watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Đảo Kinh Hoàng-NGÀY THỨ NHẤT (IV) - tác giả Dennis Lehane Dennis Lehane

Dennis Lehane

NGÀY THỨ NHẤT (IV)

Tác giả: Dennis Lehane

HỌ ĐỨNG BÊN NGOÀI buồng giam. Hành lang chạy qua đoạn giữa một cầu thang. Cửa phòng Rachel mở ra phía bên trái cầu thang đó, nửa đường xuống nằm phía bên phải.
“Đây là đường duy nhất để ra khỏi chỗ này à?” Teddy hỏi.
Cawley gật đầu.
“Không có đường lên trên mái nhà?” Chuck hỏi.
Cawley lắc đầu. “Đường đi lên duy nhất là lối thoát hiểm trong trường hợp cháy nổ. Các anh có thể nhìn thấy nó ở phía Nam của tòa nhà. Nó có một cánh cửa luôn được khóa. Dĩ nhiên là nhân viên thì có chìa khóa nhưng bệnh nhân thì không. Để lên được mái, cô ấy phải đi xuống cầu thang, đi ra ngoài, sử dụng một chiếc chìa khóa và trèo lại lên mái.”
“Nhưng mà mái nhà cũng được kiểm tra chứ?”
Lại thêm một cái gật đầu. “Cũng giống như tất cả các phòng trong khu điều trị. Ngay lập tức. Ngay khi phát hiện cô ấy mất tích.”
Teddy chỉ vào người hộ lý đang ngồi cạnh một chiếc bàn nhỏ hình chữ nhật phía trước cầu thang. “Luôn có người ngồi ở đây hai mươi tư tiếng chứ?”
“Đúng vậy.”
“Nghĩa là có một người trực ở đây đêm qua.”
“Đó chính là hộ lý Ganton.”
Họ đi về phía cầu thang và Chuck nói, “Vậy thì…” rồi nhướng mày nhìn Teddy.
“Vậy thì,” Teddy tỏ ý đồng tình.
“Vậy thì,” Chuck nói tiếp, “cô Solando đi ra khỏi căn phòng bị khóa của mình ra hành lang, xuống những bậc thang này.” Họ cũng bước xuống cẩu thang và Chuck chỉ ngón tay cái vào người hộ lý đang chờ họ ở dưới tầng hai. “Cô ấy đi qua một hộ lý nữa ngồi đây, chúng ta không biết bằng cách nào, tàng hình hay gì đó, đi tiếp xuống cầu thang thứ hai và đi ra ngoài vào…”
Họ xuống tới tầng trệt và đứng đối diện một phòng lớn, cửa mở rộng với rất nhiều ghế đi văng dựng sát tường, một chiếc bàn gấp lớn ở giữa phòng với những chiếc ghế gấp, những ô cửa sổ khiến không gian tràn ngập ánh sáng.
“Đây là khu vực sinh hoạt chung,” Cawley nói. “Là nơi phần lớn bệnh nhân trải qua buổi tối của mình. Buổi chữa bệnh theo nhóm được tổ chức ở đây đêm qua. Các anh sẽ thấy phòng y tá ngay sau cái cổng kia. Sau khi tắt đèn, các hộ lý sẽ tụ tập ở đây. Họ có nhiệm vụ lau sàn nhà và cửa sổ nhưng thay vì làm những việc đó, chúng tôi thường xuyên bắt gặp họ chơi bài.”
“Thế còn đêm qua?”
“Theo những người trong ca trực hôm qua thì canh bạc lúc đó đang xọm tụ. Bảy người đàn ông, ngồi ngay dưới chân cầu thang này chơi bài xì phé.”
Chuck chống tay vào hông và thở phì một cái. “Cô ta lại làm phép tàng hình, hẳn thế, rồi rẽ trái hoặc phải.”
“Rẽ phải thì cô ta sẽ đi qua khu phòng ăn rồi tới bếp và sau đó là một cái cửa bị khóa với hệ thống báo động hoạt động suốt chín tiếng đồng hồ trong đêm ngay sau khi các nhân viên nhà bếp rời khỏi. Sang trái là phòng y tá và phòng nhân viên. Không có cửa nào dẫn ra phía bên ngoài. Những lối ra duy nhất là một cánh cửa ở phía bên kia khu sinh hoạt chung hoặc đi xuống hành lang phía sau cầu thang. Cả hai chỗ đó đêm qua đều có nhân viên canh gác làm nhiệm vụ.” Cawley liếc nhìn đồng hồ đeo tay. “Quý vị, tôi có một buổi họp. Nếu quý vị có thắc mắc gì thì cứ thoải mái hỏi bất cứ nhân viên nào của chúng tôi hoặc ghé qua ông McPherson. Ông ấy là người phụ trách cuộc tìm kiếm này cho tới giờ. Ông ấy hẳn sẽ có mọi thông tin mà các anh cần. Nhân viên sẽ ăn tối vào đúng sáu giờ trong phòng ăn chung ở tầng trệt khu nhà dành cho hộ lý. Sau đó, tất cả chúng tôi sẽ tập trung ở đây trong phòng nhân viên và các anh có thể nói chuyện với bất cứ ai làm việc đêm qua có liên quan tới sự việc này.”
Ông ta vội vã đi về phía cổng trước, họ nhìn theo cho tới khi ông ta rẽ trái và biến mất.
Teddy nói, “Liệu có bất cứ điểm nào trong câu chuyện này khiến ta cảm thấy nó không hề dính dáng tới nội gián không nhỉ?”
“Tôi thì thấy khoái trá với cái giả thiết tàng hình của mình. Cô ta có thể để lại công thức trong một cái chai. Anh có hiểu ý tôi không? Ngay lúc này đây, cô ta có thể đang theo dõi chúng ta, Teddy.” Chuck ngó vội qua vai mình rồi quay lại nhìn Teddy. “Có việc để suy nghĩ rồi đấy.”
BUỔI CHIỀU, họ gia nhập đội tìm kiếm và đi vào sâu trong đảo khi gió càng ngày càng mạnh và ấm hơn. Phần lớn hòn đảo bị cây cối che phủ, cỏ dại mọc đầy, những cánh đồng cỏ ken dày đan với tua cuốn của những cây sồi cổ thụ và dây leo xanh rậm rì gai. Đa số những nơi này không thể đi qua được, ngay cả với sự giúp đỡ của dao rụa mà thấy người lính gác mang theo. Rachel Solando không có chiếc rựa nào cả và thậm chí nếu có thì dường như bản chất tự nhiên của hòn đảo này là đẩy tất cả những nơi ẩn náu trở ra bở biển.
Cuộc tìm kiếm gây cho Teddy một cảm giác mông lung, như thể không ai thật sự để tâm tới nó ngoài anh và Chuck. Những người đàn ông này đi vòng theo đường viền sát bờ biển bên trong đảo, với những bước chân nặng trịch, mắt sụp xuống. Thế rồi, tới một khúc quành, họ rẽ sang một bãi đá ngầm màu đen và đứng đối mặt với một vách đá nhô ra biển, cao quá đầu họ. Ở phía bên trái, đằng sau một bãi đầy rêu, cây gai, và những bụi quả mọng đỏ mọc quấn quýt um tùm là một trảng đất thoải xuống dần, dẫn tới chân của mấy ngọn đồi thấp. Những ngọn đồi này mọc lên vững chãi, ngọn sau lại cao hơn ngọn trước cho tới khi chúng nhường chỗ cho vách đá lởm chởm và Teddy có thể nhìn thấy những vết cắt trên các ngọn đồi và những lỗ hình chữ nhật bên cạnh vách đá.
