NGÀY THỨ TƯ (3)
Tác giả: Dennis Lehane
“THẬT NHỐ NHĂNG!” Teddy hét lên, tiếng hét dội lại trong đầu anh.
“Tên anh là Andrew Laeddis,” Cawley nhắc lại. “Hai mươi hai tháng trước, anh được đưa tới đây theo lệnh của tòa án.”
Teddy vung hai tay phản đối. “Chuyện này thật dưới tầm ngay cả những kẻ như các ông.”
“Hãy nhìn vào bằng chứng, Andrew, làm ơn. Anh…”
“Đừng có gọi tôi như thế.”
“… tới đây hai năm trước vì anh đã phạm một tội ác khủng khiếp. Một tội ác mà xã hội không thể tha thứ nhưng tôi thì có thể. Andrew, hãy nhìn tôi.”
Teddy rời mắt khỏi bàn tay của Cawley, nhìn lên cánh tay, lên ngực rồi nhìn vào khuôn mặt của ông ta. Đôi mắt Cawley lúc này lại ánh lên cái vẻ trắc ẩn giả tạo, cái lòng tốt vay mượn.
“Tên tôi là Edward Daniels.”
“Không phải,” Cawley lắc đầu với vẻ mệt mỏi của một kẻ bại trận. “Tên anh là ald. Anh đã làm một việc khủng khiếp và anh không thể tha thứ cho mình, không thể, dù với bất cứ lý do nào, nên anh phải đóng kịch. Anh đã tạo ra một câu chuyện có kết cấu hoàn chỉnh, dày đặc tình tiết, trong đó anh đóng vai một người hùng, Andrew. Anh tự thuyết phục bản thân mình rằng anh vẫn là một đặc vụ Mỹ và anh có mặt ở đây là để điều tra. Và rằng anh đang bóc trần một âm mưu, thế nên tất cả những gì chúng tôi nói ngược lại với ý anh đều biến thành những âm mưu đen tối trong vở kịch tưởng tượng của anh. Và có lẽ chúng tôi nên để mặc nó, để mặc anh sống trong thế giới tưởng tượng của anh. Tôi cũng muốn thế. Nếu như anh là một người vô hại, thì tôi thật sự rất muốn được làm thế. Nhưng anh là một kẻ bạo lực, rất bạo lực. Cộng thêm với việc anh được đào tạo chính quy trong quân ngũ và trong lực lượng hành pháp nên anh rất biết cách tàn bạo. Anh là bệnh nhân nguy hiểm nhất của chúng tôi ở đây. Chúng tôi không tài nào kiểm soát được anh. Nên mọi chuyện đã được quyết định, hãy nhìn vào tôi.”
Teddy nhìn lên, thấy Cawley gần như nhoài người qua bàn, ánh mắt đầy vẻ van lơn.
“Mọi chuyện đã được quyết định rằng nếu chúng tôi không thể khiến anh tỉnh táo trở lại – ngay bây giờ, ngay lúc này đây – thì những biện pháp lâu dài sẽ được áp dụng, để đảm bảo rằng anh sẽ không bao giờ có thể làm hại ai nữa. Anh có hiểu tôi đang nói gì với anh không?”
Trong một giây, có lẽ còn chưa tới một giây, một phần mười giây thì đúng hơn, Teddy gần như tin vào những gì ông ta nói.
Rồi anh mỉm cười.
“Ông diễn vai tốt rất tuyệt, bác sĩ. Thế còn ai là người vao vai xấu – Sheehan à?” Anh nói và ngoái nhìn ra phía cửa. “Sắp tới lượt anh ta rồi phải không?”
“Hãy nhìn tôi,” Cawley nói. “Hãy nhìn thẳng vào mắt tôi.”
Teddy làm theo. Mắt ông ta đỏ ngầu và đờ đẫn vì thiếu ngủ. Và còn nữa. Là cái gì vậy? Teddy giữ lấy ánh mắt của Cawley và cố đọc chúng. Rồi nó trở nên rõ ràng – nếu như anh không biết tỏng mưu đồ của ông ta – thì anh dám thề rằng ánh mắt của Cawley cho thấy ông ta đang rất đau khổ.
