NGÀY THỨ BA
Tác giả: Dennis Lehane
HAI NGÔI NHÀ nằm ngoài khu tường bao của Cawley và giám đốc trại giam bị tấn công trực diện. Một nửa mái nhà của Cawley bay mất, những viên gạch lát rơi tứ tung khắp sàn như một bài học về vị thế nhỏ bé của con người trước thiên nhiên. Một cái cây bay qua cửa sổ phòng khách nhà giám đốc trại giam, đâm thủng những mảnh ván gỗ bịt cửa sổ, nằm chình ình giữa nhà cả gốc lẫn ngọn.
Khu khuôn viên bệnh viện nước ngập tới ba centimet, vỏ sò, cành cây vương vãi khắp nơi. Trên sàn nhà của Cawley có vài con chuột chết, một đống tảo ủng sũng nước, tất cả đều lấm cát. Nền bệnh viện trông giống như có ai lấy búa khoan nện thật lực vào đó, Khu A thì mất bốn cửa sổ, còn trên mái nhà nhiều máng thoát nước bị gió thổi uốn cong ra phía sau. Hai ngôi nhà mái lá của nhân viên chỉ còn trơ lại khung gỗ, nhiều ngôi nhà khác bị đổ nghiêng sang một bên. Các khu tập thể của y tá và hộ lý bị mất khá nhiều cửa sổ và bị ngập nước vài chỗ. Chỉ riêng Khu B là thoát nạn, không hề hấn gì. Suốt dọc hòn đảo, Teddy nhìn thấy những ngọn cây bị tước sạch lá, thân gỗ trơ trụi đâm lên trời như những mũi tên.
Không khí lại đầy vẻ chết chóc, nặng nề và u ám. Mưa phùn rả rích. Cá chết đầy bãi biển. Sáng nay khi họ bước ra ngoài, có một con thờn bơn nằm giãy giụa, thở phập phồng trên hành lang, một con cá buồn bã, mắt sưng húp nhìn về biển cả.
Teddy và Chuck thấy McPherson cùng một lính gác dựng lại một chiếc xe jeep bị lật nghiêng. Họ phải nổ máy tới lần thứ năm mới được, rồi họ lái xe lùi ra phía cổng. Một phút sau Teddy thấy chiếc xe đang leo lên đoạn dốc sau lưng bệnh viện dẫn tới Khu C.
Cawley xuất hiện trong khuôn viên bệnh viện, dừng lại nhặt một mảnh ngói vỡ của nhà mình lên xem chăm chú rồi lại ném xuống mặt đất ngập nước. Ánh mắt ông ta hai lần lướt qua Teddy và Chuck rồi mới nhận ra họ trong bộ đồng phục hộ lý màu trắng, áo đi mưa và mũ kiểm lâm màu đen. Ông ta nở một nụ cười vẻ châm biếm và dường như định tiến về phía họ thì một bác sĩ cổ đeo ống nghe từ trong bệnh viện xốc ra và chạy về phía ông.
“Số hai đi rồi. Chúng tôi không thể bật được máy dự phòng. Chúng ta có hai trường hợp đó là nguy kịch. Họ sẽ chết mất John ạ.”
“Thế Harry đâu?”
“Harry đang ở trong đó nhưng không tài nào sạc được điện. Chẳng hiểu cái máy phát điện dự phòng để làm gì nếu nó không hỗ trợ được cái gì?”
“Thôi được. Hãy tới đó xem sao.”
Họ rảo bước về phía bệnh viện. Teddy nói, “Máy phát điện dự phòng của họ hỏng à?”
Chuck nói, “Những chuyện như thế hẳn sẽ xảy ra khi bão lớn.”
“Cậu có nhìn thấy ánh đèn nào không?”
Chuck nhìn xung quanh các cửa sổ. “Không.”
“Cậu có nghĩ là cả hệ thống điện bị cháy không?”
“Nhiều khả năng.”
“Có nghĩa là cả những hàng rào điện cũng vậy.”
Chuck cúi xuống nhặt một quả táo dạt tới chân anh ta đoạn đứng khom người trong tư thế chơi bóng chày rồi co chân và liệng quả táo vào tường. “Trúng rồi!” Anh ta hét lên rồi quay về phía Teddy. “Có nghĩa là cả những hàng rào điện cũng vậy, đúng thế.”
“Có lẽ tất cả các thiết bị an ninh điện tử. Cổng. Cửa.”
“Ôi, Chúa lòng lành, hãy giúp chúng con.” Chuck nói và nhặt một quả táo khác, ném qua đầu rồi đỡ lấy nó từ phía sau lưng. “Sếp muốn đi vào cái pháo đài đó, đúng không?”
Teddy ngẩng mặt lên hứng những giọt nước mưa êm ái. “Một ngày hoàn hảo để làm việc đó.”
Viên giám đốc lúc này mới xuất hiện, tiến vào khuôn viên bệnh viện cũng ba người lính gác trên một chiếc xe jeep, nước bắn tung tóe từ bánh xe. Viên giám đốc nhìn thấy Teddy và Chuck đứng thơ thẩn trong sân và dường như điều đó khiến ông ta khó chịu. Teddy nghĩ chắc cũng giống Cawley, ông ta tưởng nhầm họ là hộ lý, vậy nên ông ta bực mình khi thấy trong tay họ không có máy bơm hay máy cào. Tuy nhiên ông ta vẫn đi qua chỗ họ, cắm đầu về phía trước như thể phài để tâm vào những chuyện quan trọng hơn. Teddy nhận ra rằng anh chưa từng nghe thấy giọng nói của ông ta và tự hỏi không hiểu nó trầm như màu tóc hay mai mái như nước da của ông.