“Đó là những cái hang à?” anh hỏi McPherson.
Ông ta gật đầu. “Chỉ có vài cái.”
“Ông đã kiểm tra chúng chưa?”
McPherson thở dài và chụm tay che gió để châm một điếu thuốc. “Cô ta có hai đôi giày, đặc vụ. Cả hai vẫn còn trong phòng cô ta. Làm sao cô ta có thể đi qua quãng đường mà chúng ta vừa đi, trèo qua những mỏm đá này để tới được cái vách đá đó?”
Teddy chỉ tay qua trảng đất tới chỗ trũng nhất tại chân đồi. “Cô ấy đi đường vòng, từ phía Tây?”
McPherson cũng chỉ tay về phía đó nói, “Có nhìn thấy chỗ trảng đất tụt xuống không? Có một cái đầm lầy ngay phía đầu ngón tay của anh. Dưới chân đồi thì toàn là dây thường xuân độc, sồi sống, sơn và hàng nghìn loại cây khác nhau, tất cả đều có gai cỡ như cái đấy của tôi ấy chứ.”
“Thế có nghĩa là to hay nhỏ?” Câu hỏi phát ra từ phía Chuck, lúc này đang đứng vài bước đằng trước họ, nhìn ngoái lại.
McPherson mỉm cười. “Đâu đó ở giữa.”
Chuck gật đầu.
“Tất cả những gì tôi muốn nói với quý vị là cô ta hẳn không có cách nào khác là bám lấy đường bờ biển, chứ đi hướng khác thì chỉ nửa đường sẽ ra khỏi bãi. Và gặp một trong những cái của này.” Ông ta chỉ về phía vách đá.
Một tiếng sau, ở phía bên kia của hòn đảo, họ gặp một hàng rào. Phía sau nó là khu pháo đài cũ và ngọn hải đăng. Teddy có thể nhìn thấy ngọn hải đăng cũng có hàng rao bao quanh, hai lính gác đứng dưới cổng, súng bồng trước ngực.
“Quy trình xử lý rác thải tự hoại?” Anh hỏi.
McPherson gật đầu.
Teddy nhìn Chuck. Chuck khẽ nhướng mày.
“Quy trình tự hoại?” Teddy nhắc lại.
Trong bữa tối, không ai tới bên bàn của họ. Họ ngồi một mình, người nhớp nháp vì bất cẩn vị dính mưa, cơn gió nhẹ ấm áp lúc ban chiều đã mang theo hơi nước từ biển. Phía bên ngoài hòn đảo bắt đầu chìm dần vào bóng tối, cơn gió nhẹ đang chuyển mình thành gió lớn.
“Một căn phòng bị khóa,” Chuck nói.
“Chân đất,” Teddy lên tiếng.
“Qua ba cửa kiểm tra an ninh bên trong.”
“Một phòng đầy hộ lý.”
“Chân đất.” Chuck nhắc lại.
Teddy gẩy gẩy đĩa thức ăn, một kiểu thịt băm nướng với khoai tây nghiền, thịt bết lại với nhau. “Qua một bức tường có chăng dây điện.”
“Hoặc qua một chiếc cổng có khóa.”
“Ra phía ngoài kia.” Gió đang rung chuyển tòa nhà, rung chuyển bóng tối.
“Chân đất.”
“Không ai nhìn thấy cô ta.”
Chuck nhai thức ăn rồi nhấp một ngụm cà phê. “Ai đó chết trên đảo này, chuyện đó chắc chắn là có xảy ra đúng không? Thì họ sẽ đi đâu nhỉ?”
“Thì chôn.”
Chuck gật đầu. “Hôm nay sếp có trông thấy một cái nghĩa địa nào không?”
Teddy lắc đầu. “Chắc được rào kỹ ở đâu đó.”
“Giống như cái nhà máy tự hoại. Chắc thế.” Chuck đẩy khay thức ăn ra xa rồi tựa lưng vào ghế. “Chúng ta sẽ nói chuyện với ai tiếp đây?”
“Các nhân viên.”
“Anh nghĩ là họ sẽ hữu ích chứ?”
“Cậu thì không à?”
Chuck nhoẻn miệng cười. Anh ta châm một điếu thuốc, mắt không rời khỏi Teddy, nụ cười khẽ chuyển thành cười ra tiếng, khói thuốc tuôn ra theo nhịp điệu của nó.
Teddy đứng ở giữa phòng, các nhân viên quây thành vòng xung quanh anh. Anh để hai tay lên thành một chiếc ghế sắt, Chuck đứng dựa vào một thanh cột nhà ở bên cạnh, tay đút túi quần.
“Tôi cho là mọi người đều biết tại sao chúng ta có mặt ở đây,” Teddy nói. “Có một người bỏ trốn đêm qua. Cho tới giờ tất cả những gì chúng tôi có thể nói là bệnh nhân đã biến mất. Không có bằng chứng nào khiến chúng tôi tin rằng bệnh nhân có thể rời bệnh viện mà không có sự giúp đỡ. Trại phó McPherson, ông nhất trí chứ?”
“Phải. Tôi cho rằng đó là một suy luận hợp lý vào thời điểm này.”
Teddy định nói tiếp thì Cawley, lúc này đang ngồi trên một chiếc ghế bên cạnh đám y tá lên tiếng, “Các vị có thể làm ơn giới thiệu một chút về mình được không? Một số nhân viên của tôi vẫn chưa được làm quen với hai vị.”
Teddy đứng thẳng người lên và nói, “Đặc vụ Mỹ Edward Daniels. Đây là đồng sự của tôi, đặc vụ Charles Aule.”
Chuck giơ tay vẫy đám đông rồi lại đút tay vào túi quần.
Teddy nói, “Trại phó, ông và người của ông đã tìm kiếm trên đảo?”
“Đúng vậy.”
“Và các ông đã tìm thấy gì?”
McPherson ngồi duỗi người trên ghế. “Chúng tôi không tìm thấy bằng chứng nào cho thấy một phụ nữ đang chạy trốn. Không thấy mảnh quần áo bị rách nào, không dấu chân, không dấu hiệu cây cối bị giẵm đạp. Đêm qua biển động, triều lên, nên cũng không thể có chuyện bơi đi.”
“Nhưng cô ta vẫn có thể cố làm điều đó.” Lời từ y tá Kerry Marino, một phụ nữ mảnh dẻ vừa bước vào phòng vừa đưa tay tháo chiếc cặp tóc ở sau gáy cho mái tóc đỏ đang được búi gọn trên đỉnh đầu xõa xuống. Cô ta để chiếc mũ y tế trong lòng rồi đưa tay gỡ mái tóc với một vẻ uể oải thể hiện sự mệt mỏi nhưng lại khiến tất cả đàn ông trong phòng liếc trộm về phía cô ta như thể cái điệu bộ dùng tay chải tóc hững hờ ấy giống với một lời đề nghị lên giường.
McPherson hỏi, “Ý cô là gì?”
“Sao chúng ta biết được là cô ấy đã không thử bơi và cuối cùng bị chết đuối?”
“Thế thì giờ cô ấy đã bị đánh giạt vào bờ rồi.” Cawley khẽ ngáp sau nắm tay che miệng. “Với thủy triều nhu vậy.”
Marino giơ một tay lên như thể muốn nói, Ôi xin lỗi đã làm phiền các chàng trai, rồi bảo, “Tôi chỉ nghĩ là cũng nên đề cập tới nó.”
