NGÀY THỨ HAI (9)
Tác giả: Dennis Lehane
ANH TÌM THẤY Chuck trong tầng hầm khu nội trú nam nơi người ta tập hợp những chiếc giường đơn cho tất cả mọi người nằm trú bão. Để tới được chỗ này, Teddy phải đi qua một loạt hành lang ngầm dưới đất nối liền các tòa nhà trong khuôn viên bệnh viện. Anh được một hộ lý tên Ben, một núi thịt trắng nung núc, đồ sộ dẫn qua bốn lần của khóa và ba trạm kiểm soát. Ở dưới này người ta gần như không cảm nhận được cơn bão của thế giới trên kia. Các hành lang dài, xám xịt, tối lờ mờ và Teddy không thích thú gì khi thấy chúng giống hệt như những hành lang vừa xuất hiện trong giấc mơ của anh. Không dài bằng, không có những dải bóng tối chập chờn, nhưng cũng cùng một màu xám ngoét và lạnh lẽo.
Anh cảm thấy ngượng khi gặp Chuck. Trước đây, anh chưa từng bị đau đầu dữ dội như thế ở nơi công cộng, điều đó khiến anh càng xấu hổ khi nhớ lại cái cảnh nôn ọe trên boong tàu lúc trước. Anh mới vô dụng làm sao, giống như một đứa con nít cần người lớn nhắc khỏi ghế.
Nhưng khi nghe thấy tiếng Chuck gọi “Sếp ơi!” từ phía bên kia phòng thì anh ngạc nhiên nhận ra rằng anh thật sự cảm thấy vui khi gặp lại Chuck. Anh yêu cầu được tiến hành điều tra vụ này một mình nhưng bị cấp trên từ chối. Lúc đó anh cảm thấy vô cùng khó chịu, nhưng hiện giờ, sau hai ngày ở đây, sau chuyện trong nhà mồ, sau khi hơi thở của Rachel phả vào miệng anh, và sau những giấc mơ quái gở đó, anh phải thừa nhận rằng anh cảm thấy may mắn khi không chỉ có một mình.
Họ bắt tay nhau, anh nhớ lại những gì Chuck nói với anh trong giấc mơ – “Tôi sẽ không bao giờ rời khỏi hòn đảo này” – và Teddy cảm thấy bóng ma của một con chim sẽ bay qua giữa ngực anh rồi vỗ cánh.
“Sếp thế nào?” Chuck vỗ vai anh hỏi.
Teddy nở một nụ cười ngượng ngập. “Tôi đỡ hơn rồi. Vẫn hơi rùng mình một chút, nhưng nói chung là ổn.”
“Tệ thật đấy,” Chuck nói, hạ thấp giọng và bước ra khỏi chỗ hai người hộ lý đang dựa vào một chiếc cột trụ hút thuốc. “Sếp làm tôi sợ chết đi được. Tôi cứ nghĩ là sếp bị đau tim, đột quỵ hay gì đó chứ.”
“Chỉ là một cơn đau nửa đầu thôi.”
“Chỉ là?” Chuck nói. Anh ta hạ thấp giọng hơn nữa và hai người họ đi về phía bức tường xi măng màu be ở phía Nam căn phòng, tách riêng khỏi mọi người. “Đầu tiên tôi cứ nghĩ là sếp giả vờ, sếp biết đấy, như kiểu sếp đã lên sẵn kế hoạch để tìm cách tiếp cận đống hồ sơ hay gì đó.”
“Tôi cũng mong mình mưu mô được thế.”
Chuck nhìn vào mắt Teddy, mắt hấp háy vẻ gợi ý. “Nhưng nó cũng khiến tôi suy nghĩ.”
“Cậu không làm thế chứ?”
“Tôi có.”
“Thế cậu đã làm gì?”
“Tôi bảo với Cawley tôi muốn ngồi lại với sếp. Và tôi ngồi đó. Một lúc sau ông ta có điện thoại và rời khỏi phòng.”