“Có lẽ mình phải tiến hành thôi,” Chuck nói. “Cảnh này sẽ không diễn ra lâu đâu.”
Teddy bắt đầu rảo bước về phía cổng.
Chuck theo kịp anh. “Tôi muốn huýt sáo nhưng miệng tôi khô cứng hết cả lại thế này.”
“Sợ à?” Teddy nói nhỏ.
“Phải nói là sợ vãi đái ra ấy sếp ạ.” Anh ta lại liệng một quả táo vào tường.
Họ tiến về phía cổng, lính gác là một chàng trai có gương mặt trẻ con nhưng đôi mắt thì sắc lạnh. Anh ta nói, “Tất cả các hộ lý phải tới gặp ông Willis ở phòng hành chính. Các anh sẽ được thông báo về việc làm vệ sinh.”
Chuck và Teddy nhìn bô đồng phục hộ lý màu trắng của nhau.
“Món trứng Benedict.”
Teddy gật đầu. “Cám ơn. Tôi cũng đang nghĩ thế. Còn bữa trưa.”
“Một lát mỏng sandwich thịt bò muối Reuben.”
Teddy quay sang tay lính gác và chìa chiếc phù hiệu của anh ta. “Quần áo của chúng oti6 vẫn còn ở phòng giặt là.”
Tay lính gác liếc qua chiếc phù hiệu của Teddy rồi nhìn sang Chuck chờ đợi.
Chuck thở dài rồi rút ví và chìa chiếc phù hiệu ra trước mũi tay lính gác.
“Các anh làm gì bên ngoài khu tường rào. Bệnh nhân mất tích đã được tìm thấy rồi cơ mà?” tay lính gác nói.
Bất cứ lời giải thích nào, Teddy nghĩ cũng sẽ khiến họ trông yếu thế và đặt quyền lực vào tay tên nhãi ranh này. Teddy đã gặp một đống nhãi ranh như thế trong chiến tranh. Phần lớn họ đã không trở về nhà và Teddy vẫn thường tự hỏi không biết có ai thực sự quan tâm tới họ không. Đó là một loại người mà bạn không thể nào nói chuyện hay dạy dỗ gì được. Nhưng bạn có thể trị được loại người này nếu bạn biết rằng thứ duy nhất hắn ta tôn trọng là quyền lực.
Teddy bước lại gần tay lính gác, nhìn chằm chằm, nhếch mép cười và chờ cho hắn ta quay sang nhìn anh, mắt anh không rời khỏi mắt hắn.
“Chúng tôi đang đi dạo,” Teddy nói.
“Các anh không được phép.”
“Có chứ.” Teddy tiến lại sát hơn khiến tay lính gác đành phải ngước mắt lên. Anh có thể cảm thấy cả hơi thở của gã trai trẻ. “Chúng tôi là đặc vụ liên bang đang thi hành nhiệm vụ của liên bang. Tối cao như Chúa tôi không cần giải thích với cậu. Chúng tôi có thể chọn cách bắn một phát vào mông cậu, chàng trai, và sẽ chẳng có tòa án nào ở cái đất nước này nghe nói tới vụ đó cả.” Teddy lại gí đầu sát hơn nữa về phía tay lính gác. “Thế nên mau mở cái cửa khốn kiếp này ra.”
Gã trai trẻ cố không cụp mắt xuống trước cái nhìn của Teddy, nuốt nước miếng và giữ cho ánh mắt không dao động.
Teddy lại nói, “Tôi nhắc lại: Mở cái…”
“Thôi được.”
“Tôi không nghe rõ cậu nói gì,” Teddy nói.
“Vâng, thưa sếp.”
Teddy nhìn tay lính gác với con mắt dữ dằn thêm một lúc rồi thở phì ra.
“Không đến nỗi, con trai. Hoo-ah(1).”
“Hoo-ah,” tay lính gác nhắc lại, yết hầu phập phồng. Tay lính gác xoay chìa khóa và mở toang cánh cổng ra, Teddy bước qua không thèm ngoái đầu nhìn lại.
Họ rẽ phải và đi dọc theo bức tường rào một lúc thì Chuck lên tiếng, “Chiến lược hoo-ah hiệu quả đấy!”
Teddy nhìn Chuck và nói, “Bản thân tôi cũng thích điều đó.”
“Hồi trong quân ngũ, sếp hẳn cũng bàn tay thép nhỉ?”
“Tôi ở trong một tiểu đoàn với một đám nhóc con dưới quyền. Phân nửa số họ chưa bao giờ nếm mùi phụ nữ. Cậu không thể khiến đám người này tôn trọng nếu cậu đối xử tử tế với họ, cậu cần phải làm cho họ sợ.”
“Vâng, thưa Thượng sĩ. Đã rõ.” Chuck cúi đầu và giậm chân chào Teddy. “Nhưng dù có bị cắt điện thì sếp cũng không quên cái nơi mà chúng ta đang cố lẻn vào là một pháo đài đấy chứ?”
“Không, không hề.”
“Thế sếp có ý tưởng gì không?”
“Không.”
