NGÀY THỨ BA (IV)
Tác giả: Dennis Lehane
“CHÚNG TA ĐANG Ở ĐÂU VẬY?” Chuck hỏi.
“Đang bị lạc.”
Họ ra khỏi khu rừng và thay vì nhìn thấy hàng rào phía trước ngọn hải đăng thì họ phát hiện ra rằng họ đã bị đi chệch khá xa về phía Bắc. Sau cơn bão, khu rừng đã biến thành một con kênh chằng chịt những thân cây đổ ngổn ngang khiến họ buộc phải đi chệch khỏi đường chính. Teddy biết trước là họ sẽ đi vòng một chút nhưng với tính toán mới nhất của anh thì họ đã quanh co khá xa, gần bằng đoạn đường tới khu nghĩa địa.
Nhưng anh vẫn có thể nhìn thấy ngọn hải đăng khá rõ. Một phần ba phía trên của ngọn hải đăng ló ra sau một con dốc dài, giữa những vạt cây và thảm thực vật màu xanh lẫn với màu nâu. Ngay phía sau vạt cây cỏ đó là một đầm lầy dài do thủy triều tạo nên, sau đó nữa là những mỏm đá đen lởm chởm, sắc nhọn tạo thành hàng rào tự nhiên bao bọc con dốc. Và Teddy biết rằng họ chỉ còn một cách duy nhất là quay lại khu rừng, hy vọng tìm ra cái chỗ họ đã rẽ nhầm thay vì phải đi lại từ đầu.
Anh cũng chỉ nói với Chuck có thế.
Chuck dùng một cái gậy đập đập vào ống quần để đuổi côn trùng. “Hoặc là chúng ta có thể đi vòng xung quanh và tới đó từ hướng Đông. Có nhớ McPherson đêm qua không? Người lái xe của ông ta sử dụng cái gì đó giống như một đường tắt. Khu nghĩa địa hẳn ở phía bên kia ngọn đồi. Chúng ta thử đi một vòng chứ?”
“Có nhanh hơn cái đường mà chúng ta vừa đi không?”
“Ối, sếp không thích à?” Chuck lấy tay xoa gáy. “Tôi thì tôi rất yêu quý bọn muỗi này. Sự thực thì chỉ còn một vài chỗ trên mặt tôi là chúng chưa kịp đốt mà thôi.”
Đó là cuộc đối thoạt duy nhất giữa hai người họ trong suốt hơn một tiếng đồng hồ qua, và Teddy có thể cảm thấy cả hai đang cố gắng vượt qua cái bóng của sự căng thẳng đang lớn dần lên giữa họ.
Nhưng phút giây ấy trôi qua rất nhanh khi Teddy vẫn giữ im lặng và Chuck bắt đầu bước dọc theo rìa cánh đồng, di chuyển về phía Tây Bắc, hòn đảo luôn tìm cách đẩy họ về phía bờ biển.
Teddy trông chứng phía sau lưng Chuck khi cả hai tiếp tục đi và leo trèo thêm một đoạn nữa. Đồng sự của anh, anh nói với Noyce. Anh tin tưởng cậu ta, anh đã nói vậy. Nhưng tại sao? Bởi vì anh bắt buộc phải làm thế. Bởi vì không ai muốn vượt qua tất cả chuyện này một mình.
Nếu như anh biến mất, nếu như anh không bao giờ trở về từ hòn đảo này? Thượng nghị sĩ Hurly là một người bạn tốt. Không còn nghi ngờ gì về điều đó. Cuộc điều tra của anh sẽ được ghi nhận. Sẽ được nhắc đến. Nhưng trong cái bối cảnh chính trị hiện nay thì liệu tiếng nói của một đại biểu đảng Dân chủ ít tiếng tăm ở một tiểu bang của New England có đủ gây áp lực?
Các đặc vụ sẽ có trách nhiệm đối với người của họ. Chắc chắn họ sẽ cử người tới. Nhưng vấn đề là thời gian, liệu họ có thể đến được đây trước khi Ashecliffe và các bác sĩ của nó kịp thay đổi Teddy vĩnh viễn, biến anh thành một người như Noyce? Hay tệ hơn, như cái gã chơi trò đuổi bắt?
Anh hy vọng mọi việc sẽ ổn thỏa vì càng nhìn Chuck anh càng chắc rằng từ giờ trở đi anh sẽ phải đối diện với chuyện này một mình. Hoàn toàn chỉ có một mình.
“LẠI ĐÁ NỮA, sếp ơi,” Chuck nói. “Mẹ kiếp.”
Họ đứng trên một mũi đất hẹp nhô ra biển, bên phải là vực đá thẳng đứng, bên trái là một đồng có lúp xúp cây bụi, gió bắt đầu nổi lên khi nền trời chuyển màu đỏ ối và không khí mặn chát vị biển.
Những đống đá được xếp riêng rẽ trên đồng cỏ. Chín đống, chia thành ba hàng, được bảo vệ từ mọi hướng bởi những con dốc ôm lấy cánh đồng như một lòng chảo.
Teddy nói, “Thì sao, bỏ qua à?”