“Cậu lục hồ sơ của ông ta à?”
Chuck gật đầu.
“Thế cậu tìm thấy cái gì?”
Mặt Chuck xị xuống. “Thật ra cũng chẳng có gì nhiều. Tôi không thể mở được các tủ hồ sơ. Ông ta có những kiểu khóa tôi chưa thấy bao giờ. Tôi đã từng cạy rất nhiều ổ khóa. Tôi cũng có thể cạy được chúng, nhưng tôi sẽ để lại dấu vết. Sếp biết đấy?”
Teddy gật đầu. “Cậu đã làm đúng.”
“Vâng, mà…” Chuck gật đầu chào một người hộ lý đi ngang qua và Teddy có cảm giác kỳ lạ rằng bọn họ đang ở trong một bộ phim cũ của Cagney, vai các tù nhân tụ tập ở sân trại gaim bàn kế hoạch đào tẩu. “Tôi có mò được vào bàn làm việc của ông ta.”
“Cậu làm gì cơ?”
“Điên rồ, đúng không? Sau này, sếp có thể bẻ tay tôi cũng được.”
“Bẻ tay cậu à? Tặng cậu huy chương thì có.”
“Không tới mức huy chương. Tôi chẳng tìm được gì nhiều, sếp. Chỉ thấy mỗi cuốn lịch của ông ta. Nhưng có một điều – hôm qua, hôm nay, ngày mai, và ngày kia, tất cả đều bị khoanh lại. Sếp biết không? Ông ta khoanh chúng lại bằng mực đen.”
“Cơn bão,” Teddy nói. “Ông ta nghe nói nó sẽ xảy ra.”
Chuck lắc đầu. “Ông ta có viết ngang qua bốn cái cột đó. Sếp hiểu ý tôi không? Giống như kiểu sếp viết ‘Đi nghỉ ở Mũi Cod’ vậy. Sếp bắt kịp tôi chứ?”
“Ừ.” Teddy nói.
Trey Washington thong thả đi về phía họ, miệng ngậm một điếu xì gà rẻ tiền, đầu và quần áo ướt nhẹp nước mưa. “Các anh đang âm mưu gì ở đây hả các đặc vụ?”
“Anh thử đoán xem,” Chuck nói.
“Anh vừa ở ngoài kia về đấy à?” Teddy hỏi.
“Vâng, đúng vậy. Tàn bạo luôn, đặc vụ. Chúng tôi chất các túi cát xung quanh khuôn viên, đóng ván lên tất cả các cửa sổ. Mẹ nó! Bọn chúng cứ ngã chồng lên nhau ở ngoài kia, không đứng vững được ấy chứ!” Trey châm lại điếu xì gà bằng một chiếc bật lửa Zippo rồi quay sang Teddy. “Anh ổn chứ, đặc vụ? Tin tức lan như lửa trại rằng anh bị tấn công gì đó.”
“Tấn công như thế nào?”
“ÔI trời, nếu kể lại tất cả các phiên bản xung quanh vụ này thì có mà hết đêm.”
Teddy mỉm cười. “Tôi bị đau nửa đầu. Những cơn đau nửa đầu rất khó chịu.”
“Tôi có một bà cô thường hay bị những cơn đau nửa đầu khủng khiếp như vậy. Bà ta khóa cửa lại trong phòng, tắt đèn, kéo rèm cửa, và không ai nhìn thấy bà ta trong vòng hai tư tiếng đồng hồ.”
“Tôi rất thông cảm với bà ấy.”
Trey hít một hơi thuốc rồi nói, “Giờ thì bà ấy đã chết lâu rồi, nhưng mà tôi sẽ chuyển lời của anh tới bà ấy khi tôi cầu nguyện đêm nay. Tuy nhiên bà ta là một người phụ nữ độc ác, kể cả lúc đau đầu lẫn lúc không đau đầu. Thường đánh tôi và em trai tôi bằng một cây gậy gỗ mai châu. Đôi khi chẳng vì lý do gì cả. Tôi nói, ‘Cô ơi, cháu đã làm gì?’ Bà ta bảo, ‘Tao không biết, nhưng mày đang nghĩ tới một cái gì đó khủng khiếp.’ Anh có thể làm gì với một người phụ nữ như thế chứ?”