“Sếp nghĩ là họ có xây hào xung quanh không? Đó là một vấn đề đấy.”
“Có thể còn có mấy thùng dầu nóng đặt trên tường công sự.”
“Và các cung thủ,” Chuck nói. “Nếu họ bố trí các cung thủ ở đó, Teddy…”
“Mà chúng ta thì lại không có áo giáp.”
Họ bước qua một thân cây đổ, mặt đất nhão nhoét và trơn vì lá mục. Xuyên qua đám cây cối tiêu điều trước mặt, họ có thể nhìn thấy khu pháo đài với những bức tường màu xám đồ sộ, và thấy cả những vệt bánh xe jeep đi đi về về suốt cả buổi sáng nay.
“Tên lính gác đó cũng có lý,” Chuck nói.
“Ở chỗ nào?”
“Giờ khi Rachel đã được tìm thấy, thì đúng là chúng ta chẳng có quyền hạn gì ở chỗ này cả, như trước đây thôi. Nếu chúng ta bị bắt quả tang thì sếp ơi, chúng ta chẳng có cách nào giải thích vụ này cho thấu tình đạt lý.”
Teddy cảm thấy đám cây cối tả tơi, bầm dập đảo điên trong đấy mắt anh. Anh thấy kiệt sức và hơi chếnh choáng. Tất cả những gì anh có là bốn tiếng đồng hồ dưới tác dụng của thuốc và một giấc ngủ đầy ác mộng đêm qua. Mưa rơi lộp độp và đọng lại trên vành mũ của anh. Trong đầu anh như có cái gì kêu vo vo, không rõ ràng nhưng liên tục. Nếu hôm nay phà tới đảo – nhưng anh chắc là không thể - thì một phần trong anh chỉ muốn nhảy lên đó và rời khỏi đây. Biến khỏi cái rặng đá khốn kiếp này. Nhưng trở về mà chẳng có nổi hoặc những bằng chứng cần thiết cho Thượng nghị sĩ Hudy hoặc giấy chứng tử của Laeddis thì sự trở về của anh sẽ là sự trở về của một kẻ thất bại. Vẫn là kẻ đứng bên ranh giới của ý định tự sát cộng thêm gánh nặng lương tâm về việc anh đã không làm gì để tạo nên một sự thay đổi.
Anh mở quyển sổ ghi chép ra và đưa cho Chuck. “Mấy đống đá mà Rachel để lại cho chúng ta hôm qua. Đây là giải mã của chúng.”
Chuck khum tay che quyển sổ và giữ nó sát ngực. “Vậy là hắn đang ở đây.”
“Hắn ở đây.”
“Sếp nghĩ hắn là bệnh nhân thứ sáu mươi bảy?”
“Tôi đoán thế.”
Teddy dừng lại trước một vỉa đá trồi lên giữa con đường dốc lầy bùn. “Cậu có thể quay lại, Chuck. Cậu không cần phải dính vào chuyện này.”
Chuck ngước lên nhìn anh rồi đập đập quyển sổ vào lòng bàn tay. “Chúng ta là những đặc vụ, Teddy. Đặc vụ thì luôn làm gì?”
Teddy mỉm cười. “Chúng ta xông vào cửa.”
“Trước tiên,” Chuck nói. “Trước tiên chúng ta xông vào cửa. Trong lúc cấp bách, chúng ta không đợi mấy viên cảnh sát béo trên phố tới hỗ trợ. Chúng ta sẽ xông thẳng qua cái cửa khốn kiếp đó.”
“Đúng vậy.”
“Vậy thì tiến hành thôi,” Chuck nói và đưa trả lại Teddy cuốn sổ rồi họ tiếp tục đi về phía pháo đài.
KHI HỌ CÒN CÁCH khu pháo đài mỗi một rặng cây và một quãng đồng ngắn thì Chuck lên tiếng, đúng như những gì Teddy đang nghĩ: “Chúng ta tiêu rồi.”
Lớp hàng rào thép gai bao quanh khu pháo đài nhiều chỗ bị thổi bật ra khỏi mặt đất. Có đoạn nằm lay lắt trên đường, có đoạn bị thổi mắc lên cành cây, và phần còn lại cũng méo mó không sử dụng được nữa.
Tuy nhiên có nhiều lính gác vũ trang đi lại quanh khu vực đó. Một số đi tuần đều đặn trên những chiếc xe jeep. Một đạo quân hộ lý đông đúc đi nhặt rác bên ngoài pháo đài. Một nhóm hộ lý khác, ít người hơn đang tất bật xử lý một thân cây lớn đổ vào tường. Không có hào bao quanh pháo đài, nhưng vẫn có một cửa ra vào, một cánh cửa nhỏ duy nhất màu đỏ bằng tôn uốn nằm giữa tường. Lính gác đứng canh trên tường công sự, súng trường khoác trên vai hoặc lủng lẵng trước ngực. Vài cửa sổ nhỏ hình vuông khoét trên tường đá của pháo đài đều có chấn song. Không bệnh nhân nào lảng vảng phía bên ngoài, dù bị xích hay không. Chỉ có lính gác và hộ lý làm việc với quân số ngang nhau.