Chuck giơ một tay lên trời. “Mặt trời sẽ lặn trong vài tiếng nữa. Chúng ta vẫn chưa tới được ngọn hải đăng, xin nhắc thế trong trường hợp sếp không để ý. Chúng ta cũng chưa tới được khu nghĩa địa. Chúng ta thậm chí còn không chắc liệu có tìm ra được đường tới đó. Mà sếp lại còn muốn trèo xuống tuốt dưới đó chỉ để xem đá.”
“Này, nếu như đó là mật mã…”
“Thì có nghĩa lý gì? Chúng ta đã có bằng chứng về việc Laeddis đang ở đây. Sếp đã nhìn thấy Noyce. Tất cả những gì chúng ta phải làm là trở về nhà với những thông tin đó, bằng chứng đó. Thế là hoàn tất nhiệm vụ.”
Cậu ta nói đúng. Teddy biết thế.
Đúng, tuy nhiên với điều kiện hai người vẫn cùng một chiến tuyến. Còn nếu không phải vậy và đây là một mật mã mà Chuck không muốn anh nhìn thấy thì…
“Chỉ mất mười phút đi xuống và mười phút leo lên,” Teddy nói.
Chuck ngồi phịc xuống một tảng đá sẫm màu và rút ra một điếu thuốc. “Được thôi, nhưng lần này tôi sẽ ngồi chờ ở đây.”
“Tùy cậu.”
Chuck khum tay để châm thuốc rồi nói, “Thỏa thuận xong.”
Teddy nhìn khói thuốc bay qua những ngón tay cong cong của Chuck và trôi dạt ra phía biển.
“Gặp lại sau nhé,” Teddy nói.
“Cố đừng có ngã gẫy cổ đấy!” Chuck nói, vẫn ngồi xoay lưng về phía anh.
Teddy đi xuống mất bảy phút, nhanh hơn suy đoán của anh ba phút vì sườn dốc trơn và đầy cát nên anh trượt xuống nhiều lần. Anh ước gì sáng nay đã uống nhiều cà phê hơn bởi bụng anh bắt đầu ọc ạch vì trống rỗng, và việc hạ đường huyết cộng với thiếu ngủ khiến đầu anh lùng nhùng với ngh đốm đen tản mát, bồng bềnh trước mắt.
Anh đếm số viên đá ở mỗi đống và ghi chúng vào sổ tay với chú giải là chữ cái bên cạnh.
13(M)-21(U)-18(R)-1(A)-5(E)-8(H)-15(O)-9(I)
Anh gập quyển sổ lại, bỏ vào túi trước rồi bắt đầu trèo lên con dốc đầy cát, bám chặt vào mặt đất khi bò qua những chỗ trơn nhất, rứt theo từng búi cỏ biển những lúc bị trượt chân tụt xuống dưới. Anh mất gần hai mươi lăm phút để trèo lên, bầu trời lúc này đã chuyển sang màu đồng hun. Chuck nói đúng, dù cậu ta đứng về phía nào thì hoàng hôn cũng đã xuống rất nhanh và đây đúng là một sự lãng phí thời gian cho dù mật mã đó có nói lên điều gì đi nữa.
Chắc giờ thì họ không thể nào tới được ngọn hải đăng nữa nhưng nếu họ đến được đó thì sao chứ? Nếu Chuck làm việc cho bọn họ thì việc Teddy đi với cậu ta tới ngọn hải đăng đó có khác nào mỡ đưa miệng mèo.
Teddy nhìn thấy đỉnh đồi và chỗ nhô ra của mũi đất, trên cùng là vòm trời màu đồng hun và nghĩ, có lẽ mọi chuyện nên như thế, Dolores. Có lẽ đó là tất cả những gì anh có thể làm được lúc này. Laeddis sẽ tiếp tục sống. Ashceliffe sẽ tiếp tục tồn tại. Nhưng chúng ta có thể hài lòng với chính mình khi biết rằng chúng ta đã khởi đầu một tiến trình, một tiến trình mà cuối cùng có thể dẫn đến sự kết thúc của tất cả những thứ này.
Anh tìm thấy một vết nứt trên đỉnh đồi, một khe hở tiếp giáp với mũi đất, nơi có đủ độ xói mòn để Teddy có thể tì vào đó, hai tay bám lấy phiến đá phía trên, và đu người lên cho tới khi ngực anh sắp xuống mũi đất, rồi xoay người đưa nốt hai chân lên.
Anh nằm nghiêng nhìn ra biển. Biển mới xanh làm sao trong cái thời điểm nhợt nhạt này của một ngày, mới sống động làm sao khi hoàng hôn đang chết dần xung quanh nó. Anh nằm đó, cảm thấy gió mơn man trên mặt đất và biển cả trải dài vô tận dưới bầu trời đang tối dần và thấy mình mới nhỏ bé làm sao, mới con người làm sao. Nhưng đó không phải là cảm giấc yếu hèn. Mà là một cảm giác tự hào rất đỗi lạ thường. Được là một phần của khung cảnh này. Một đốm nhỏ thôi, đúng vậy. Nhưng vẫn là một phần trong vạn vật. Và đang thở.
Anh tì một bên má lên phiến đá phẳng, màu sẫm, nhìn sang ngang, và chợt nhận ra rằng Chuck không còn ở đó với anh.
XÁC CỦA CHUCK nằm dưới chân vách đá, sóng đánh dập dềnh lên người anh ta.