“Và chúng tôi đánh giá cao điều đó,” Cawley nói. “Đặc vụ, làm ơn hỏi tiếp các câu hỏi của anh. Hôm nay là một ngày dài.”
Teddy liếc sang Chuck và Chuck đảo mắt ra hiệu với anh. Một phụ nữ có tiền sử bạo lực mất tích không dấu vết trên một hòn đảo nhỏ mà dường như ai cũng chỉ muốn đi ngủ cho sớm.
Teddy tiếp, “Ông Ganton có nói với chúng tôi rằng ông ấy kiểm tra phòng của cô Solando vào lúc nửa đêm và phát hiện cô ta mất tích. Khóa ở cửa ra vào và cửa sổ trong phòng cô ta không hề có dấu vết phá hoại. Giữa khoảng mười và mười hai giờ đêm hôm qua, ông Ganton, có lúc nào ông không để mắt tới hành lang tầng ba không?”
Vào người quay sang nhìn Ganton và Teddy bối rối khi nhận thấy sự thích thú trên khuôn mặt của một số người, như thể Teddy là một thầy giáo lớp ba đang đưa ra câu hỏi cho học sinh nhanh trí nhất lớp.
Ganton nói, mắt vẫn nhìn xuống chân. “Lần duy nhất tôi rời mắt khỏi cái hành lang đó là khi tôi bước vào phòng của cô ta và phát hiện cô ta đã biến mất.”
“Vào khoảng ba mươi giây.”
“Mười lăm giây thì đúng hơn.” Ông ta ngước lên nhìn Teddy. “Đó là một căn phòng nhỏ.”
“Còn gì nữa?”
“Tất cả bệnh nhân đều bị khóa trong phòng từ mười giờ trở đi. Cô ta là người cuối cùng về phòng. Tôi ngồi ngay ở đường đi. Tôi không nhìn thấy ai trong suốt hai tiếng đồng hồ.”
“Và ông không bao giờ rời vị trí của mình?”
“Không thưa ngài.”
“Đi uống một cốc cà phê chẳng hạn, không gì ư?”
Ganton lắc đầu.
“Thôi được, mọi người nghe này,” Chuck nói và rời khỏi cái cột. “Tôi phải tạo ra một bước nhảy vọt ở đây mất thôi. Tôi phải nói là, chỉ để phục vụ cho việc tranh luận chứ không có ý thất kính với ông Ganton đây, rằng chúng ta hãy thử đùa giỡn với các ý tưởng bằng cách nào đó cô Solando đã bò trên trần nhà hay gì gì đó.”
Một số người bắt đầu cười khúc khích.
“Và cô ấy ra tới cầu thang xuống tầng hai. Cô ấy sẽ phải đi qua ai?”
Một hộ lý có nước da trắng đục, tóc màu cam giơ tay lên.
“Và tên ông là?” Teddy hỏi.
“Glen. Glen Miga.”
“Được rồi, Glen. Ông ở nguyên vị trí của mình suốt đêm hôm qua chứ?”
“Vâng, đúng thế.”
“Glen,” Teddy nói.
“Gì cơ?” Ông ta ngừng loáy hoáy với vệt xước măng rô ở tay và nhìn lên.
“Sự thật.”
Glen nhìn về phía Cawley rồi quay lại Teddy.
“Đúng là có lúc tôi đã rời đi.”
“Glen,” Teddy tiếp. “Ông nói tiếp đi.”
Glen vẫn nhìn Teddy, mắt ông ta bắt đầu trở ra trừng trừng và rồi ông ta nói, “Tôi đi nhà vệ sinh.”
Cawley cúi ra phía trước, ngực tì vào đầu gối. “Ai đứng vào thay vị trí của anh?”
“Chỉ là đi đái một tí thôi mà,” Glen nói. “Đi tiểu tiện, xin lỗi.”
“Trong bao lâu?” Teddy hỏi.
Glen nhún vai. “Một phút là lâu nhất.”
“Một phúc. Anh chắc chứ?”
“Tôi đâu phải lạc đà.”
“Không.”
“Tôi phải ra vào để đi vệ sinh chứ.”
“Anh đã vi phạm quy tắc,” Cawley nói. “Lạy Chúa tôi.”
“Thưa ngài, tôi biết. Tôi…”
“Lúc đó là mấy giờ?” Teddy nói.
“Mười một rưỡi. Khoảng đó.” Nỗi sợ hãi của Glen đối với Cawley đã chuyển thành sự căm ghét đối với Teddy. Chỉ cần vài câu hỏi nữa là ông ta sẽ trở nên thù dịch. “Cảm ơn ông, Glen,” Teddy nói và quay lại phía Chuck với một cái gật đầu ra hiệu.
“Vào lúc mười một rưỡi,” Chuck nói, “hoặc quãng đó, mọi người vẫn đang chơi bài?”
Vài cái đầu quay sang nhìn nhau trước khi quay về phía Chuck rồi một người da đen gật đầu và sau đó những hộ lý khác cũng làm theo anh ta.
‘Những ai ngồi ở đó?”
Bốn người da đen và một người da trắng giơ tay lên. Chuck bắt đầu tấn công vào người đứng đầy nhóm, anh chàng đầu tiên gật đầu, người đầu tiên giơ tay lên. Một gã béo tròn, đầu cạo nhẵn, trơn bóng dưới ánh đèn.
“Tên?”
“Trey, thưa ngài. Trey Washington.”
“Trey, tất cả các anh đều ngồi ở đây?”
Trey chỉ xuống sàn nhà. “Ngay đây. Ở giữa phòng. Nhìn thẳng vào bậc cầu thang. Vừa để mắt cửa trước, vừa để mắt cửa sau.”
Chuck bước về phía anh ta, nghển cổ lên nhìn cửa trước, cửa sau và cầu thang. “Vị trí tốt.”
Trey hạ thấp giọng. “Không chỉ là về bệnh nhân, thưa ngài. Cã bác sĩ hay một số y tá không ưa chúng tôi. Chúng tôi không được chơi bài ở đây. Phải để ý thấy ai đến thì vớ ngay cái chổi lau nhà.”
Chuck cười: “Đồ rằng các anh phải di chuyển rất nhanh.”
“Anh đã bao giờ nhìn thấy chớp tháng Tám chưa?”
“Rồi.”
“Còn chậm hơn tôi vớ lấy cái chổi lau nhà đó.”
Tới đây thì sự căng thẳng giữa đám người đó bị phá vỡ, ngay cả y tá Marino cũng không thể nào giấu được một nụ cười và Teddy để ý thấy người da đen đập tay ghi điểm với nhau. Anh biết rằng trong thời gian ở lại đây, Chuck sẽ là một tay cớm tốt. Cậu ta có sở trường trong việc giao tiếp với mọi người, như thể cậu ta hoàn toàn thoải mái giữa bất cứ nhóm người nào trong xã hội, bất kể màu da hay thậm chí cả ngôn ngữ. Teddy tự hỏi không hiểu tại sao văn phòng ở Seattle lại ngu tới mức để cậu ta đi cho dù bạn gái cậu ta có là người Nhật hay gì đi nữa.
Teddy, trái lại là một người mạnh mẽ đầy bản năng. Một khi người ta chấp nhận điều đó, một cách nhanh chóng nhưng trong thời kỳ chiến tranh thì họ sẽ rất thích làm việc với anh. Nhưng nếu chưa đi được tới chỗ đó thì sẽ rất căng thẳng.
“Được rồi, được rồi!” Chuck giơ một tay lên để ngăn những tiếng cười dù miệng anh ta vẫn đang toe toét. “Như vậy thì Trey, các anh đều ở dưới chân cầu thang, chơi bài. Khi nào thì các anh biết có chuyện không hay xảy ra?”