“Nghe này,” Cawley nói. “Tôi là tất cả những gì anh có. Là tất cả những gì anh từng có. Tôi đã nghe câu chuyện tưởng tượng này của anh suốt hai năm qua. Tôi biết từng nguồn cơn, chi tiết, các mật mã, người đồng sự bị mất tích, cơn bão, người phụ nữ trong hang, những thí nghiệm ma quỷ ở ngọn hải đăng. Tôi biết những câu chuyện về Noyce và vị Thượng nghị sĩ tưởng tượng Hurly. Tôi biết anh luôn mơ về Dolores, về cái bụng bị thủng của cô ấy và người cô ấy lúc nào cũng sũng nước. Tôi cũng biết cả chi tiết về những khúc gỗ.”
“Ông toàn nói vớ vẩn,” Teddy tiếp.
“Thế làm sao tôi lại biết được những chuyện đó?”
Teddy tiếp tục cuộc tranh luận với những ngón tay bắt đầu run rẩy.
“Tôi đã ăn thức ăn của ông, uống cà phê của ông, hút thuốc lá của ông. Tôi lại còn uống ba viên ‘aspirin’ mà ông đưa cho tôi buổi sáng tôi mới tới đây. Rồi thêm ba viên khác nữa tối hôm nọ. Ông ngồi đấy lúc tôi thức dậy. Kể từ lúc do tôi không còn như trước nữa. Đó là lúc mọi chuyện bắt đầu. Đêm đó, khi tôi bị đau đầu ông đã cho tôi uống cái gì vậy?”
Cawley dựa lưng ra phía sau. Mặt ông ta nhăn lại như thể ông ta vừa phải uống axit, mắt ông ta nhìn ra phía bên ngoài cửa sổ.
“Tôi không còn thời gian nữa,” ông ta thì thầm.
“Gì cơ?”
“Thời gian,” ông ta nói khẽ. “Người ta cho tôi bốn ngày. Và tôi đã dùng sắp hết.”
“Vậy hãy để tôi đi. Tôi sẽ trở lại Boston, viết một đơn kiện lên văn phòng liên bang nhưng đứng lo – với tất cả những bạn bè có thể lực của mình, tôi chắc là ông sẽ không sao.”
“Không, Andrew, tôi gần như mất hết bạn bè. Tôi đã tham dự vào một cuộc chiến tại đây suốt tám năm qua và cán cân đang nghiêng dần về phía bên kia. Tôi sẽ thua cuộc. Sẽ mất vị trí của mình và các nguồn tài chính. Tôi đã hứa trước toàn thể ban giam đốc rằng tôi sẽ tiến hành một thí nghiệm tâm lý có một không hai bằng các vai diễn, và điều đó sẽ giúp được anh. Sẽ khiến anh trở lại bình thường. Nhưng nếu tôi sai?” Mắt ông ta giãn ra, tay ông ta bóp cằm như thể muốn cố định lại vị trí của hàm. Rồi ông ta thả tay xuống nhìn Teddy qua bàn và nói, “Anh không hiểu sao, Andrew? Nếu anh thất bại, tôi sẽ thất bại. Nếu tôi thất bại thì mọi chuyện sẽ chấm hết.”
“Tệ nhỉ. Tiếc nhỉ,” Teddy nói.
Bên ngoài, những con mòng biển đang kêu. Teddy có thể ngửi thấy mùi muối, mùi nắng và mùi cát ấm mặn.
Cawley nói, “Hãy thử cách khác vậy – anh có cho rằng đó cũng là một sự trùng hợp hay không khi tên của Rachel Solando, mà dù sao thì cô này cũng là một nhân vật hư cấu trong trí tưởng tượng của anh, cũng lại có các chữ cái y hệt như tên người vợ quá cố của anh và cũng có cùng tiền sử giết con của mình?”
Teddy đứng bật dậy, tay anh bắt đầu run lên từ phía vai trở xuống. “Vợ tôi không giết con. Chúng tôi chưa bao giờ có con.”
“Anh chưa bao giờ có con hả?” Cawley đi về phía bức tường.
“Chúng tôi chưa bao giờ có con, ông ngớ ngẩn bỏ mẹ.”
“Thôi được,” ông ta nói và kéo một tấm ga nữa xuống.