Trước tiên, Teddy trườn hai chân ra mép vực, dùng gót chân dò tìm những vỉa đá màu đen ở bên dưới đủ chắc chắn để đỡ được trọng lượng của toàn bộ cơ thể anh. Anh thở hắt ra mà không hề biết là anh đã nín thở quá lâu, rồi bắt đầu tụt xuống, khuỷu tay trượt dần khỏi miệng vực cho tới khi chân anh tì được vào những rìa đá phía dưới, cảm thấy chúng khẽ trồi sụt khiến mắt cá chân phải của anh khẽ trẹo sưng phía trái. Anh quăng người vào vách đá, dựa lưng lên đó và những vỉa đá dưới chân anh không còn lung lay nữa.
Anh xoay người lại, cúi thấp xuống cho tới khi trông anh giống như một con cua đang bám vào đá và bắt đầu trèo xuống. Việc này không thể vội vàng. Có những hòn đá ăn sâu vào trong vách như những chiếc bu lông trên thân tàu chiến. Lại có những hòn đá chẳng bám vào đâu ngoài việc tì lên những hòn đá ở phía dưới mà không tài nào phân biệt nổi hòn nào với hòn nào nếu không thử giẩm chân lên đó.
Trèo xuống được khoảng mười phút thì anh nhìn thấy một điếu thuốc hiệu Lucky của Chuck, mới hút được một nửa, đầu thuốc cháy đen và chổng lên như đầu bút chì của thợ mộc.
Cái gì đã gây ra cú ngã? Gió bắt đầu mạnh dần lên nhưng vẫn chưa đủ để thổi bay một người ra khỏi miệng vực bằng phẳng.
Teddy nghĩ tới Chuck, đứng đó, một mình, hút thuốc trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời và anh nghĩ tới tất cả những người anh quan tâm đều đã chết trong khi anh vẫn phải tiếp tục sống. Đầu tiên là Dolores, dĩ nhiên rồi. Và cha của anh, đâu đó dưới thềm của chính đại dương này. Mẹ anh, khi anh mới mười sáu tuổi. Tootie Viceli, bị đạn bắn xuyên qua răng ở Sicily, mỉm cười một cách hiếu kỳ như thể cậu ta vừa nuốt phải một cái gi có vị lạ trong khi máu đang trào ra từ khóe miệng. Martin Phelan, Jason Hill và cậu thanh niên cao lớn người Ba Lan tới từ Pittsburgh – tên cậu ta là gì nhỉ? – Yardak. Đúng vậy. Yardak Gilibiowski. Cậu thanh niên tóc vàng luôn pha trò cho họ cười những ngày ở Bỉ. Bị bắn vào đùi, cứ tưởng không sao cho tới khi không thể cầm được máu. Và Frankie Gordon, dĩ nhiên rồi, người anh đã bỏ mặc ở Cocoanut Grove đêm đó. Hai năm sau, Teddy dụi tắt điếu thuốc trên chiếc mũ sắt của Frankie và gọi cậu ta là tên khốn nhặt cứt chim ở Iowan thì Frankie trả lời, “Anh chửi thề khá hơn bất cứ người nào mà tôi…” đoạn giẫm chân lên trái mình. Teddy vẫn còn một mảnh đạn găm ở bắp chân trái.
Và bây giờ là Chuck.
Liệu có một ngày nào đó Teddy biết được rằng lẽ ra anh phải tin tưởng Chuck? Lẽ ra anh phải nói thẳng cho Chuck biết là anh nghi ngờ tính trung thực của cậu ấy. Chuck, người đã làm anh cười và khiến những chuyện đau đầu trong suốt ba ngày qua dễ chịu hơn rất nhiều. Chuck, người chỉ mới sáng nay thôi nói rằng họ sẽ được thưởng thức món trừng Benedict cho bữa sáng và bánh sandwich thịt bò muối Reuben vào bữa trưa.
Teddy ngẩng đầu nhìn lên miệng vực. Anh ước tính mình đã xuống được nửa đường, bầu trời lúc này xanh thẫm lại như màu của đại dương và tối dần sau mỗi giây đồng hồ.
Cái gì có thể hất Chuck khỏi miệng vực?
Không phải là tự nhiên.
Trừ phi cậu ta đánh rơi cái gì đó và xuống tìm. Trừ phi, giống như Teddy lúc này đây, cậu ta đã cố leo xuống vách đá nhưng chẳng may túm tay và giẫm chân phải những hòn đá bị lở.
Teddy dừng lại để lấy hơi, mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt anh. Anh thận trọng buông một tay ra, chùi vào quần cho hết mồ hôi rồi tóm lấy một vỉa đá khác trước khi lặp lại động tác tương tự với bàn tay kia. Khi bàn tay còn lại đã khô ráo, anh túm lấy một vỉa đá nhọn chìa ra phía trước và nhìn thấy một mẩu giấy ở bên cạnh.
Mẩu giấy mắc giữa một tảng đá và một đám rễ cây leo màu nâu, khẽ bay trong không khí. Teddy dùng hai ngón tay kẹp vào, lôi mảnh giấy đó ra và không cần mở cũng biết đó là mảnh giấy gì.
Giấy nhập viện của Laeddis.