“Khi *** - à, tôi định nói là ông Ganton, bắt đầu hét vọng xuống ‘Gọi trại trưởng. Chúng ta có kẻ bỏ trốn.’ “
“Và lúc đó là mấy giờ?”
“Mười hai giờ hai phút ba chín giây.”
Chuck nhướng một bên mày hỏi: “Anh là đồng hồ à?”
“Không thưa ngài, nhưng tôi được rèn luyện phải nhìn đồng hồ ngay khi thấy dấu hiệu bất ổn đầu tiên. Có thể là do cái mà các anh gọi là ‘chứng cứ’, tất cả chúng tôi sẽ phải điền vào một ‘bản tường trình sự việc’. Điều đầu tiên mà cái bản ấy hỏi là thời gian xảy ra sự việc đó. Chắc các anh cũng quá quen với mấy cái tường trình. Cho nên việc liếc nhìn đồng hồ ngay khi thấy dấu hiệu đầu tiên của sự bất ổn đã trở thành bản năng thứ hai.”
Mấy hộ lý gật đầu khi anh ta nói, những tiếng “ừ phải” và “đúng thế” tuôn ra từ miệng họ như thể họ đang trong một buổi lễ nhà thờ.
Chuck khẽ ném sang Teddy một cái nhìn như thể muốn nói Thế nào, làm thế được chứ?
“Vậy là mười hai giờ hai phút,” Chuck nói.
“Ba mươi chín giây.”
Teddy quay sang hỏi Ganton, “Hai phút dư ra lúc quá nửa đêm này chắc là do ông đã kiểm tra một vài phòng khác trước khi tới phòng của cô Solando, đúng không?”
Ganton gật đầu. “Phòng của cô ấy là phòng thứ năm từ đầu dãy trở xuống.”
“Khi nào thì trại trưởng tới hiện trường?” Teddy nói.
Trey lên tiếng, “Hicksville – một trong những lính gác – là người đầu tiên xuất hiện ở cửa trước. Chắc đang xử lý cổng ra vào, tôi đoán thế. Anh ta có mặt ở đây vào lúc mười hai giờ sáu phút hai giây. Trưởng trại tới sau đó bốn phút cùng sáu người khác.”
Teddy quay sang y tá Marino. “Cô nghe thấy tất cả những báo động đó và cô…”
“Tôi thu khóa phòng y tá lại. Tôi ra tới khu giải trí đúng lúc Hicksville đi vào từ cửa trước.” Nói tới đây cô ta nhún vai và châm một điếu thuốc khiến một số người trong nhóm bắt chước theo, cũng châm thuốc của họ.
“Và không có bất cứ ai va phải cô trong phòng y tá?”
Cô ta tựa cằm vào hai cùi tay và nhìn anh qua lớp khói thuốc hình lưỡi liềm. “Va vào tôi để đi đâu? Tới cửa phòng Thủy liệu à? Anh vào trong đó, anh sẽ bị khóa trong một cái hộp xi măng với các bồn tắm và bể bơi nhỏ.”
“Phòng đó đã được kiểm tra rồi chứ?”
“Nó đã được kiểm tra, đặc vụ,” McPherson nói, giọng có vẻ mệt mỏi. “Y tá Marino,” Teddy nói, “cô cũng tham gia nhóm chữa bệnh đêm qua đúng không?”
“Đúng vậy?”
“Có gì bất thường xảy ra không?”
“Định nghĩa ‘bất thường’?”
“Xin lỗi?”
“Đây là một bệnh viện tâm thần, đặc vụ. Cho các tội phạm tâm thần. ‘Bình thường’ không phải là một phần đáng kể trong ngày của chúng tôi.”
Teddy gật đầu với cô ta kèm theo một nụ cười nhún nhường. “Để tôi sửa lại. Bất cứ cái gì xảy ta trong nhóm chữa bệnh ngày hôm qua đáng nhớ hơn, ừm…?”
“Bình thường?” cô ta nói.
Câu trả lời khiến Cawley bật ra vài tiếng cười lạc lõng.
Teddy gật đầu.
Cô ta suy nghĩ một lúc, tàn thuốc của cô ta đã chuyển sang màu trắng và sắp rụng xuống. Cô ta gạt điếu thuốc vào gạt tàn rồi ngẩng đầu lên nói, “Không có gì cả. Xin lỗi.”
“Cô Solando có nói gì trong buổi chữa bệnh tối qua không?”
“Tôi nghĩ là có một vài lần, đúng thế.”
“Về cái gì?”
Marino nhìn sang Cawley.
Ông ta nói, “Lúc này chúng ta cần cung cấp thông tin bảo mật về bệnh nhân cho đặc vụ.”
Cô ta gật đầu nhưng Teddy có thể thấy cô ta chẳng thích thú gì lắm cái ý tưởng đó.
“Chúng tôi thảo luận về việc kiềm chế giận dữ. Gần đây chúng tôi có một số trường hợp dễ nổi nóng đột ngột.”
“Kiểu gì?”
“Bệnh nhân la hét vào mặt các bệnh nhân khác, đáng nhau, kiểu vậy. Chẳng có gì bất thường nhưng có một cơn bột phát nhỏ trong vài tuần trở lại đây, chắc phần nhiều do ảnh hưởng của đợt triều nóng. Cho nên tối hôm qua chúng tôi thảo luận về các phương thức phù hợp và không phù hợp thể hiện sự lo lắng hoặc không hài lòng.”
“Cô Solando gần đây có bất cứ biểu hiện lên cơn giận dữ nào không?”
“Rachel ư? Không. Rachel chỉ trở nên kích động khi trời mưa. Đó là đóng góp của cô ấy cho buổi chữa bệnh tối qua. ‘Tôi nghe thấy mưa. Tôi nghe thấy mưa. Không phải ở đây nhưng mà nó đang tới. Chúng ta có thể làm gì với chuyện thức ăn không?’ “
“Thức ăn?”
Marino dụi điếu thuốc và gật đầu. “Rachel ghét thức ăn ở đây. Cô ấy thường xuyên than phiền về nó.”
“Lý do chính đáng?” Teddy hỏi.
Marino suýt mỉm cười nhưng kìm lại được. Cô ta cụp mắt xuống trước khi nói tiếp. “Ai đó có thể bắt bẻ rằng đó là một lý do có thể hiểu được. Nhưng ở đây chúng tôi không gắn các giá trị đạo đức tốt, xấu vào lý do và động cơ của bệnh nhân.”
Teddy gật đầu. “Còn có một bác sĩ tên là Sheehan ở đây tối qua. Anh ta phụ trách buổi chữa bệnh. Anh ta có ở đây không?”
Không ai nói gì. Vài người tới dụi thuốc là của họ vào những chiếc gạt tàn giữa các hàng ghế.
Cuối cùng Cawley lên tiếng, “Bác sĩ Sheehan đã rời khỏi đây trên chuyến phà sáng nay. Chuyến phà đã chở các anh tới.”
“Tại sao?”
“Anh ấy đã có lịch nghỉ phép từ trước.”
“Nhưng chúng tôi cần phải nói chuyện với anh.”
Cawley nói, “Tôi có giữ bản tóm tắt của anh ấy về buổi chữa bệnh ngày hôm qua. Tôi có tất cả các ghi chép của anh ấy. Anh ấy rời khỏi khu vực làm việc lúc mười giờ đêm qua, trở về phòng của mình. Anh ấy đi khỏi sáng nay. Kỳ nghĩ đã được lên kế hoạch và bị quá hạn từ lâu. Chúng tôi thấy không có lý do gì để giữ anh ấy ở lại đây.”