Trên bức tường phía sau nó là một biểu đồ hiện trường tội ác, các bức ảnh của một cái hồ, của ba đứa trẻ con bị chết. Và tên chúng, viết cùng một cỡ:
EDWARD LAEDDIS
DANIEL LAEDDIS
RACHEL LAEDDIS
Teddy cụp mắt xuống, nhìn chằm chằm vào hai bàn tay của mình, chúng đang run bần bật như thể không còn thuộc về anh nữa. Nếu như anh có thể làm chúng dừng lại bằng cách nào đó thì anh hẳn sẽ làm.
“Các con của anh, Andrew. Anh định đứng đó mà phủ nhận việc chúng đã từng sống trên đời này sao? Anh sẽ làm thế nào?”
Teddy giơ bàn tay run rẩy của mình lên, chỉ về phía Cawley. “Đó là những đứa con của Rachel Solando. Đó là hiện trường tội ác ở ngôi nhà ven hồ của Rachel Solando.”
“Đó là nhà của anh. Anh dọn tới đó vè các bác sĩ khuyên anh làm thế cho sức khỏe của vợ anh. Anh có nhớ không? Sau khi cô ta đã bất cẩn phóng hỏa căn hộ trước đây của anh. Hãy đưa cô ấy ra khỏi thành phố, tới một chỗ điền viên nên thơ hơn. Có thể cô ấy sẽ khỏe dần lên.”
“Cô ấy đâu có bị ốm.”
“Cô ta bị điên, Andrew.”
“Đừng có gọi tôi như thế. Và vợ tôi, cô ấy không điên.”
“Vợ anh mắc chứng trầm cảm mãn tính. Cô ta bị điên do trầm cảm. Cô ta…”
“Cô ấy không bị điên,” Teddy cắt ngang.
“Cô ta là một người có khuynh hướng tự sát. Cô ta hành hạ các con mình. Anh không muốn thừa nhận điều đó. Anh nghĩ là do cô ấy ốm yếu. Anh tự bảo mình rằng tâm thần hay tỉnh táo là do mình chọn, tất cả những gì cô ấy phải làm chỉ là nhớ rõ các trách nhiệm của cô ấy. Với anh. Với các con. Anh uống rượu và càng ngày càng trở nên nghiện ngập. Anh tránh xa nhà mình. Anh phớt lờ mọi dấu hiệu. Anh phớt lờ những gì thầy cô giáo ở trường, cha xứ ở xóm đạo, và gia đình của cô ta nói với anh.”
“Vợ tôi không bị điên.”
“Và tại sao? Tại vì anh xấu hổ.”
“Vợ tôi không…”
“Lý do duy nhất khiến cô ta phải gặp bác sĩ tâm thần là lần cô ta nhập viện do tự tử không thành. Ngay cả anh cũng không thể kiểm soát được chuyện này. Và họ nói với anh rằng cô ta nguy hiểm đối với chính bản thân. Rằng…”
“Chúng tôi chưa bao giờ gặp bất cứ bác sĩ tâm thần nào.”
"… rằng cô ta nguy hiểm đối với lũ trẻ. Anh đã được cảnh báo hết lần này tới lần khác.”
“Chúng ti6 chưa bao giờ có con. Chúng tôi có bàn tới chuyện đó. Nhưng cô ấy không thể thụ thai.”
“”Chúa ơi!” Cawley kêu lên thất vọng, đầu ông ta gục xuống như thể có ai vừa cầm một cái chày lăn bột nện một cái ly thủy tinh thụt vào trong đó.
“Lại đây nào,” Cawley nói. “Thật đấy. Lại gần đây và nhìn những cái tên trên các bức ảnh hiện trường tội ác này. Anh sẽ cảm thấy thú vị khi biết rằng…”
“Ông có thể làm giả những bức ảnh này. Ông có thể dựng lên tất cả.”
“Anh mơ. Lúc nào anh cũng mơ. Anh không thể ngừng các giấc mơ của mình, Andrew. Anh kể cho tôi nghe về chúng. Gần đây anh có mơ gì về hai đứa con trai và một đứa con gái nhỏ nữa không? Con bé có dẫn anh tới bên chiếc bia đá nữa không? Anh là ‘một thủy thủy tồi’, Andrew. Anh đã không cứu chúng. Anh có muốn nói về những khúc gỗ không? Tới đây mà nhìn chúng. Hãy nói rằng cúng không phải là những đứa trẻ trong các giấc mơ của anh?”
“Rác rưởi!”