Teddy thấy hai người lính gác trên nóc pháo đài bước sang một bên, mấy hộ lý đi tới góc tường công sự và kêu những người ở dưới đất tránh ra chỗ khác. Họ vặt được một nửa thân cây ra gờ tường, vừa kéo vừa đẩy cho tới khi nó bập bênh ở trên đó. Rồi họ biến mất phía sau khúc cây và bắt đầu đẩy mạnh khiến nửa thân cây phía trước lao ra thêm được vài chục phân nữa rồi chúc đầu xuống, mọi người la hét ầm ĩ khi cả thân cây lao dọc theo tường thành rồi đâm sầm xuống đất. Những người hộ lý lại xuất hiện trên gờ tường nhìn xuống tác phẩm của mình rồi hoan hỉ bắt tay và vỗ vai nhau.
“Chắc phải có đường ống dẫn nào đấy chứ nhỉ?” Chuck nói. “Để thải nước hoặc rác rưởi ra biển? Chúng ta có thể thâm nhập bằng đường đó.”
Teddy lắc đầu. “Việc gì phải làm thế. Chúng ta chỉ cứ việc đi thẳng vào.”
“Ối, giống cái cách cô Rachel đi ra khỏi Khu B hả? Tôi hiểu rồi. Phải lấy của cô ta ít bột tàng hình. Ý tưởng hay đấy.”
Chuck nói rồi nhíu mày nhìn Teddy lúc này đang sờ vào chiếc cổ áo đi mưa của mình. “Chúng ta đâu có ăn vận giống đặc vụ đâu. Cậu hiểu ý tôi nói chứ?”
Chuck quay lại nhìn đám hộ lý đang làm việc xung quanh khu pháo đài và thấy một người trong số họ bước ra khỏi cánh cửa sắt với một ly cà phê trong tay, khói bốc lên giữa màn mưa bụi như những con rắn.
“Đúng vậy,” anh nói. “Đúng vậy, người anh em.”
HỌ RẼ XUỐNG CON ĐƯỜNG dẫn tới pháo đài, vừa đi vừa hút thuốc và tán gẫu với nhau. Đi tới nửa cánh đồng thỉ chạm trán với một lính gác. Súng đeo hờ hững dưới nách chĩa xuống đất.
Teddy nói, “Họ cử chúng tôi tới đây. Về vụ cây cối gì đó trên nóc pháo đài?”
Người lính gác ngoái đầu lại phía sua và nói. “Không cần nữa. Họ đã xử lý nó xong rồi.”
“Thế thì tốt quá,” Chuck nói và họ toan quay đầu bỏ đi.
“Này, nhanh thế,” người lính gác nói. “Vẫn còn khối việc để làm đấy.”
Họ lại quay lại.
Teddy nói. “Các anh đã có tới ba mười người lo cái tường rồi còn gì.”
“Đúng thế nhưng còn bên trong nữa, mẹ kiếp, trông chẳng khắc gì bãi chiến trường. Một cơn bão thì không đánh sập được một nơi như thế này nhưng nó vẫn có thể chui vào bên trong để hoành hành. Các anh hiểu không?”
“Ừ, hẳn rồi,” Teddy nói.
“ĐỘI LÀM VỆ SINH Ở ĐÂU VẬY?” Chuck nói với người lính gác đang đứng dựa lưng vào tường bên cạnh cửa ra vào.
Người lính gác giơ ngón tay cái chỉ vào bên trong ra hiệu và mở cửa cho họ đi vào.
“Tôi không muốn tỏ ra bi quan,” Chuck nói, “nhưng mọi chuyện có vẻ dễ dàng quá.”
Teddy nói, “Đừng nghĩ nhiều thế. Đôi khi cậu cũng gặp may chứ.”
Cánh cửa đóng lại sau lưng họ.
“May mắn,” Chuck nói, giọng hơi rung lên. “Đó là cách chúng ta gọi nó?”
“Đó chính là cách chúng ta gọi nó.”
Mùi hôi là thứ đầu tiên đập vào mũi Teddy. Mùi thuốc sát trùng công nghiệp được sử dụng nhằm át đi tối đa mùi nôn mửa, mùi phân, mùi mồ hôi và nhất là mùi nước tiểu nồng nặc.
Sau đó là những tiếng ồn phát ra từ sau tòa nhà, đội từ những tầng trên xuống; tiếng bước chân rì rầm, tiếng gào thét dội đi vọng lại từ những bức tường dày và lớp không khí nhớp nhúa, những tiếng “ĐIING” chói tai đột ngột vang lên rồi tắt lịm, và khắp nơi là tiếng ầm ầm của nhiều giọng nói khác nhau hòa âm một lúc.
Ai đó hét lên, “Mày không thể! Mày không thể làm thế! Mày nghe thấy tao nói gì không? Mày không thể. Hãy tránh xa…” và rồi đuối dần.
Đâu đó phía trên đầu họ quanh khúc ngoặt của những bậc thang đá một người đàn ông hát vang bài “Một trăm chai bia trên tường”. Ông ta vừa xong chai thứ bảy mươi bảy và đang bắt đầu chuyển sang chai thứ bảy mươi sáu.
Hai bình cà phê cùng vài chống cốc giấy và mấy chai sữa nằm trên một chiếc bàn dùng để chơi bài. Có một chiếc bàn nữa kê ở chân cầu thang, người lính gác ngồi ở đó đang nhìn họ mỉm cười.
“Lần đầu tiên hả?”