Teddy nhìn McPherson.
“Ông đã cho phép?”
McPherson gật đầu.
“Trong tình trạng phong tỏa,” Teddy nói. “Một bệnh nhân bỏ trốn. Sao ông có thể cho phép bất cứ người nào rời khỏi đây trong thời gian phong tỏa để điều tra?”
“Chúng tôi biết chắc anh ấy ở đâu đêm qua. Chúng tôi cũng đã xem xét kỹ lưỡng và không thấy có lý do nào để giữ anh ấy lại,” McPherson nói.
“Anh ấy là một bác sĩ,” Cawley lên tiếng.
“Chúa ơi,” Teddy khẽ lẩm bẩm. Đấy là lỗi phạm quy nghiêm trọng nhất mà anh từng gặp ở một viện điều trị các bệnh nhân phạm tội hình sự, vậy mà tất cả mọi người đều xử sự như không có chuyện gì xảy ra.
“Thế anh ta đi đâu?”
“Xin lỗi?”
“Đi nghỉ ở đâu,” Teddy nói. “Ở chỗ nào?”
Cawley nhìn lên trần nhà như cố nhớ ra. “New York, tôi nghĩ thế. Tp New York, gia đình anh ấy ở đó. Đại lộ Park.”
“Tôi sẽ cần số điện thoại của anh ta,” Teddy nói.
“Tôi không hiểu tại sao…”
“Bác sĩ,” Teddy nói. “Tôi sẽ cần số điện thoại của anh ta.”
“Chúng tôi sẽ kiếm nó cho anh, đặc vụ.” Mắt Cawley vẫn dán lên trần nhà. “Còn gì nữa không?”
“Ông đoán xem,” Teddy nói.
Cawley hạ cằm xuống, mắt nhìn sang Teddy.
“Tôi cần một cái điện thoại,” Teddy nói.

CHIẾC ĐIỆN THOẠI trong phòng y tá chẳng có mảy may tín hiệu gì ngoài tiếng không khí rít lên. Trong khi này còn bốn chiếc điện thoại khóa trong tủ kính nhưng tới khi mở ra thì cũng chẳng mang lại kết quả khả quan hơn.
Teddy và bác sĩ Cawley đi tới tổng đài trung tâm ở tầng một khu bệnh viện chính. Người trực tổng đài nhìn lên khi họ bước qua cửa, một bộ tai nghe màu đen lủng lẳng quanh cổ anh ta.
“Thưa ngài,” anh ta nói, “chúng ta mất liên lạc. Thậm chí cả radio liên lạc.”
“Thời tiết bên ngoài trông đâu tệ tới mức đó,” Cawley nói.
Người trức tổng đài nhún vai. “Tôi sẽ cố gắng. Nhưng mà ở đây thì chúng ta chẳng làm được gì mấy. Quan trọng là điều kiện thời tiết ở phía bên kia.”
“Cứ thử xem,” Cawley nói. “Nếu anh làm cho nó hoạt động trở lại được thì báo cho tôi biết. Vị này cần phài thực hiện một cuộc gọi khá quan trọng.”
Người trực tổng đài gật đầu, quay lưng lại phía họ và đeo bộ tai nghe lên.
Bên ngoài, không khí như bị nén lại.
“Họ sẽ làm gì nếu anh không trình diện?” Cawley hỏi.
“Văn phòng liên bang hả?” Teddy nói. “Họ sẽ đáng dấu vào biên bản trực đêm. Thường thì họ chỉ bắt đầu tỏ ra lo ngại nếu hai mươi tư tiếng sau đó tôi vẫn chưa xuất hiện.”
Cawley gật đầu. “Chắc tới lúc đó thì bão cũng chưa tan.”
“Tan à?” Teddy nói. “Nó thậm chí còn chưa bắt đầu cơ mà.”
Cawley nhún vai và bắt đầu bước về phía cổng. “Tôi sẽ làm vài ly và hút vài điếu xì gà tại nhà. Nếu anh và đồng sự của anh không ngại thì hãy ghé qua vào lúc chín giờ.”
“Thế lúc đó chúng ta có thể nói chuyện chứ?” Teddy hỏi.
Cawley dừng bước, quay sang nhìn anh. Đám cây cối đen xì phía bên kia tường bắt đầu rung chuyển và phát ra những tiếng rì rầm.
“Chúng ta vẫn đang nói chuyện đấy thôi, đặc vụ.”
CHUCK VÀ TEDDY bước đi, xung quanh tối om, cảm thấy cơn bão trong làn không khí dần chướng lên, nóng rẫy xung quanh họ như thể thế giới đang mang thai và căng phồng.
“Chuyện này thật nhảm nhí,” Teddy nói.
“Đúng vậy.”
“Thối nát từ cốt lõi.”
“Tôi đã được rửa tội, nên tôi sẽ nói với sếp ‘Amen, người anh em!’ “
“Người anh em?”
“Đó là cái cách người ta nói ở đấy. Tôi đã từng ở Mississippi một năm mà.”
“Thế à?”
“Amen, người anh em.”
Teddy lấy một điếu thuốc nữa của Chuck và châm lửa.
“Sếp đã gọi văn phòng liên bang chưa?” Chuck hỏi.
Teddy lắc đầu. “Cawley nói tổng đài mất sóng.” Anh giơ tay lên rồi nói tiếp. “Do cơn bão, cậu biết đấy.”
Chuck nhổ điếu thuốc khỏi miệng. “Bão à? Đâu?”
“Cậu có thể cảm thấy nó đang tới gần,” Teddy nói và nhín lên bầu trời tối sầm. “Dầu vậy thì nó vẫn chưa tới được cái nơi để có thể vô hiệu hóa trung tâm liên lạc.”
“Trung tâm liên lạc,” Chuck nhại lại. “Sếp đã rời khỏi quân ngũ chưa hay vẫn đang chờ giấy báo tử?”
“Thì tổng đài trung tâm vậy,” Teddy nói và vẩy điếu thuốc về phía đó. “Là cái quái gì mà họ muốn gọi. Và cả radio liên lạc của họ nữa.”
“Cái radio liên lạc của nợ của họ à?” Mắt Chuck mở trừng trừng. “Cả radio à sếp?”
Teddy gật đầu. “Phải, tình hình khá ảm đạm. Họ nhốt chúng ta lại trên hòn đảo để tìm kiếm một phụ nữ trốn thoát khỏi căn phòng khóa chặt…”
“Qua bốn trạm kiểm tra có người gác.”
“Một phòng đầy những người đang chơi xì phé.”
“Trèo qua bức tường cao ba mét.”
“Với dây điện chăng ở trên.”
“Bơi hơn chục dặm…”
“… trong lúc biển đang thịnh nộ…”
“… vào bờ. Thịnh nộ? Tôi thích cái từ này. Nghe hay đấy. Mà nhiệt độ trong nước là bao nhiêu nhỉ, mười độ?”
“Cao nhất là mười lăm độ. Nhưng lại vào buổi đêm nữa cơ?”
“Thế thì chỉ mười độ thôi.” Chuck gật gù. “Teddy, cả cái câu chuyện này, sếp biết không?”
“Và cả cái tay bác sĩ Sheehan mất tích nữa?” Teddy nói.
“Sếp cũng thấy lạ đúng không? Tôi không dám chắc. Có vẻ như sếp rạch lỗ đít lão Cawley chưa đủ rộng?”