Anh ta thực sự có vẻ như chờ một câu trả lời nên Chuck nói, “Chạy thật nhanh.”
“Hê hê hê,” Trey khẽ cười, điếu xì gà vẫn trong miệng. “Đúng thế, các vị, đúng thế.” Rồi anh ta thở dài. “Tôi phải đi hong khô người. Gặp lại các anh sau.”
“Hẹn gặp lại. “Căn phòng đầy những người vừa trở về từ ngoài trời bão, rũ nước khỏi áo mưa và mũ kiểm lâm màu đen, ho khan, hút thuốc, công khai chuyền tay nhau những chai rượu bẹt.
Teddy và Chuck dựa lưng vào bức tường màu be, nhìn mọi người trong phòng và trò chuyện với giọng rất bình thường.
“Thế những chữ trên cuốn lịch…”
“À.”
“Không viết là ‘Đi nghỉ ở Mũi Cod’ chứ?”
“Không.”
“Thế là gì?”
“Bệnh nhân thứ sáu mươi bảy.”
“Chỉ có thế thôi?”
“Chỉ có thế thôi.”
“Nhưng thế là đủ rồi, đúng không?”
“Phải. Tôi cũng nghĩ vậy.”
ANH KHÔNG NGỦ ĐƯỢC. Anh nằm nghe tiếng mọi người ngáy, càu nhàu, hít thở, có người thỉnh thoảng lại rít lên khe khẽ, có người nói mớ trong lúc ngủ, và anh nghe thấy ai đó nói. “Anh phải nói với tôi chứ. Tất cả chỉ có thế. Chỉ cần nói cái từ đó ra…” Và một người khác nói, “Tôi mắc một hạt bỏng ngô trong họng.” Có người thì đạp chăn ra, người thì lăn tới lăn lui, người ngồi dậy vỗ gối một lúc lha1 lâu rồi lại lăn đùng ra đệm. Một lúc sau, các thứ âm thanh nhộn nhạo đó bắt đầu tìm được nhịp điệu chung khiến Teddy nghĩ tới một bản thánh ca không nghe rõ lời.
Bên ngoài, âm thanh cũng như bị nghẹt lại nhưng Teddy vẫn có thể nghe thấy cơn bão đang cào xới mặt đất, đập sầm sập lên móng nhà, và anh ước gì ở đây có cửa sổ, giá như anh có thể nhìn thấy những tia chớp trong cơn bão, thứ anh sáng kỳ dị mà nó vẽ lên bầu trời.
Anh nghĩ tới những điều Cawley vừa nói với anh.
Vấn đề không phải là nếu. Mà vấn đề là khi nào.
Anh đã từng nghĩ tới chuyện tự sát?
Anh nghĩ là có. Kể từ khi Dolores qua đời, không ngày nào anh không nghĩ tới chuyện đi theo cô ấy, thậm chí còn xa hơn thế. Đôi khi anh cảm thấy như thể việc anh tiếp tục sống trên đời là một hành động hèn nhát. Tất cả những việc mua bán, đổ xăng cho chiếc Chryles, cạo râu, đi tất, đứng xếp hàng, chọn cà vạt, là áo sơ mi, rửa mặt, chải đầu, rút tiền mặt, đổi bằng lái, đọc báo, đi tiểu, ăn uống – một mình, lúc nào cũng chỉ có một mình – đi xem phim, mua đĩa hát, trả tiền hóa đơn, rồi lại cạo râu, lại tắm, lại ngủ, và lại thức dậy… có nghĩa gì đâu nếu chúng không mang anh tới gần với cô ấy hơn?