Teddy nhìn về phía anh ta. Và mặc dù những tiếng động lúc này đã được thay mới nhưng cả cái khu vực này vẫn giống như đang trong một cuộc truy hoan âm thanh điên cuồng, chĩa vào tai anh từ mọi hướng.
“Ừ. Có nghe chuyện, nhưng…”
“Rồi các anh sẽ quen thôi,” người lính gác nói. “Sẽ quen hết ấy mà.”
“Biết thế.”
“Nếu các anh không phải làm việc trên mái thì có thể treo áo mưa và mũ trong cái phòng sau lưng tôi.”
“Họ bảo chúng tôi lên mái mà,” Teddy nói.
“Các anh đã làm mất lòng ai vậy?” Người lính gác nói rồi chỉ đường cho họ. “Đi theo các bậc thang này. Giờ thì chúng tôi đã xích phần lớn bọn rệp ấy vào giường rồi nhưng vẫn còn vài mống chạy lung tung. Nếu các anh nhìn thấy đứa nào thì kêu lên nhé! Làm gì thì làm nhưng đừng cố xử lý chúng. Đây không giống Khu A đâu. Các anh biết không? Những tên khốn ở đây có thể giết các anh đấy. Rõ chưa?”
“Rõ.”
Họ vừa bước lên cầu thang thì người lính gác lại nói: “Chờ một phút.”
Họ dừng lại, quay xuống nhìn anh ta.
Anh ta mỉm cười và chỉ một ngón tay vào họ.
Họ đứng im chờ đợi.
“Tôi biết các anh.” Giọng anh ta trầm bổng như đang hát.
Teddy không nói gì. Chuck cũng không nói gì.
“Tôi biết các anh,” người lính gác nhắc lại. Teddy cố thốt ra được một tiếng “Thật?”
“Ừ. Các anh chính là những kẻ phải đi dọn mái. Giữa trời mưa gió.” Anh ta phá ra cười, một tay vẫn chỉ vào họ, tay kia đập đập lên bàn vẻ khoái trá.
“Chính là chúng tôi,” Chuck nói. “Ha ha.”
“Ha ha ha,” người lính gác vẫn cười.
Đến lượt Teddy chỉ một ngón tay vào anh ta và nói: “Anh được đấy,” rồi đi tiếp lên cầu thang. “Hơn cả hai đứa chúng tôi cộng lại.”
Tiếng cười của tên ngốc đó đuổi theo họ lên những bậc cầu thang.
Họ dừng lại ở tầng đầu tiên. Trước mặt họ là một căn phòng lớn, mái vòm dát đồng, sàn nhà màu tối được lau chùi sạch bóng như gương. Teddy biết nếu anh đứng từ đầu cầu thang và ném một quả bóng chày hay một trong những quả táo của Chuck thì nó sẽ không thể sang được tới đầu kia căn phòng. Căn phòng trống không và cánh cửa trước mặt họ mở toang, Teddy cảm thấy như nổi chuột nhộn nhạo khắp dọc sườn khi anh bước vào căn phòng vì nó khiến anh nhớ tới căn phòng trong giấc mơ, nơi Laeddis mời anh uống rượu và Rachel sát hại các con của cô ta. Chúng hẳn không phải là một, căn phòng trong giấc mơ của anh có những cửa sổ dài với ri đô này, những luồng sáng sáng, sàn gỗ, và những giá nến đồ sộ - nhưng cũng khá giống nhau.
Chuck vỗ một tay lên vai Teddy và anh bắt đầu cảm thấy mồ hôi túa ra trên gáy.
“Tôi nhắc lại,” Chuck nói khẽ với một nụ cười yếu ớt, chuyện này quá dễ dàng. Tên lính gác ở đây đi đâu mất rồi? Tại sao cánh cửa này không khóa?”
Teddy có thể nhìn thấy Rachel lăm lăm một con dao phay, vừa chạy qua căn phòng vừa la hét, tóc xõa xượi.
“Tôi không biết.”
Chuck ghé vào tai anh thì thào, “Đây là một cái bẫy, sếp ơi.”
Teddy bắt đầu đi xuyên căn phòng. Đầu anh đau nhức vì thiếu ngủ. Vì trời mưa. Vì những tiếng la hét như nghẹt lại và tiếng chân chạy rầm rập phía trên đầu anh. Hai đứa bé trai và một đứa bé gái nhỏ nắm chặt tay nhau và ngoái nhìn phía sau. Run lẩy bẩy.
Teddy lại nghe thấy tiếng bệnh nhân hát: “… lấy một chai xuống, chuyển ra xung quanh, năm mươi tư chai bia trên tường.”
Chúng lướt qua trước mắt anh, hai đứa bé trai và đứa bé gái đó, bơi qua lớp không khí chơi vơi và Teddy nhìn thấy những viên thuốc màu vàng mà Cawley đặt vào tay anh đêm qua, thấy một cơn buồn nôn cồn lên trong bụng.
“Năm mươi tư chai bia trên tuồng, năm mươi tư chai bia…”
“Chúng ta phải ra khỏi đây ngay lập tức, Teddy. Chúng ta cần phải đi thôi. Chuyện này không ổn chút nào. Anh có thể cảm thấy điều đó, tôi có thể cảm thấy điều đó.”
Một người đàn ông đột ngột xuất hiện trên ngưỡng cửa ở đầu phòng phía bên kia. Anh ta đi chân đất, ngực để trần và chỉ mặc độc một chiếc quần pyjama màu trắng. Đầu anh ta cạo trọc, phần còn lại của khuôn mặt không thể nhìn rõ dưới ánh sáng lờ mờ của căn phòng.