Anh đút tờ giấy vào túi sau, nhớ lại cái cách nó nằm chểnh mảng trong túi sau của Chuck và anh biết tại sao Chuck lại leo xuống dưới này.
Là vì mảnh giấy này.
Là vì Teddy.
NĂM MÉT DƯỚI CÙNG của vách đá toàn là những tảng đá cuội, trông như những quả trứng màu đen khổng lồ ken dày tảo bẹ. Leo xuống tới đây, Teddy quay người lại, hay tay tì ra sau, dồn trọng lượng vào hai gót chân, lần bước xuống và nhìn thấy lũ chuột trú trong những cái hốc của chúng.
Khi anh bước tới tảng đá cuối cùng thì anh đã ra tới bờ biển, anh bước lại gần xác của Chuck và nhận ra đó không phải là thây người. Chỉ là một khối đá lớn, bị tẩy trắng bởi ánh nắng mặt trời, tảo biển cuốn chặt lấy nó như những bện thừng màu đen.
Ơn Chúa là Chuck vẫn chưa chết. Cái khối đá dài, hẹp phủ đầy tảo biển này không phải là cậu ta.
Teddy khum tay quanh miệng và gọi to tên Chuck. Anh gọi đi gọi lại nhiều lần và nghe thấy tiếng gọi của mình vang ra ngoài biển, đập vào những vách đá, cuốn theo chiều gió, và chờ đợi để nhìn thấy cái đầu của Chuck thò ra trên miệng vực.
Có lẽ cậu ta đang chuẩn bị leo xuống để tìm Teddy.
Có thể lúc này cậu ta đang ở trên đó, chuẩn bị sẵn sàng.
Teddy tiếp tục gọi tên Chuck cho tới khi cổ họng anh bỏng rát. Rồi anh dừng lại và đợi nghe Chuck trả lời. Trời đã tối tới mức không còn có thể nhìn thấy gì trên miệng vực nữa. Teddy nghe thấy tiếng gió. Tiếng lũ chuột trong các hốc đá. Tiếng sóng vỗ. Vài phút sau, anh lại nghe thấy tiếng còi hú từ ngọn hải đăng Boston.
Khi mắt anh bắt đầu quen với bóng tối, anh nhìn thấy có những con mắt đang quan sát mình. Hàng chục con. Lũ chuột ngả ngốn trên những tảng đá cuội nhìn anh không sợ sệt. Ban đêm, bãi biển là của chúng, chứ không phải của anh.
Tuy nhiên Teddy chỉ sợ nước chứ không sợ chuột. Những con vật bé tí, bẩn thỉu nhớp nhúa. Anh có thể bắn chúng. Xem có bao nhiêu con trụ lại được sau khi bạn chúng bị nổ tung xác. Ngoại trừ việc anh chẳng có khẩu súng nào và quân số của chúng đã tăng lên gấp đôi trong khi anh quan sát chúng. Những cái đuôi dài ve vẩy, quét từ đằng trước ra đằng sau phía trên tảng đá. Teddy cảm thấy nước đang đập vào gọt chân anh, những đôi mắt kia đang dán vào người anh,sợ hay không sợ thì anh cũng bắt đầu cảm thấy lạnh sống lưng và ngứa ngáy mắt cá chân.
Anh bắt đầu bước đi chậm rãi dọc theo mép nước và nhìn thấy hàng trăm con chuột, đứng trên những mỏm đá dưới ánh trăng như những con hải cẩu dưới ánh mặt trời. Anh quan sát chúng tơi tõm từ những tảng đá xuống cát đúng chỗ anh đứng chỉ vài phút trước, rồi quay ra nhìn xem có cái gì ở dải bờ biển hẹp anh đang men theo.
Không nhiều lắm. Cách đó khoảng mười mét lại có một vách đá khác nhô ra khỏi mặt nước, và bên phải nó, về phía biển, Teddy nhìn thấy một hòn đảo mà anh chưa nhìn thấy bao giờ. Nó nằm dưới ánh trăng như một miếng xà phòng màu nâu và trông nó thật nhỏ nhoi giữa biển cả. Anh đã leo lên những vách đá này với McPherson trong ngày đầu tiên tới đây. Lúc ấy rõ ràng là không có hòn đảo nào ở đó. Anh hoàn toàn chắc chắn về điều ấy.
Vậy nó mọc ra từ chỗ quái nào vậy?
Anh có thể nghe thấy chúng, một vài con đang đánh lộn nhưng da số thì mài móng vuốt trên những tảng đá và kêu rin rít lên với nhau. Teddy cảm thấy cơn ngứa bắt đầu lan từ mắt cá chân lên đầu gối, rồi lên tới đùi anh.
Anh nhìn lại phía bãi biển lúc trước và thấy chúng đông kịt, không còn thấy cát đâu nữa. Anh nhìn lên vách đá, nhẹ nhõm hẳn khi thấy mặt trăng đêm nay khá tròn và những vì sao lấp lánh bạt ngàn. Và rồi anh nhìn thấy một vách đá có màu rất kỳ lạ, cũng kỳ lạ như việc hòn đảo đã không hề tồn tại ở đây hai ngày trước. Đó là màu da cam. Nửa trên của vách đá lớn nhất. Màu da cam. Trên một nền đá màu đen. Vào lúc hoàng hôn.
