳng kêu.
- Khổ quá, khổ quá.
Nhưng Tôm Cát tươi cười vểnh râu vung cái càng còn lại lên đầy vẻ đắc
ý, khoe khoang:
- Đừng lo, đừng lo. Vài tuần sẽ mọc lại thôi. Tớ chỉ cần một cái càng này
là đủ vẽ bản đồ đi biển rồi. Giá mà không vội vẽ xong thì tớ biếu mỗi cậu
một cái càng cho đủ đôi. Thôi, chào nhé. Bao giờ đóng bè xong, nhớ xuôi ra vịnh tìm tớ nhá.