Teddy cười phá lên và nghe tiếng cười của mình bị không khí ban đêm cuốn đi rồi tan trên đầu những con sóng bạc phía xa xa như thể nó chưa hề tồn tại, như thể hòn đảo, biển cả và muối đã mang đi những gì mà anh nghĩ là của anh và…
“… nếu sự có mặt của chúng ta ở đây chỉ là để giúp họ hợp lý hóa mọi chuyện?” Chuck đang nói gì đó.
“Gì vậy?”
“… nếu sự có mặt của chúng ta ở đây chỉ là để giúp họ hợp lý hóa mọi chuyện?” Chuck nói. “Nếu như chúng ta được gọi tới đây chỉ để giúp họ đánh thêm dấu gạch ngang lên chữ t và dấu chấm trên chữ i?”
“Xin ngài hãy nói rõ ra, ngài Watson của tôi.”
Chuck lại cười. “Thôi được, sếp, cố lên và giữ vững tinh thần.”
“Tôi sẽ cố, tôi sẽ cố.”
“Hãy cho rằng có một bác sĩ nào đó mê tít một bệnh nhân nào đó.”
“Cô Solando.”
“Sếp đã xem ảnh rồi đấy!”
“Cô ấy rất quyến rũ.”
“Quyến rũ. Teddy, cô ta là loại đàn bà đẹp mà lính Mỹ thường cắt hình dán trong tủ riêng. Thế nên cô ta lợi dụng cậu bé của chúng ta, Sheehan… Giờ thì anh đã thấy gì chưa?”
Teddy búng tàn thuốc vào gió và ngắm những bụi than nổ lộp bộp, lóe lên trong gió rồi bay xoẹt trở lại qua anh và Chuck. “Và Sheehan cắn câu, cho rằng anh ta không thể sống thiếu cô ta.”
“Từ có ý nghĩa chủ đạo ở đây là sống. Như một cặp tình nhân tự do trong thế giới thật.”
“Nên họ đã bỏ trốn. Rời khỏi hòn đảo.”
“Có khi lúc này đang xem chương trình Fats Domino.”
Teddy dừng lại ở cuối khu nhà dành cho nhân viên đứng đối diện với bức tường màu cam. “Thế tại sao lại không báo cho cảnh sát nhỉ?”
“Họ chả báo rối đấy thôi,” Chuck nói. “Nguyên tắc Họ buộc phải đưa ai đó vào cuộc và đối với một trường hợp mất tích ở nơi như thế này thì họ phải gọi chúng ta. Nhưng nếu họ muốn che giấu sự dính líu của nhân viên thì sự có mặt của chúng ta ở đây chỉ là để hoàn chỉnh thêm câu chuyện của họ - rằng họ đã làm mọi chuyện theo đúng nguyên tắc.”
“Đồng ý,” Teddy nói. “Nhưng tại sao phải che giấu cho Sheehan?”
Chuck áp đế già vào tường, thả lòng đầu gối rồi châm một điếu thuốc. “Tôi cũng không biết. Vẫn chưa nghĩ ra lý do gì.”
“Nếu đúng là Sheehan đã mang cô ta ra khỏi đây, anh ta hẳn đã phải đút lót một số người.”
“Hẳn thế.”
“Nhiều người ấy chứ!”
“Dù gì cũng phải có một số hộ lý. Một hoặc hai lính gác.”
“Ai đó trên chuyến phà. Có lẽ không chỉ một người.”
“Trừ khi anh ta không rời hòn đảo này bằng cách đi phà. Anh ta có thể có thuyền riêng của mình.”
Teddy suy nghĩ một lúc rồi nói: “Xuất thân giàu có. Đại lộ Park, theo lời Cawley.”
“Thế thì khả năng đi thuyền riêng có lý đấy.”
Teddy nhìn lên bức tường với những vòng dây thép gai mảnh, không khí xung quanh chúng phồng ra như một quả bóng bị ép vào mặt kính.
“Cô được bao nhiêu câu trả lời thì lại mọc ra bấy nhiêu câu hỏi.” Một lúc sau Teddy lên tiếng.
“Thế là thế nào?”
“Tại sao những dòng mật mã đó lại trong phòng Rachel?”
“Thì cô ta bị điên mà.”
“Nhưng tại sao lại cho chúng ta xem chứ? Ý tôi là nếu đây là một vụ bao che thì tại sao không để chúng ta dễ dàng ký toẹt vào báo cáo rồi đi? ‘Do hộ lý ngủ quên’. Hay là ‘Khóa cửa sổ bị gỉ nát mà chúng tôi không để ý.’ “
Chuck tì tay vào tường. “Có thể họ quá cô đơn. Tất cả bọn họ. Cần có sự giao lưu với ai đó từ thế giới bên ngoài.”
“Đúng thế. Bịa ra một câu chuyện để lôi chúng ta tới đây. Để có cái gì mới mà bàn tán. Tôi thấy hợp lý đấy.”
Chuck quay lại nhìn về khu bệnh viện Ashecliffe. “Nói đùa chứ…”
Teddy cũng quay lại, cả hai đứng đối mặt với bệnh viện. “Ừ…”
“Teddy, tôi bắt đầu cảm thấy không an tâm ở đây.”
“HỌ GỌI NÓ là Đạ sảnh,” Cawley nói khi dẫn họ đi qua một hành lang có sàn lát gỗ tới trước hai cánh cửa bằng gỗ sồi với nắm đấm cửa bằng đồng to như những trái dứa. “Tôi nói nghiêm túc đấy. Vợ tôi tìm thấy trên gác mái vài bức thư chưa gửi của chủ cũ, Đại tá Spivey. Nói đi nói lại về cái Đại sảnh mà ông ta đang cho xây dựng.”
Cawley kéo mạnh một trái dứa và đẩy cánh cửa ra.
Chuck khẽ huýt sáo. Teddy và Dolores có một căn hộ ở Buttonwood khiến bạn bè ghen tị vì sự rộng tãi của nó với hành lang chính có chiều dài gần bằng một sàn bóng, thế mà so với căn phòng này thì nó lọt thỏm, chỉ bằng một nửa.
Sàn nhà được lát đá hoa cương, rải rác những tấm thảm trang trí sẫm màu kiểu phương Đông. Một cái lò sưởi cao quá đầu người. Chỉ riêng đống rèm nhung đỏ thẫm, mỗi tấm dài ba mét trên chín cái cửa sổ cũng đã trị giá hơn số tiền mà Teddy kiếm được trong một năm. Có khi hai năm cũng nên. Một cái bàn bi-a nằm trong góc dưới ba bức tranh sơn dầu vẽ một người đàn ông trong quân phục quân đội liên bang màu xanh nước biển, một phụ nữ trong chiếc đầm trắng diêm dúa, và bức cuối cùng là người đàn ông và người đàn bà đứng trước cái lò sưởi giống như cái lò sưởi khổng lồ ở trong phòng này, dưới chân là một con chó.
“Là tranh vẽ ông đại tá à?” Teddy hỏi.
Cawley nhìn theo ánh mắt của anh và gật đầu. “Bị bãi nhiệm không lâu sau khi những bức tranh này được hoàn thành. Chúng tôi tìm thấy chúng dưới tầng hầm của ngôi nhà cùng cái bàn bi-a, với nhiều tấm thảm và ghế ngồi nữa. Anh nên tham quan tầng hầm, đặc vụ ạ. Có thể dùng làm sân chơi Polo ở dưới đó.”