Teddy nhìn chằm chằm vào cái màu da cam ấy và thấy nó lóe lên rồi dịu đi, bừng lên rồi dịu đi, cứ thế cứ thế. Thực sự nhịp nhàng. Giống như một ngọn lửa.
Anh chợt nhận ra đó là một cái hang. Hay ít nhất là một hốc đá lớn. Và cón người ở bên trong. Chuck. Hẳn thế. Có thể cậu ta đi tìm tờ giấy bay xuống vực. Có thể đang trèo xuống giữa đường thì bị thương nên cậu ta bỏ cuộc, rẽ ngang, lần sang các vách đá bên cạnh.
Teddy bỏ chiếc mũ kiểm lâm trên đầu xuống và tiến lại tảng đá gần nhất. Có vài con chuột giương mắt nhìn anh, Teddy lấy mũ đập chúng khiến chúng giật mình, luống cuống rồi lao đi chỗ khác. Teddy bước vội lên đó, đá vào mấy con trên tảng đá bên cạnh cho lũ chuột chạy dạt sang hai bên. Cứ thế anh vừa chạy vừa đuổi chuột, nhảy từ tảng đá này sang tảng đá khác, càng về sau lũ chuột càng ít dần cho tới khi không còn con chuột nào chờ anh ở mấy tảng đá phía cuối thì anh bắt đầu trèo lên, tay vẫn còn rớm máu từ lúc leo xuống.
Trèo lên thì không khó lắm. Vách đá này cao hơn và lớn hơn rất nhiều vách đá mà anh leo xuống, tuy mấp mô và chìa thành nhiều tấng bậc.
Anh trèo gần một tiếng rưỡi dưới ánh trăng, những vì sao dõi theo anh từng bước, cả lũ chuột cũng vậy. Nhưng khi trèo anh không còn Dolores, anh không thể hình dung nổi cô, không thể nhìn thấy khuôn mặt, bàn tay hay đôi môi quá dày của cô. Anh cảm thấy cô đã rời bỏ anh theo cái cách mà anh chưa hề biết đến kể từ khi cô qua đời. Anh biết rằng tất cả chỉ là do anh quá mệt mỏi vì ráng sức, vì thiếu ngủ và đói nhưng cô đã biến mất. Biến mất trong lúc anh trèo dưới ánh trăng.
Nhưng anh có thể nghe thấy cô. Ngay cả khi anh không thể hình dung ra cô, anh vẫn có thể nghe thấy cô trong tâm trí, và cô đang nói. Tiến tới đi, Teddy. Tiến tới đi. Anh có thể bắt đầu lại từ đầu.
Tất cả chỉ có thế thôi ư? Sau hai năm sống như người đi trên mây, sau những lần ngồi trong bóng tối nhìn chằm chằm vào khẩu súng đặt ở phía cuối bàn trong phòng khách, nghe Tommy Dorsey và Duke Eliington, sau khi đã khẳng định rằng anh không thể nào dấn thêm bước nào vào cái cuộc sống khốn nạn này, sau nỗi nhớ nhung da diết tới mức có lần anh nghiến chặt đến gãy răng cửa để chống lại nỗi khao khát cô – sau tất cả những chuyện đó, liệu đây có thật sự là lúc anh nên quên cô không?
Anh đã không mơ thấy em, Dolores. Anh biết thế. Nhưng lúc này đây anh có cảm giác như anh đã mơ.
Và nên như thế, Teddy. Nên như thế. Hãy để em đi.
Thật sao?
Thật vậy, em yêu.
Anh sẽ cố, được không?
Được thôi.
Teddy có thể nhìn thấy cái ánh sáng màu da cam lóe lên phía trên đầu anh. Anh có thể cảm thấy độ nóng của nó, không rõ rệt nhưng chẳng thể nhầm lẫn vào đâu được. Anh đặt tay lên gờ đá phía trên đầu và thấy ánh sáng màu da cam phản chiếu lên cổ tay anh. Anh đu người lên để chui vào miệng hang và thấy ánh sáng màu da cam phản chiếu lên những vách đá dựng đứng. Anh đứng dậy. Đầu anh gần chạm nóc hang. Nhìn thấy một lối đi bên phải anh bèn lần theo và phát hiện ra cái ánh sáng màu da cam đó phát ra từ một đống củi đang cháy trong một cái hố nhỏ trên sàn và một người phụ nữ đứng cạnh đó, tay giấu sau lưng.
“Anh là ai?” cô ta hỏi anh.
“Teddy Daniels.”
Người phụ nữ này có mái tóc dài, trên người vận một chiếc áo bệnh nhân màu hồng nhạt, quần dải rút, chân đi dép lê.
“Đó là tên của anh,” cô ta nói. “nhưng nghề nghiệp của anh là gì?”
“Tôi là cảnh sát.”
Cô ta khẽ nghiêng đầu, tóc cô ta bắt đầu ngả bạc. “Anh là đặc vụ.”
Teddy gật đầu. “Cô có thể bỏ tay ở sau lưng ra được không?”
“Tại sao?”
“Vì tôi muốn biết cô ta đang giữ cái gì.”
“Tại sao?”