Anh biết là anh phải thay đổi. Phải gượng dậy. Để mọi thứ lại sau lưng. Mấy người bạn và mấy người thân hiếm hoi của anh đã nhiều lần bảo anh thế, và anh biết rằng nếu anh đứng ngoài nhìn vào thì anh cũng sẽ khuyên cái gã Teddy kia hãy phấn chấn lên, can đảm lên mà sống tiếp đời mình.
Nhưng để làm được vậy, anh phải tìm cách đặt Dolores lên giá, cho cô lẫn vào bụi bặm với hy vọng rằng thật nhiều bụi bặm sẽ chất chồng lên khiến bao ký ức của anh về cô nguôi ngoai. Khiến hình ảnh cô phai nhạt. Cho tới ngày kia cô chỉ còn là một giấc mơ hơn là một con người thực từng tồn tại.
Họ nói, quên cô ta đi, anh phải quên cô ta đi, nhưng quên cô đi để được gì? Cuộc sống khốn nạn này ư? Làm sao anh có thể dứt bỏ hình ảnh em ra khỏi tâm trí? Cho tới giờ anh vẫn hoàn toàn thất bại, anh sẽ phải làm thế nào đây? Làm thế nào để em có thể ra đi, đó là tất cả những gì anh muốn hỏi. Anh muốn lại được ôm em, muốn được hít thở mùi hương của em, và, đúng là anh còn muốn cả điều đó nữa, anhmun em nhạt phai dần trong tâm trí của anh. Xin em, xin em, hãy nhạt phai.
Anh ước gì anh chưa từng uống những viên thuốc đó. Ba giờ sáng mà anh vẫn thức chong chong. Thao thức lắng nghe giọng nói của cô, sự khàn khàn trong đó, cái âm điệu Boston nhẹ nhàng phát âm chữ a và chữ r không lộ bằng phát âm chữ e và chữ r vì thế Dolores vẫn thường nói yêu anh với tiếng thì thầm “fovera anh eva”(1). Anh mỉm cười trong bóng tối, nghe tiếng cô,ngắm hàm răng cô, hàng lông mi, và những cái liếc nhìn trễ nãi, đầy khoái cảm nhục dục của cô vào mỗi sáng Chủ nhật.
Đêm đó, anh gặp cô tại Cocoanut Grove. Ban nhạc đang chơi bộ nhạc cụ lớn bằng đồng, không khí mờ đục vì khói thuốc, tất cả mọi người đều ăn mặc rất chải chuốt – thủy thủ và quân nhân mặc những bộ quân phục màu trắng, xanh, xám đẹp nhất của họ, những người khác thì diện cà vạt hoa nhức nhối, áo vest đáp ngực với chiếc khăn mùi soa gấp hình tam giác tao nhã nơi túi ngực, mũ phớt đặt trên bàn, và phụ nữ, phụ nữ có mặt khắp nơi. Họ khiêu vũ ngay cả trên đường tới phòng trang điểm. Họ khiêu vũ từ bàn này sang bàn khác, họ xoay người nhún nhảy khi châm thuốc, mở túi trang điểm, lướt tới quầy bar, ngả đầu ra sau cười, tóc họ có màu lụa óng và lấp lánh ánh sáng khi họ cử động.
Teddy tới đó với Frankie Gordon, một trung sĩ tình báo, và vài người khác, tất cả bọn họ đều sẽ lên tàu trong một tuần tới. Anh bỏ mặc Frankie ngay khi anh nhìn thấy cô, bỏ mặc anh ta chưa nói hết câu và tiến về phía sàn nhảy, mất hút cô giây lát trong đám đông vì mọi người đang giạt ra hai bên để dành chỗ cho một anh chàng thủy thủ và một cô gái tóc vàng mặc váy trắng khi anh này xoay cô gái trên lưng mình rồi nhấc bổng cô ấy qua đầu và xoay tròn trước khi hạ cô gái xuống, đầu gần chạm sàn. Đám đông vỗ tay ầm ĩ và rồi Teddy lại thấy chiếc váy tím của cô xoẹt qua.