Teddy chợt ngửi thấy mùi tẩu thuốc, anh và Chuck cùng xoay người lại và nhận ra trong phòng còn có một người đàn ông khác. Ông ta ngồi quay lưng về phía họ trong một chiếc ghế bành lưng cao đối diện với lò sưởi, một chân vắt lên đầu gối chân kia, trên đó thò ra gáy một quyển sách.
Cawley dẫn họ về phía lò sưởi, chỉ vào mấy chiếc ghế đặt ở đằng trước rồi đi về phía tủ rượu. “Đồ uống gì đây, quý ngài?”
“Một lý whisky mạch đen, nếu ông có,” Chuck nói.
“Được thôi, còn đặc vụ Daniels thì sao?”
“Soda va một ít đá.”
Người đàn ông lạ mặt trong phòng ngẩng đầu lên nhìn họ. “Anh không có cái thú uống rượu sao?”
Teddy nhìn ông ta. Một cái đầu nhỏ nhắn, tóc đó, trông như một trái sơ ri vắt vẻo trên một thân hình chắc mập, béo lùn. Cả người ông ta toát ra một vẻ công tử bột, khiến cho Teddy có cảm giác rằng ông ta hẳn đã mất rất nhiều thời gian trong buồng tắm mỗi buổi sáng để chăm sóc cơ thể mình với các loại phấn và dầu thơm.
“Và ông là?” Teddy hỏi.
“Đồng nghiệp của tôi,” Cawley lên tiếng. “Bác sĩ Jeremiah Narhring.”
Người đàn ông này nháy mắt ra hiệu làm quen với họ nhưng không chìa tay ra nên Teddy và Chuck cũng lờ đi.
“Tôi rất tò mò,” Narhring nói khi Teddy và Chuck ngồi xuống hai chiếc ghế quây theo hình vòng cung phía bên trái ông ta.
“Chuyện lạ sao?” Teddy nói.
“Sao anh lại không uống rượu nhỉ? Uống rượu không phải là phổ biến trong nghề của các anh sao?”
Cawley đưa đồ uống cho Teddy lúc này đang đứng bắt tréo chân bên cạnh giá sách phía bên phải lò sưởi. “Cũng khá phổ biến,” anh nói. “Thế còn nghề của các ông?”
“Xin lỗi?”
“Nghề của các ông ấy.” Teddy nói. “Tôi thường nghe thấy người ta nói trong nghề của ông cũng đầy những kẻ nghiện rượu.”
“Không giống như tôi được biết.”
“Thế thì chắc ông không để ý đấy thôi.”
“Tôi không chắc là tôi hiểu ý anh.”
“Đấy, thế đấy là cái gì, trong ly của ông ấy, trà lạnh à?”
Teddy rời mắt khỏi giá sách quay sang nhìn Narhring lúc này đang quan sát chiếc ly của mình, một nụ cười rúm lại như con tằm trên cái miệng mềm mại. “Tuyệt vời, đặc vụ. Anh thật là có tài bào chữa. Tôi đoán rằng anh hẳn rất lão luyện trong việc tra khảo.”
Teddy lắc đầu, để ý thấy Cawley không có nhiều sách y học lắm, hay ít nhất là trong căn phòng này. Chỉ có một vài cuốn còn ngoài ra toàn là tiểu thuyết, một vài tập sách mỏng mà Teddy đoán là thơ, và rất nhiều sách lịch sử và tiểu sử.
“Không phải sao?” Naehring nói.
“Tôi là đặc vụ. Tôi giao nộp họ. Trong phần lớn trường hợp, những người khác sẽ làm công việc thẩm vấn.”
“Tôi gọi đó là ‘tra khảo’ còn anh gọi nó là ‘thẩm vấn’. Đúng vậy, đặc vụ, anh quả là có khả năng bào chữa đáng kinh ngạc.” Ông ta gõ ly rượu scoth của mình lên bàn nhiều lần như muốn thể hiện hành động vỗ tay. “Tôi bị mê hoặc bởi những người đàn ông của bạo lực.”
“Đàn ông của gì cơ?”
Teddy bước lại gần bên chiếc ghế của Naehring, nhìn xuống người đàn ông nhỏ thó ngồi đó rồi lắc lắc những viên đá trong chiếc ly của mình.
Naehring quay đầu lại, nhấp một ngụm scoth và nói, “Bạo lực.”
“Thật là định nghĩa chết tiệt, bác sĩ.” Chuck lên tiếng và chưa bao giờ Teddy thấy anh ta khó chịu ra mặt đến vậy.
“Đó không phải là định nghĩa, không phải là định nghĩa.”
Teddy lại lắc chiếc ly một lần nữa trước khi uống cạn và nhìn thấy phía dưới mắt trái của Naehring khẽ giần giật. “Tôi cũng phải đồng ý với cộng sự của mình.” Anh nói và ngồi xuống ghế.
“Không,” Naehring kéo dài giọng khi nói từ này. “Tôi nói các anh là người của bạo lực. Nó không đồng nghĩa với việc buộc tội các anh là những người bạo lực.”
Teddy cười rất tươi với ông ta và nói, “Thế thì hãy giải thích cho chúng tôi xem nào.”
Sau lưng họ, Cawley đặt một đĩa hát vào máy, tiếng kim chạm vào đĩa nghe sột soạt rồi sau đó là những tiếng kêu lộp độp và tiếng rít ken két khiến Teddy nhớ tới những chiếc điện thoại mà anh vừa gọi lúc nãy. Thế rồi những âm thanh chói tai đó được thay thế bởi một hòa âm giữa piano và đàn dây. Nhạc cổ điển gì đó, Teddy chỉ biết đến thế. Có lẽ là nhạc Phổ. Nó khiến anh nhớ tới những quán cà phê ở Đức và một bộ sưu tập đĩa nhạc mà anh nhìn thấy trong căn phòng của một viên sĩ quan chỉ huy phó ở Dachau, người đã tự bắn vào họng mình trong lúc nghe nhạc. Hắn ta vẫn còn sống khi Teddy và bốn người lính Mỹ khác bước vào phòng. Máu chảy ra ồng ộc. Nhưng hắn ta không thể với tới khẩu súng lúc này đã rơi xuống sàn để bồi thêm phát nữa. Tiếng nhạc êm ái lan khắp căn phòng như mạng nhện độc. Phải hai mươi phút sau hắn mới chết, hai người lính Mỹ hỏi tên phó chỉ huy xem hắn có đau đớn không khi họ lục soát căn phòng. Teddy nhặt bức anh đóng khung để trong lòng hắn lên xem, bức ảnh chụp vợ và hai đứa con, mắt hắn giãn ra và bám theo bức ảnh khi Teddy lấy nó đi. Teddy đứng đó hết nhìn bức ảnh lại nhìn hắn, nhìn tới nhìn lui, cứ thể cho đến khi hắn tắt thở. Trong suốt thời gian đó, tiếng nhạc vẫn du dương. Lảnh lót.
“Brahms?” Chuck hỏi.
“Mahler.” Cawley ngồi xuống bên cạnh Naehring.
“Anh muốn nghe tôi giải thích đúng không?” Naehring lên tiếng.
Teddy tì hai cùi trỏ lên đầu gối và chìa hai tay ra tỏ ý sẳn sàng lắng nghe.
“Từ hồi đi học,” Naehring nói, “tôi đánh cá rằng không ai trong số hai anh bỏ qua một cuộc xô xát nào ở sân trường. Tôi không có ý nói là các Naehring thích thú với chuyện đó mà chỉ là vì trong đầu các anh không bao giờ có chỗ cho sự tháo chạy. Đúng thế không?”