“Vì tôi muốn biết liệu nó có thể làm tôi bị thương.”
Cô ta khẽ mỉm cười. “Cũng có lý.”
“Tôi rất mừng là cô nghĩ thế.”
Cô ta rút tay từ sau lưng ra, trong tay cô ta là một con dao mổ dài, mảnh. “Nhưng tôi vẫn giữ nó trong tay nếu anh không phiền?”
Teddy giơ hai tay lên trời. “Được thôi.
“Anh có biết tôi là ai không?”
“Một bệnh nhân của Ashecliffe.”
Cô ta lại nghiêng đầu và vân vê chiếc áo ngủ. “Chúa ơi, tôi mà có vẻ thế sao?”
“Thôi được, đồng ý, cô có lý.”
“Có phải tất cả đặc vụ Mỹ đều rất tinh ranh?”
“Tôi đã không ăn gì khá lâu rồi nên có hơi chậm chạp hơn thường lệ.”
“Ngủ được nhiều không?”
“Gì cơ?”
“Kể từ khi ra đảo anh có ngủ được nhiều không?”
“Không tốt lắm, nếu như điều đó là quan trọng.”
“Ôi, quan trọng chứ.” Cô ta kéo ống quần lên đến đầu gối rồi ngồi xuống sàn và ra hiệu cho anh làm theo.
Teddy ngồi xuống và nhìn cô ta qua ánh lửa.
“Cô là Rachel Solando,” anh nói. “Rachel Solando thật.”
Cô ta nhún vai.
“Cô giết các con mình à?” anh nói.
Cô ta dùng chiếc dao mổ để lật một khúc gỗ. “Tôi chưa bao giờ có con.”
“Chưa hả?”
“Chưa. Tôi còn chưa bao giờ kết hôn. Tôi là, anh hẳn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng tôi còn hơn là một bệnh nhân ở đây.”
“Hơn một bệnh nhân là thế nào?”
Cô ta lại lật một khúc gỗ khác khiến nó kêu răng rắc, những đốm lửa bay lên trên ngọn lửa và tàn ngay trước khi kịp rơi xuống đất.
“Tôi là nhân viên,” cô ta nói. “Từ khi chiến tranh vừa kết thúc.”
“Cô là y tá à?”
Cô ta nhìn anh qua ngọn lửa. “Tôi là một bác sĩ, đặc vụ. Nữ bác sĩ đầu tiên ở bệnh viện Drummond tại Delaware. Bác sĩ đầu tiên ở Ashecliffe. Thưa quý ngài, ngài đang nhìn vào một người tiên phong thật sự đấy.”
Hay là một bệnh nhân mắc chứng ảo tường, Teddy nghĩ.
Anh nhìn lên và bắt gặp ánh mắt cô ta đang nhìn anh một cách tử tế, nghiêm túc và hiểu biết. “Anh nghĩ là tôi bị điên?”
“Không.”
“Anh còn có thể nghĩ gì khác về một phụ nữ chui lủi trong một cái hang?”
“Tôi cho rằng hẳn phải có một lý do.”
Cô ta mỉm cười u ám và lắc đầu. “Tôi không điên. Không hề. Dĩ nhiên một người điên thì còn biết nói gì khác nữa? Thiên tài của Kafka là ở chỗ đó. Nếu anh không điên nhưng người ta bảo với cả thế giới là anh điên thì mọi nỗ lực phản đối nhằm chứng minh ngược lại sẽ càng giúp củng cố quan điểm của họ. Anh hiểu tôi nói gì chứ?”
“Ở một mức nào đó,” Teddy nói.
“Hay coi nó như một phương pháp suy luận. Một phương pháp suy luận bắt đầu với một nguyên tắc thế này: ‘Những người điên thì không bao giờ thừa nhận là mình điên.’ Anh hiểu ý tôi chứ?”
“Hẳn rồi.”
“Được rồi, chuyển sang về thứ hai: ‘Bob không nhận là mình bị điên.’ Vế thứ ba, gọi là về ‘vậy thì’. ‘Vậy thì Bob bị điên.’ “
Cô ta đặt con dao xuống đất, cạnh đầu gối và dủng một cái que để khều lửa. “Nếu người ta cho rằng anh bị điên thì tất cả những gì anh làm nhằm chứng tỏ anh không bị điên trên thực tế lại rơi vào cái khung hành động của một người điên. Những hành động phản kháng gay gắt của anh sẽ bị quy thành hành vi phủ nhận. Những nỗi sợ hãi rất bình thường của anh sẽ bị cho là biểu hiện của sự hoang tưởng. Bản năng sống sót của anh sẽ bị gọi là cơ chế phòng vệ. Tóm lại là một tình thế vô vọng. Một bản án tử hình thật sự. Một khi đã vào đây, anh không còn đường thoát. Chưa ai được ra khỏi Khu C. Chưa một ai. À, đúng ra là có vài người, đúng vậy, tôi phải nói với anh là thực tế có vài người đã xuất viện. Nhưng họ đã bị phẫu thuật. Ở não. Xoẹt – xuyên qua mắt. Đó là một phương pháp y học man rợ, vô lương tâm, tôi bảo họ thế. Tôi tranh đấu với họ. Tôi viết thư. Họ có thể đuổi hay cho tôi thôi việc, để tôi nhận một chân giảng dạy hay khám bệnh ở bang khác nhưng thế vẫn chưa ổn. Họ không thể để tôi đi, chỉ là họ không thể làm thế. Không, không, không.”