Anh ta nói, “Xin chào!”
Teddy rảo bước nhanh hơn.
Người đàn ông lại nói, “Đuổi theo bắt tôi đi. Anh là nó!” rồi biến mất khỏi ngưỡng cửa.
Chuck đuổi kịp Teddy. “Sếp ơi, hãy vì Chúa.”
Hắn đang ở đây. Laeddis. Đâu đó chỗ này. Teddy có thể cảm thấy hắn đang ở đây.
Họ đi tới cuối căn phòng và bắt gặp một đầu cầu thang bằng đá rộng, một cầu thang khác dẫn lên phía trên nơi phát ra những tiếng la hét, tranh cãi ngày càng chói tai, nơi Teddy có thể nghe thấy cả tiếng kim loại và xiềng xích va chạm lách cách. Ai đó hét lên, “Billings! Được rồi, chàng trai! Bình tĩnh lại! Không có chỗ nào để chạy đâu. Nghe rõ chưa?”
Teddy nghe tiếng ai đó đang thở ngay cạnh mình. Anh quay đầu sang trái và thấy một cái đầu trọc lóc chỉ cách đầu anh vài phân.
“Anh là nó,” gã đàn ông nói và dùng ngón tay trỏ gõ gõ vào tay anh.
Teddy nhìn vào gương mặt lập lòe trong bóng tối của gã.
“Tôi là nó,” Teddy nói.
“ ‘Dĩ nhiên rồi, tôi quá gần mà,’ “ gã ta nói, “anh chỉ cần xoay cổ tay một cái thì tôi lại là nó và rồi tôi chỉ cần xoay cổ tay thì anh lại là nó, chúng ta có thể chơi như vậy hàng tiếng đồng hồ, thậm chí cả ngày, chúng ta chỉ cần đứng dậy và lần lượt biến thành nó, làm đi làm lại, không nghỉ trưa, không ăn tối, cứ tiếp tục như thế mãi.”
“Thế thì có gì vui?” Teddy nói.
“Anh có biết cái gì ở ngoài kia không?” Gã hất đầu về phía cầu thang. “Ngoài biển ấy?”
“Cá,” Teddy nói.
“Cá.” Gã ta gật đầu. “Rất tốt. Cá, đúng vậy. Rất nhiều cá. Nhưng, đúng, cá, rất tốt, cá, đúng, nhưng mà còn có cả, còn có cả gì? Tàu ngầm. Đúng. Đúng vậy. Cách bờ biển khoảng ba trăm tới bốn trăm kilomet. Chúng ta nghe nói vậy, đúng không? Họ bảo chúng ta thế. Hẳn rồi. Và chúng ta quen dần với ý nghĩ đó. Rồi chúng ta quên bẵng. Ý tôi là, ‘Được rồi, có tàu ngầm. Cảm ơn đã thông báo’. Chúng trở thành một phần quan trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Chúng ta biết chúng ở ngay ngoài kia, tuy nhiên chúng ta không còn nghĩ tới chuyện đó nữa. Đúng chưa? Nhưng mà chúng vẫn đang ở ngoài kia và được trăng bị rocket. Chúng chĩa nòng vào bọn họ ở New York và Washington. Ở Boston. Và chúng đang ngoài kia. Chỉ ngồi yên. Anh không bao giờ bận tâm chuyện đó sao?”
Teddy có thể nghe thấy tiếng thở nhè hẹ của Chuck bên cạnh anh, chờ anh đối đáp.
Teddy nói, “Như anh nói, tôi cũng chọn cách không nghĩ quá nhiều về chuyện đó.”
“Ừm.” Gã ta gật đầu. Gã vuốt cằm rồi nói tiếp, “Ở trong này chúng tôi cũng nghe được mọi chuyện. Anh không nghĩ vậy, đúng không? Thế mà chúng tôi nghe được đấy. Một người mới tới chẳng hạn, anh ta kể cho chúng tôi nghe. Đám lính gác buôn chuyện. Hộ lý các anh nữa, cũng nói nhiều. Chúng tôi biết, chúng tôi biết chứ. Về thế giới bên ngoài. Về các vụ thử bom H(2), bom nguyên tử. Anh có biết bom khing khí hoạt động thế nào không?”
“Với khí hydro à?” Teddy nói.
“Rất tốt. Rất nhanh trí. Đúng thế, đúng thế.” Gã ta gật đầu nhiều lần rồi nói tiếp. “Với khí hydro, đúng thế. Nhưng nó không giống bất kỳ loại bom nào khác. Anh thả một quả bom, kể cả bom nguyên tử, thì nó nổ tung ra. Đúng không? Đúng là cái chắc. Nhưng một quả bom khinh khí thì lại nổ bên trong. Nó tự nổ, trải qua một chuỗi phản ứng bên trong, rồi phân hủy. Và tất cả quá trình phân hủy đó? Nó tạo ra khối lượng và tỷ trọng. Anh thấy không, chính sự dữ dội trong việc tự hủy hoại mình của nó đã tạo ra một con quái vật hoàn toàn mới. Anh hiểu chứ? Hiểu chứ? Phản ứng bên trong càng mạnh, thì sức hủy diệt càng lớn, rồi thì tác động càng khủng khiếp. Và, thế nào, thế nào nữa? Đoàng một cái! Chỉ… bang, bùm, rầm. Khi đã tự hủy xong, nó bắt đầu khuếch tán. Tạo ra một vụ nổ từ sự nổ bên trong, loại bom này có sức công phá gấp trăm lần, nghìn lần, triệu lần bất cứ loại bom nào từ trước tới nay. Đó chính là gia tài của chúng ta. Và anh đừng quên điều đó.” Gã vừa nói vừa vỗ vỗ cánh tay Teddy nhiều lần, những cái vỗ nhẹ như thể đang gõ trống bằng ngón tay. “Anh là nó! Ở mức hoàn hảo! Ha ha.”