Teddy nhìn về phía Chuck. Chuck khẽ mỉm cười với anh, vẻ lúng túng.
“Không được nuôi dạy để bỏ chạy, bác sĩ,” Chuck nói.
“À, đúng, nuôi dạy? Thế ai đã nuôi dạy anh?”
“Những con gấu,” Teddy nói.
Mắt Cawley chợt sáng lên và ông ta khẽ gật đầu với Teddy.
Thế nhưng Naehring có vẻ không thích sự hài hước. Ông ta khẽ chỉnh lại nếp quần hơi nhàu ở phía đầu gối. “Các anh có tin vào Chúa không?”
Teddy cười.
Naehring cúi người về phía trước.
“Ôi, ông nói nghiêm túc đấy chứ?” Teddy hỏi.
Naehring vẫn tỏ vẻ đang đợi.
“Ông đã bao giờ nhìn thấy một cái trại tập trung chưa bác sĩ?”
Naehring lắc đầu.
“Chưa ư?” Teddy hơi nhoài người về phía trước. “Tiếng Anh của ông rất tốt, gần như không có khiếm khuyết. Tuy nhiên ông đánh vần các phụ âm vẫn hơi cứng một tí.”
“Việc nhập cư hợp pháp là một tội hay sao, đặc vụ?”
Teddy mỉm cười, lắc đầu.
“Vậy thì hãy quay lại với câu hỏi về Chúa?”
“Một ngày nào đó, ông nhìn thấy một cái trại tập trung, bác sĩ, rồi hãy quay lại hỏi tôi về những cảm nghĩ với Chúa.”
Naehring tỏ ý đồng tình với câu trả lời của Teddy bằng cách nhắm mắt lại rồi từ từ mở mắt ra trước khi đổi hướng nhìn sang Chuck.
“Thế còn anh?”
“Tôi cũng chưa bao giờ nhìn thấy cái trại nào.”
“Tôi hỏi anh có tin vào Chúa không?”
Chuck nhún vai. “Từ lâu tôi cũng chagn83 quan tâm tới ông ta cho lắm.”
“Từ khi cha anh qua đời, đúng không?”
Nghe tới đây, Chuck khẽ cúi người về phía trước, nhìn chằm chằm vào người đàn ông thấp, mập với đôi mắt sáng quắc.
“Cha anh đã qua đời đúng không? Cả hai của anh nữa, đặc vụ Daniels? Trên thực tế, tôi dám cá là cả hai anh đều đã mất đi nhân vật nam giới trụ cột trong gia đình trước sinh nhật thứ mười lăm của mình.”
“Năm con rô,” Teddy nói.
“Xin lỗi?” Naehring hỏi, hơi nhoài người về phía trước.
“Đây có phải là một trò ảo thuật mới của ông không?” Teddy nói. “Ông sẽ nói cho tôi biết tôi đang giữ con bài nào. Hay là, không, chờ đã, ông sẽ cắt một cô y tá làm đôi hoặc lôi từ trong đầu bác sĩ Cawley ra một con thỏ.”
“Đây không phải là một trò ảo thuật.”
“Hay như thế này,” Teddy vừa nói vừa chỉ muốn vặt cái đầu trông giống như quả sơ ri khỏi đôi vai u nung núc thịt của ông ta. “Ông dạy một phụ nữ đi xuyên qua tường, tàng hình trong một tòa nhà đầy hộ lý và lính gác, rồi vượt qua đại dương.”
“Trò này được đấy,” Chuck nói.
Naehring lại chớp mắt một cách chậm rãi khiến Teddy liên tưởng tới một con mèo sau khi ăn no.
“Lại phải nói kỹ năng bào chữa của anh thật là…”
“À, lại quay về chỗ cũ.”
“… thật là ấn tượng. Nhưng vấn để hiện nay…”
“Vấn đề hiện nay,” Teddy nói. “Là cái bệnh viện này trong đêm hôm qua đã vi phạm trắng trợn chín quy định về an ninh. Các ông có một người phụ nữ bị mất tích mà không ai thèm đi tìm xem…”
“Chúng tôi vẫn đang tìm kiếm.”
“Một cách nghiêm túc?”
Naehring ngồi tụt vào ghế và nhìn sang Cawley với cái vẻ khiến Teddy băn khoăn không hiểu ai trong số họ mới thực sự là người nắm quyền.
Cawley bắt gặp ánh mắt Teddy, phía dưới cằm ông ta hơi đỏ lên. “Bác sĩ Naehring, ngoài những chức danh khác thì còn là người phụ trách mảng thông tin liên lạc trong ban giám đốc. Tôi mời ông ấy tới đây với tư cách đó, nhằm giải đáp những thắc mắc của các anh lúc trước.”
“Những thắc mắc nào vậy?”
Naehring khum tay lại châm lửa cho tẩu thuốc của mình rồi nói, “Về việc chúng tôi không thể cung cấp hồ sơ cá nhân của nhân viên.”
“Của Sheehan,” Teddy nói.
“Của bất kỳ ai.”
“Cơ bản mà nói, ông đang thọc gậy bánh xe chúng tôi đấy.”
“Tôi không quen với cách diễn đạt của anh.”
“Vậy nên nghĩ tới việc đi ra ngoài nhiều hơn nữa.”
“Đặc vụ, cứ tiếp tục cuộc điều tra của anh và chúng tôi sẽ giúp anh bất cứ gì chúng tôi có thể, nhưng…”
“Thôi khỏi.”
“Xin lỗi?” Cawley nhoài người ra phía trước, bốn người bọn họ tạo thành một bộ tứ vai sụm xuống, đầu nhô ra phía trước.
“Thôi khỏi,” Teddy nhắc lại. “Cuộc điều tra đã kết thúc. Chúng tôi sẽ trở lại thành phố trong chuyến phà đầu tiên. Chúng tôi sẽ viết báo cáo và mọi việc sẽ được chuyển cho các nhân viên của Hoover, tôi chỉ có thể đoán thế. Chúng tôi sẽ ra khỏi vụ này.”
Khói từ tẩu thuốc trên tay Naehring bay lởn vởn. Cawley làm một hơi từ ly rượu của mình. Âm nhạc của Mahler vẫn lảnh lót. Từ đâu đó trong căn phòng, tiếng đồng hồ kêu tích tắc. Bên ngoài trời bắt đầu mưa nặng hạt.
Cawley đặt chiếc ly rỗng xuống cái bàn nhỏ bên cạnh ghế mình.
“Tùy anh thôi, đặc vụ.”
Đảo Kinh Hoàng
Tác Giả - Lời Nói Đầu
NGÀY THỨ NHẤT
NGÀY THỨ NHẤT (II)
NGÀY THỨ NHẤT (III)
NGÀY THỨ NHẤT (IV)
NGÀY THỨ NHẤT (V)
NGÀY THỨ HAI
NGÀY THỨ HAI (2)
NGÀY THỨ HAI (3)
NGÀY THỨ HAI (4)
NGÀY THỨ HAI (5)
NGÀY THỨ HAI (6)
NGÀY THỨ HAI (7)
NGÀY THỨ HAI (8)
NGÀY THỨ HAI (9)
NGÀY THỨ BA
NGÀY THỨ BA (II)
NGÀY THỨ BA (III)
NGÀY THỨ BA (IV)
NGÀY THỨ BA (V)
NGÀY THỨ BA (VI)
NGÀY THỨ TƯ
NGÀY THỨ TƯ (2)
NGÀY THỨ TƯ (3)
NGÀY THỨ TƯ (4)
NGÀY THỨ TƯ (5)
NGÀY THỨ TƯ (6)