Cô ta nói, càng lúc càng trở nên bức xúc, vừa nói vừa vụt ngang dọc vào ngọn lửa, và có vẻ nói cho đầu gối cô ta nghe hơn là nói với Teddy.
“Cô là bác sĩ thật à?” Teddy hỏi.
“Ừ, đúng thế. Tôi đã từng là bác sĩ.” Cô ta ngẩng đầu lên, rời mắt khỏi hai đầu gối và chiếc que cởi lửa. “Thật ra thì tôi vẫn đang là bác sĩ. Nhưng, đúng thế, tôi không còn là nhân viên ở đây. Tôi bắt đầu hỏi han về việc họ thường xuyên đặt mua khối lượng lớn chất Sodium Amytal và những chất gây ảo giác có nguồn gốc á phiện. Tôi bắt đầu thắc mắc một cách công khai, thật không may là thế, về những ca phẫu thuật mà nói nhẹ đi là có vẻ mang tính thí nghiệm cao.”
“Họ âm mưu gì vậy?” Teddy hỏi.
Cô ta mỉm cười nói, “Anh không biết gì sao?”
“Tôi chỉ biết là họ phớt lờ Luật Nuremberg.”
“Phớt lờ hả? Họ thủ tiêu nó thì có.”
“Tôi biết là họ có áp dụng các phương pháp chữa bệnh cấp tiến.”
“Cấp tiến thì đúng. Nhưng chữa bệnh thì không. Chẳng có ai chữa bệnh ở đây cả, đặc vụ. Anh có biết ngân quỹ của bệnh viện này đến từ nguồn nào không?”
Teddy gật đầu. “HUAC.”
“Đấy là còn chưa kể đến các quỹ đen khác nữa,” cô ta nói. “Tiền đổ về đây như nước. Giờ anh hãy thử nghĩ xem, sự đau đớn thâm nhập vào cơ thể chúng ta như thế nào?”
“Phụ thuộc vào cô bị đau ở đâu chứ!”
“Không đúng.” Cô ta lắc đầu quả quyết. “Chẳng có gì liên quan tới da thịt cả. Não bộ gửi các chất truyền dẫn thần kinh xuống hệ thần kinh. Não bộ điều khiển cảm giác đau đớn.” cô ta nói. “Nó điều khiển nỗi sợ. Giấc ngủ. Sự thấu cảm. Đói khát. Tất cả những gì chúng ta vẫn thường liên hệ tới trái tim, tâm hồn hay hệ thần kinh trên thực tế đều do não điều khiển. Tất tần tật.”
“Phải…”
“Chuyện gì sẽ xảy ta nếu anh có thể điều khiển nó?” Cô ta nói, mắt sáng rực trước ngọn lửa.
“Não bộ hả?”
Cô ta gật đầu. “Tái tạo ra một người để anh ta không cần ngủ, không cảm thấy đau. Hay yêu thương, cảm thông. Một người không thể nào thẩm vấn được vì trí nhớ của anh ta đã biết gột rửa sạch sẽ.” Cô ta đẩy lửa rồi ngước lên nhìn anh. “Ở đây, người ta tạo ra những bóng ma, đặc vụ. Những bóng ma sẽ đi ra bên ngoài và làm những việc ma quỷ.”
“Nhưng mất nhiều năm để đạt được. Đúng vậy. Đó là một quá trình kéo dài hàng thập kỷ, đặc vụ. Nhưng họ cũng xuất phát từ một điểm giống ý như bọn phát xít: Tẩy não. Những thí nghiệm tước đoạt. Giống như những thí nghiệm của bọn phát xít lên người Do Thái về khả năng chịu đựng nhiệt độ nóng, lạnh ở mức tối đa và dùng kết quả nghiên cứu đó để hỗ trợ lính của chúng ở Reich. Nhưng đặc vụ, anh không thấy sao? Nửa thế kỷ sau, những người hiểu biết sẽ nhìn lại và nói” – cô ta ấn ngón tay trỏ xuống đất – “đây chính là nơi khởi đầu mọi chuyện. Bọn quốc xã sử dụng người Do Thái và các tù nhân trong trại tập trung của chúng. Còn ở đây, tại Mỹ, chúng ta thí nghiệm bệnh nhân trên đảo Shutter.”
Teddy im lặng. Anh không nghĩ ra từ gì để nói.
Cô ta lại nhìn vào ngọn lửa. “Họ không thể để anh ra đi. Anh biết thế, đúng không?”
“Tôi là đặc vụ liên bang,” Teddy nói. “Làm sao họ có thể cản tôi được?”
Câu trả lời của anh khiến cô ta vỗ tay và nở một nụ cười khoái trá. “Tôi từng là một bác sĩ có uy tín trong một gia đình được kính trọng. Tôi từng nghĩ thế là đủ. Tôi phải nói với anh thế, nhưng không đúng vậy. Hãy để tôi hỏi anh, trong đời anh, anh có nỗi phiền muộn quá khứ nào không?”
“Ai là không có cơ chứ?”