Rồi gã nhảy tót xuống chiếc cầu thang tối om và họ nghe gã hét “Bùm” suốt dọc đường đi.
“… bốn mươi chín chai bia! Lấy một chai xuống…”
Teddy nhìn sang Chuck. Mặt anh ta đẫm mồ hôi và anh ta đang rón rén thở qua miệng.
“Cậu nói đúng,” Teddy nói. “Ra khỏi đây thôi.”
“Giờ là sếp nói đấy nhé.”
Bỗng từ đầu cầu thang vọng xuống tiếng ai đó la hét: “Có ai đó giúp tôi một tay với! Giời ơi!”
Teddy và Chuck nhìn lên thì thấy hai người đàn ông đang túm chặt lấy nhau và lăn xuống cầu thang như một trái bóng. Một người mặc đồng phục lính gác màu xanh nước biển, người kia mặc quần áo bệnh nhân màu trắng và cả hai đâm sầm vào một khúc ngoặt cầu thang chỗ có bậc rộng nhất. Gã bệnh nhân thọc một tay vào một người lính gác ngay phía dưới mắt trái và móc ra một mảng da khiến cậu ta rú lên đau đớn và cố ngửa đầu ra sau để tránh.
Teddy và Chuck lao lên cầu thang. Cánh tay của gã bệnh nhân lại bổ xuống lần nữa, nhưng Chuck chộp được cổ tay anh ta.
Người lính gác chùi mắt và những vệt máu đang chảy xuống tận cằm. Teddy có thể nghe thấy tiếng cả bốn người bọn họ hổn hển, nghe thấy bài hát về chai bia từ đằng xe, đã đến chai bốn hai, gần sang chai bốn mốt, và rồi anh thấy gã bệnh nhân lúc này đang ở phía dưới anh ngông lên với cái miệng há to, anh vội nói, “Chuck, coi chừng,” và dùng mu bàn tay nện vào trán gã bệnh nhân trước khi gã này kịp ngoạm vào cổ tay Chuck.
“Cậu phải buông hắn ra!” anh nói với người lính gác. “Nào! Buông ra.”
Người lính gác thả hai chân gã bệnh nhân ra rồi lùi lại phía sau hai bước. Teddy tới gần gã bệnh nhân lúc này nằm bất động, đè chặt hai vai gã ta xuống sàn rồi quay đầu lại nhìn Chuck. Đúng lúc đó chiếc dùi cui xuyên thẳng qua chỗ hở giữa hai người họ, kêu rít lên trong không khí rồi đập vỡ mũi của gã bệnh nhân.
Teddy cảm thấy cái thân hình bên dưới anh thả lỏng ra và Chuck kêu lên, “Ối Chúa ơi!”
Người lính gác lại vung chiếc dùi cui lên nhưng Teddy kịp xoay người và dùng khuỷu tay chắn lại. Anh nhìn vào khuôn mặt máu me của cậu ta và nói, “Này, này! Hắn ta không làm được gì nữa rồi! Này thôi đi!”
Nhưng người lính gác vẫn còn say mùi máu của chính mình. Cậu ta lại giơ chiếc dùi cui lên.
Chuck xen vào nói, “Hãy nhìn tôi! Hãy nhìn tôi này!”
Người lính gác liếc mắt về phía Chuck.
“Cậu lùi ngay lại cho tôi. Cậu nghe thấy tôi nói gì không? Cậu lùi lại mau. Bệnh nhân này ngất xỉu rồi.” Chuck buông cổ tay bệnh nhân ra để nó rớt xuống ngực anh ta rồi ngồi dựa vào tường, mắt không rời khỏi người lính gác. “Cậu nghe thấy tôi nói chứ?” anh nói khẽ.
Người lính gác cụp mắt và hạ chiếc dùi cui xuống. Cậu ta lấy vạt áo chạm vào vết thương trên má mình rồi nhìn vệt máu thấm trên đó. “Gã ta xé rách cả mặt tôi.”
Teddy nhoài người ra nhìn vào vết thương. Anh từng thấy nhiều thứ tệ hơn nhiều; thằng bé sẽ không gặp nguy hiểm gì. Nhưng vết toạc rất xấu. Không bác sĩ nào có thể khâu nó lại như trước.
Anh nói, “Cậu sẽ ổn thôi. Chỉ vài vết khâu.”
Phía trên đầu họ có tiếng người xô xát và đồ đạc đổ vỡ.
“Các cậu có bạo loạn à?” Chuck nói.
Người lính gác khó nhọc thở bằng đường mũi cho tới khi sắc mặt cậu ta trở lại bình thường. “Cũng gần như thế.”
“Các tù nhân cướp ngục à?” Chuck nhẹ nhàng hỏi.