Đó là một chiếc váy tuyệt đẹp và đập vào mắt anh trước hết là cái màu của nó. Nhưng đêm đó có rất nhiều váy đẹp, nhiều không đếm xuể, nên thu hút sự chú ý của anh không phải là chiếc váy mà chính là cái cách cô mặc nó. Lóng ngóng. Ngượng nghịu. Cô chạm vào chiếc váy của mình với một vẻ e dè. Chỉnh đi, chỉnh lại nó. Tay cứ vuốt mãi những cái đệm vai.
Đó là một chiếc váy đi mượn. Hoặc là đi thuê. Cô chưa từng vận một chiếc váy như thế. Nó khiến cô sợ hãi. Tới mức cô không dám chắc cánh đàn ông cũng như phụ nữ trong phòng nhìn cô vì ham muốn, ghen tị hay vì thương hại nữa.
Cô bắt gặp Teddy đang quan sát mình nên vội vàng rụt ngón tay cái đang sửa quai áo lót lại. Cô cụp mắt xuống, da cô bắt đầu ửng hồng từ phía dưới cổ trở lên, rồi cô ngước nhìn anh. Teddy không rời mắt khỏi cô, mỉm cười và thầm nghĩ, tôi cũng đang cảm thấy hết sức ngớ ngẩn trong bộ lễ phục này và những muốn cô có thể nhận được thông điệp đó qua cái sàn nhảy kia. Và có thể cô nhận được nó thật vì cô mỉm cười lại với anh, một nụ cười mang vẻ biết ơn hơn là tán tỉnh khiến anh bỏ mặc Frankie Gordon đang thao thao bất tuyệt về những cửa hàng thức ăn vật nuôi ở Iowa hay cái gì đó để tới chỗ cô. Trong lúc băng qua đám đông nhễ nhại mồ hôi vì khiêu vũ anh mới nhớ ra rằng anh không biết phải nói gì với cô. Anh sẽ nói gì với cô? Váy rất đẹp? Tôi có thể mời cô uống gì đó? Cô có một đôi mắt tuyệt đẹp?
Cô lên tiếng trước: “Lạc đường à?”
Đến lượt anh. Anh nhìn xuống cô. Cô nhỏ nhắn, không quá một mét sáu mươi cộng cả giày cao gót. Đẹp chết người. Không theo kiểu chuẩn mực như rất nhiều phụ nữ khác ở trong phòng với những cái mũi, miệng và mái tóc hoàn hảo. Có cái gì đó nổi loạn trên khuôn mặt cô, hai mắt cách nhau hơi xa, đôi môi quá dày có vẻ bề bộn trên khuôn mặt nhỏ, và một cái cằm không kiên định.
“Cũng hơi,” anh nói.
“Thế anh đang định tìm cái gì?”
“Cô.” Anh buột miệng nói trước khi kịp suy nghĩ mà ngăn lại.
Mắt cô mở to và anh nhìn thấy một vết nhỏ, một đốm nâu bên đồng tử trái. Anh cảm thấy một cơn rùng mình chạy suốt người khi nghĩ rằng anh đã phá hỏng cơ hội của mình khi xuất hiện trong dáng vẻ một anh chàng Romeo miệng lưỡi ngọt ngào và quá tự tin vào bản thân.
Cô.
Làm thế quái nào mà anh lại nghĩ ra cái từ đó cơ chứ? Làm thế quái nào mà anh…?
“Ừm,” cô nói…
Anh toan bỏ chạy. Anh không thể chịu được phải nhìn cô thêm một giây nữa.
“… ít nhất thì anh đã không phải đi quá xa.”
Anh cảm thấy một nụ cười ngớ ngẩn đang nở trên mặt anh, thấy hình ảnh mình phản chiếu trong ánh mắt cô. Một tên ngốc. Một tên đần độn. Sung sướng tới nghẹt thở.
“Không, thưa cô, tôi đoán không phải vậy.”
“Chúa ơi,” cô nói, hơi ngả người ra sau để nhìn anh, ly rượu martini tì vào ngực.
“Gì cơ?”