“Vậy hãy nhìn xem. Hãy tới đây và nhìn.”
“Ông đánh thuốc tôi, ông giết người đồng sự của tôi và bảo rằng anh ta chưa bao giờ tồn tại. Ông sẽ nhốt tôi lại đây vì tôi biết ông đang làm gì. Tôi biết về những thí nghiệm đó. Tôi biết ông đang điều trị các bệnh nhân tâm thần phân liệt bằng cái gì, biết cả việc ông tự do tiến hành phẫu thuật thùy não, việc ông coi thường Luật Nuremberg. Tôi đã túm được gáy của ông, bác sĩ.”
“Anh hả?” Cawley đứng dựa vào tường và khoanh tay trước ngực. “Làm ơn, hãy mở mắt cho tôi nào. Anh đã làm mưa làm gió ở cái chỗ này suốt bốn ngày qua. Anh có thể ra vào bất cứ xó xỉnh nào trong cái bệnh viện này. Thế các bác sĩ kiểu quốc xã đang trốn ở chỗ nào? Những phòng phẫu thuật ma quỷ nằm ở chỗ nào?”
Ông ta bước lại phía bàn và tham khảo quyển sổ ghi chép của mình một lúc.
“Anh vẫn tin là chúng tôi tẩy não bệnh nhân hả Andrew? Rằng chúng tôi đang tiến hành những thí nghiệm kéo dài hàng thập kỷ để tạo ra – cái mà có một lần anh gọi là gì nhỉ? À, đây rồi – những chiến binh ma quỷ? Những kẻ sát nhân?” Ông ta nói và cười khẽ. “Ý tôi là, tôi phải thừa nhận rằng thậm chí trong cái thời buổi đầy rẫy chuyện hoang tưởng này thì câu chuyện tưởng tượng của anh nghe rất có lý.”
Teddy chỉ một ngón tay run rẩy vào ông ta. “Đây là một bệnh viện thí nghiệm với những phương pháp cấp tiến…”
“Đúng thế.”
“Các ông chỉ nhận những bệnh nhân bạo lực naht61.”
“Lại đúng tiếp. Chỉ thêm một chút nữa thôi, những bệnh nhân bạo lực nhất và hoang tưởng nhất.”
“Và các ông…”
“Chúng tôi làm sao?”
“Các ông thí nghiệm.”
“Đúng!” Cawley vỗ hai tay và cúi rạp người xuống. “Thừa nhận có tội.”
“Các thí nghiệm về giải phẫu.”
Cawley giơ một ngón tay lên. “À không. Xin lỗi. Chúng tôi không lấy việc giải phẫu ra làm thí nghiệm. Đó chỉ là biện pháp cuối cùng và tôi vẫn luôn công khai chống lại phương thức này một cách quyết liệt nhất. Nhưng tôi là một cá nhân và không thể chỉ trong một đêm mà thay đổi được những phương thức chữa bệnh đã được chấp nhận suốt nhiều thập kỷ qua.”
“Ông nói dối.”
Cawley thở dài. “Hãy cho tôi bất kỳ bằng chứng nào mảy may cho thấy lý thuyết của anh có thể đứng vững. Chỉ một bằng chứng thôi cũng được.”
Teddy không nói gì.
“Và với tất cả những bằng chứng tôi đã đưa ra, anh đều từ chối không bình luận.”
“Bởi vì chúng không phải là bằng chứng. Chỉ toàn những điều bịa đặt.”
Cawley chụm các ngón tay lại với nhau và đưa lên môi như thể đang cầu nguyện.
“Hãy để tôi đi khỏi hòn đảo này,” Teddy nói. “Với tư cách là một nhân viên luật pháp đang thì hành công vụ, tôi yêu cầu ông để tôi đi.”
Cawley nhắm mắt lại một lát. Khi ông ta mở mắt ra, ánh mắt của ông ta trở nên cứng rắn và quyết liệt.
“Thôi được, thôi được. Anh đã thắng, đặc vụ. Đây, tôi sẽ làm cho mọi chuyện trở nên dễ dàng hơn đối với anh.”
Ông ta lôi từ trên sàn lên một chiếc vali bằng da mềm, mở khóa rồi lôi khẩu súng của Teddy ra và ném nó lên bàn.
“Đây là súng của anh, đúng không?”