Cậu thanh niên trẻ nhìn về phía Teddy với vẻ thận trọng rồi quay sang Chuck. “Chưa tới mức đó.”
Chuck rút từ trong túi ra một chiếc khăn mùi soa và đưa cho cậu ta.
Cậu thanh niên gật đầu cảm ơn rồi áp nó vào mặt.
Chuck lại nhắc cổ tay của bệnh nhân lên, và Teddy quan sát anh ta bắt mạch cho bệnh nhân. Anh ta thả tay bệnh nhân ra rồi đẩy một bên mi mắt bệnh nhân lên, nhìn Teddy và bảo, “Gã ta vẫn còn sống.”
“Hãy lôi hắn dậy,” Teddy nói.
Họ quàng tay người bệnh lên vai rồi đi theo người lính gác lên cầu thang. Gã ta không nặng lắm nhưng cầu thang rất dài hơn nữa mũi chân gã này cứ mắc vào mép bậc thang. Khi họ lên tới đầu câu thang, người lính gác quay lại, trông cậu ta có vẻ già dặn hơn, và có thể cũng sáng dạ hơn một chút.
“Các anh là đặc vụ,” cậu ta nói.
“Gì cơ?”
Cậu ta gật đầu. “Đúng thế. Tôi nhìn thấy các anh lúc mới tới.” Cậu ta khẽ mỉm cười với Chuck. “Là do cái vết sẹo trên mặt anh, anh biết không?”
Chuck khẽ thở dài.
“Các anh đang làm gì ở đây vậy?”
“Để cứu cái mặt cậu,” Teddy nói.
Người lính gác lấy chiếc khăn mùi soa ra khỏi vết thương,nhìn một lúc rồi lại áp vào chỗ cũ.
“Cái gã mà các anh đang giữ ấy,” cậu ta nói, “tên là Paul Vingis. Ở West Virginia. Giết vợ và hai con gái của anh trai trong khi ông anh đang chiến đấu ở Triều Tiên. Giữ họ dưới tầng hầm, các anh biết không, tự thỏa mãn trong lúc xác họ phân hủy.”
Teddy cố cưỡng lại ý muốn hất cánh tay Vingis ra, để mặc cho gã rơi xuống cầu thang.
“Sự thực là,” cậu thanh niên khẽ hắng giọng trước khi nói tiếp. “Sự thực là gã lại có thêm nạn nhân mới là tôi.” Đôi mắt đỏ ngầu của cậu ta bắt gặp mắt họ.
“Tên cậu là gì?”
“Baker. Fred Baker.”
Teddy bắt tay cậu ta. “Nhìn này, Fred? Chúng tôi rất vui đã có thể giúp cậu.”
Cậu thanh niên nhìn xuống giày của mình với những vệt máu lấm tấm trên đó.”Nhưng hỏi lại lần nữa, các anh đang làm gì ở đây?”
“Chỉ nhìn ngó xung quanh một chút thôi,” Teddy nói. “Hai ba phút rồi chúng tôi sẽ đi.”
Cậu thanh niên suy nghĩ một lúc. Trong khi đó Teddy nghĩ tới hai năm vừa qua của đời mình – mất Dolores, truy lùng dấu vết của Laeddis, tìm ra nơi này, cuộc gặp gỡ tình cờ với George Noyce và những câu chuyện của anh ta về các thí nghiệm thuốc và thùy não, tìm cách liên hệ với Thượng nghị sĩ Hurly, chờ đợi thời cơ vượt biển sang đây mà cứ như để vượt Kênh đào Anh tới Normandy – tất cả những chuyện đó đang phụ thuộc vào quyết định của cậu thanh niên này.
“Các anh biết không,” cậu ta nói. “Tôi đã làm việc ở vài nơi nguy hiểm. Mấy trại giam, một nhà tù cực lớn có hệ thống an ninh tối tân, một chỗ khác cũng là nhà thương điên cho phạm nhân tâm thần…” Cậu ta nhìn về phía cửa, mắt giãn ra như thể cậu ta sắp ngáp nhưng miệng vẫn khép chặt. “Đúng thế, tôi đã từng làm việc ở nhiều nơi. Nhưng chỗ này?” Cậu ta lẳng lặng nhìn mỗi người bọn họ một lúc lâu rồi nói tiếp, “Họ tự đặt ra luật chơi của riêng mình.”
Cậu ta quay sang nhìn Teddy chằm chằm, anh cố đọc ý nghĩ trong đôi mắt đó, nhưng chỉ thấy một cái nhìn xa xăm, vô hồn, và già cỗi.
“Vài ba phút?” Cậu ta gật gù. “Thôi được. Cũng chẳng ai để ý trong cái lúc bát nháo này. Các anh có vài phút rồi hãy đi khỏi đây, được chứ?”
“Chắc chắn rồi,” Chuck nói.
“Và này,” cậu ta khẽ mỉm cười với họ khi tới gần cửa. “Cố đừng chết trong mấy phút đấy nhé, được không? Tôi sẽ đánh giá cao điều đó.”
Chú thích:
1.Hoo-ah: một từ lóng thường dùng trong quân đội Mỹ, có nghĩa là không bao giờ được nói không với cấp trên.
2.Bom H: bom khinh khí, có sức mạnh ghê gớm, nổ khi hạt nhân các nguyên tử khí hydro hợp nhất lại.