“Anh cũng cảm thấy lạc lõng ở nơi này giống như tôi, đúng không anh lính?”
Đứng dựa vào cửa xe taxi nơi cô ngồi ở băng sau với cô bạn gái Linda Cox lúc này đang nhoài người lên phía trên để nói địa chỉ cho lái xe, Teddy nói, “Dolores.”
“Edward.”
Anh bật cười.
“Gì vậy?”
Anh giơ một tay lên. “Không có gì.”
“Không ư. Là gì vậy?”
“Chưa có ai gọi anh là Edward ngoài mẹ anh.”
“Teddy, thế vậy.”
Anh thích nghe cô nói tên anh.
“Ừ.”
“Teddy,” cô thử lại lần nữa như thể cho quen miệng.
“Này, thế họ của em là gì?” anh nói.
“Chanal.”
Teddy nhướng một bên mày vẻ ngạc nhiên.
“Em biết. Nó không hợp với em tí nào. Nghe quá phô trương.”
“Anh có thể gọi cho em không?”
“Anh có giỏi nhớ các con số không?”
Teddy mỉm cười. “Thật ra…”
“Winter Hill sáu-bốn-ba-bốn-sáu,” cô nói.
Anh vẫn đứng trên hè phố khi chiếc taxi đi khỏi, hình ảnh gương mặt cô kề sát mặt anh – qua cửa kính ô tô, và cả lúc trên sàn nhảy – lóe lên trong đầu anh như điện giật, suýt làm anh quên cả tên và số điện thoại của cô.
Anh nghĩ: vậy đó là cái cảm giác khi yêu. Thật vô lý, anh chẳng biết gì về cô cả. Nhưng đồng thời anh cũng có cảm giác là anh vừa gặp người phụ nữ mà vì lý do nào đó anh đã biết từ lâu, trước cả khi anh được sinh ra. Một điều anh chưa bao giờ dám mơ tới.
Dolores. Cô hẳn cũng đang nghĩ tới anh trên băng ghế sau, cảm nhận được anh như anh đang cảm nhận cô.
Dolores.
Tất cả những gì anh từng khao khát giờ đã có một cái tên.
TEDDY XOAY NGƯỜI và thò tay xuống đất quờ quạng tìm quyển sổ ghi chép của mình cùng một bao diêm. Anh chụm tay lại và châm một que diêm rời giơ lên trang giấy mà anh ghi chép trong cơn bão. Anh đốt hết bốn que diêm trước khi tìm ra những chữ cái tương thích với các con số.
18-1-4-9-5-4-19-1-12-4-23-14-5
R-A-D-E-D-S-A-L-D-W-N-E
Một khi đã tìm ra các chữ cái tương thích thì việc giả mã không tốn mấy thời gian. Hai que diêm nữa, và rồi Teddy nhìn chòng chọc vào cái tên hiện ra trước mắt anh khi ngọn lửa bắt đầu liếm gần hết que diêm về phía những ngón tay của anh.
Andrew Laeddis.
Khi que diêm cháy gần tới ngón tay, anh nhìn về phía Chuck, lúc này đang ngủ, chiếm tận hai cái giường, anh hy vọng sự nghiệp của Chuck sẽ không bị ảnh hưởng. Hẳn là không. Vì Teddy sẽ gánh mọi trách nhiệm. Chuck sẽ không có vấn đề gì. Anh ấy có một vầng hào quang xung quanh mình, cho dù có chuyện gì xảy ra thì Chuck cũng sẽ thoát ra được mà không hề hấn gì.
Anh nhìn lại trang giấy, liếc xuống cái tên lần cuối cùng trước khi que diêm tắt phụt.
Hôm nay tao sẽ đi tìm mày, Andrew. Nếu tao không nợ Dolores đời mình thì ít nhất tao cũng nợ cô ấy điều đó.
Sẽ tìm thấy mày.
Sẽ giết mày chết tươi.
Chú thích:
1. Forever and ever: mãi mãi và mãi mãi.