Teddy nhìn chằm cằm vào khẩu súng.
“Đây là những chữ cái đầu của tên anh khắc trên báng súng, đúng không?”
Teddy vẫn nhìn chằm chằm khẩu súng, mồ hôi rịn ra từ mắt anh.
“Đúng hay không, đặc vụ? Đây có phải là súng của anh không?”
Anh có thể nhìn thấy vết mẻ trên nòng súng từ cái ngày mà Phillip Stacks nhắm bắn anh nhưng lại bắn trượt vào khẩu súng và chính hắn cuối cùng lại trúng đạn do khẩu súng của hắn bị cướp cò. Anh có thể nhìn thấy hai chữ cái đầu E.D được khắc trên báng súng, một món quà của văn phòng liên bang sau vụ bắn nhau với Breck ở Maine. Và chỗ này nữa, phía dưới chốt an toàn, lớp vỏ kim loại hơi bị móp và tróc sơn do anh đánh rơi súng trong một cuộc rượt đuổi ở St .Louis vào mùa đông năm bốn mươi chín.
“Đây có phải là súng của anh không?”
“Đúng vậy.”
“Cầm nó lên, đặc vụ. Hãy chắc là súng đã được nạp đạn.”
Teddy nhìn khẩu súng rồi nhìn sang Cawley.
“Cầm lấy, đặc vụ. Nhặt khẩu súng lên.”
Teddy nhấc khẩu súng khỏi bàn và nó rung lên trong tay anh.
“Nó đã được nạp đạn rồi chứ?” Cawley hỏi.
“Đúng vậy.”
“Anh chắc chứ?”
“Tôi có thể cảm thấy sức nặng của nó.”
Cawley gật đầu. “Vậy thì hãy nổ súng đi. Vì đó là cách duy nhất để anh có thể thoát khỏi hòn đảo này.”
Teddy đưa tay còn lại giữ chặt lấy báng súng nhưng tình trạng của nó cũng không khá gì hơn. Anh hít những hơi thật sâu rồi thở ra một cách chậm rãi, nhìn dọc theo nòng súng bằng đôi mắt ướt nhòe mồ hôi và những cơn run rẩy đang lan ra khắp người. Và anh nhìn thấy Cawley ở đầu bên kia của ống ngắm, cách anh nhiều nhất là sáu mươi phân nhưng anh vẫn ngắm lên ngắm xuống, sang trái sang phải như thể hai người họ đang đứng trên một con tàu lúc sóng lớn.
“Anh có năm giây, đặc vụ.”
Cawley nhấc ống nghe ra khỏi máy điện đàm và bắt đầu quay số. Teddy nhìn ông ta đưa chiếc ống điện thoại lên miệng.
“Giờ thì anh chỉ còn ba giây nữa thôi. Hãy bóp cò hoặc anh sẽ sống dở chết dở trên cái hòn đảo này.”
Teddy có thể cảm thấy sức nặng của khẩu súng. Ngay cả khi người anh đang run lên bần bật, anh vẫn có cơ hội bắn súng nếu anh hành động ngay lúc này. Giết chết Cawley và bất cứ người nào đang đợi ở bên ngoài.
Cawley nói, “Giám đốc, ông có thể cho anh ta lên đây.”
Tầm nhìn của Teddy bỗng trở nên rõ ràng, những cơn run đã giảm đi đang kể. Anh nhìn xuống nòng súng khi Cawley đặt chiếc ống nghe về chỗ cũ.
Mặt Cawley toát lên một vẻ tò mò như thể ngay lúc này đây ông ta mới phát hiện ra rằng Teddy có thể vẫn còn đủ sức lực để thực hiện nốt công việc cuối cùng đó.
Ông ta giơ một tay lên và nói, “Thôi được rồi, được rồi.”
Và Teddy bắn ông ta vào giữa ngực. Rồi anh nâng súng lên một chút, bồi thêm phát nữa và giữa mặt.
Từ khẩu súng bắn ra toàn là nước.
Cawley nhíu mày, chớp mắt nhiều lần rồi lôi từ trong túi ra một chiếc khăn mùi soa.
Cánh cửa bật mở sau lưng Teddy, anh xoay ghế lại và chĩa súng vào người đàn ông vừa bước vào phòng.
“Đừng bắn,” Chuck nói. “Tôi quên không mặc áo mưa.”