“Đúng vậy. Nhưng chúng ta không bàn về mọi người nói chung, về những người khác. Chúng ta bàn về những trường hợp cụ thể. Về anh. Anh có bất cứ điểm yếu nào về mặt tâm lý mà họ có thể khai thác không? Trong quá khứ của anh có một sự kiện hay những sự kiện nào đó có thể bị coi là những nhân tố khiến anh mất trí? Họ sẽ vin vào đó để gán cho anh bệnh tâm thần và họ sẽ làm thế, bạn bè và đồng nghiệp của anh rồi sẽ chỉ nói. ‘Dĩ nhiên rồi. Cuối cùng thì anh ta cũng phát điên. Có ai mà lại không cơ chứ? Chiến tranh đã khiến anh ta ra nông nỗi đó. Và cả việc mẹ anh ta qua đời nữa – hay bất cứ cái gì tương tự.’ Đúng không?”
“Thế thì điều đó có thể dùng để nói về bất kỳ ai.” Teddy nói.
“Chính vậy, trọng tâm của vấn đề chính là chỗ đó. Anh không thấy sao? Họ có thể nói như vậy về bất kỳ ai, nhưng anh sẽ là mục tiêu tới đây của họ. Đầu anh sao rồi?”
“Đầu tôi hả?”
Cô ta cắn môi dưới và gật đầu nhiều lần. “Cái khối trên cổ anh, phải. Nó thế nào? Gần đây có hay năm mơ linh tinh không?”
“Có.”
“Có đau đầu không?”
“Tôi hay bị đau nửa đầu.”
“Ôi mẹ ơi, không phải thật thế chứ?”
“Tôi bị bệnh đó mà.”
“Từ lúc tới đây anh đã uống viên thuốc nào chưa, kể cả aspirin?”
“Rồi.”
“Có thể anh chỉ cảm thấy hơi mệt? Không được phong độ một trăm phần trăm? Ôi, chẳng có gì quan trọng, anh tự nói với bản thân mình thế, chỉ là hơi xuống sức một tí thôi mà. Có thể não anh không phản ứng nhanh như thường lệ. Nhưng anh lại nói, ôi dào, chỉ là do mình thiếu ngủ. Lạ giường, lạ nhà, lại gặp phải mưa bão. Anh tự nói với mình những điều như thế, đúng không?”
Teddy gật đầu.
“Và anh ăn ở căng tin. Tôi đoán thế. Uống cà phê họ pha cho anh. Nói xem, ít nhất anh cũng hút thuốc lá của mình đấy chứ?”
“Của người đồng sự,” Teddy thú nhận.
“Không hút điếu nào của bác sĩ hay hộ lý đưa cho chứ?”
Teddy có thể cảm thấy những điếu thuốc anh thắng khi chơi bài đem nào đang rúm lại trong túi áo sơ mi của anh. Anh nhớ lại điếu thuốc Cawley đưa cho anh hút ngày họ mới đến có vị ngọt hơn so với tất cả loại thuốc mà anh từng hút.
Cô ta có thể đọc thấy câu trả lời trên nét mặt anh.
“Thông thường sẽ mất từ ba đến bốn ngày để các loại thuốc gây mê thần kinh kích hoạt trong máu và phát huy tác dụng. Trong quãng thời gian đó anh gần như không nhận thấy các tác động của nó. Đôi khi, bệnh nhân bị co giật. Chứng co giật thường được coi là triệu chứng của bệnh đau nửa đầu, nhất là đối với những bệnh nhân có tiền sử về bệnh này. Thông thường, tác động dễ nhận biết nhất của loại thuốc này là bệnh nhân…”
“Đừng có gọi tôi là bệnh nhân nữa.”
“… nằm mơ với những chi tiết càng lúc càng sống động trong những khoảng thời gian dài, những giấc mơ này thường kết nối và chồng chất lên nhau cho tới khi chúng giống như một cuốn tiểu thuyết viết bởi Picasso. Một tác động dễ nhận biết khác nữa là bệnh nhân cảm thấy hơi lơ mơ. Ý nghĩ đến chậm chạp hơn. Nhưng vì anh ta không ngù được do những giấc mơ kỳ quái đó nên an ta nghĩ việc đầu óc không minh mẫn lắm trong lúc này cũng là bình thường. Và, không, đặc vụ, tôi không gọi anh là một bệnh nhân. Chưa đến lúc. Tôi chỉ đang nói chung chung.”
“Nếu giờ tôi không ăn, không hút thuốc, không uống cà phê hay thuốc thang gì nữa thì mức độ tổn hại liệu đến đâu rồi?”
Cô ta vuốt tóc ra đằng sau rồi búi lại. “Tôi e là đã rất nghiêm trọng.”
“Cứ cho là tôi không thể rời khỏi hòn đảo này trước ngày mai. Cho rằng thuốc bắt đầu phát huy tác dụng. Làm sao tôi có thể nhận biết các triệu chứng?”
“Rõ ràng nhất là biểu hiện bị khô miệng đi kèm với phản ứng muốn tiết nước bọt, và chứng tê liệt. Anh sẽ để ý thấy những cơn run rẩy. Chúng bắt đầu ở đoạn tiếp giáp cổ tay với ngón tay cái, chạy dọc theo ngón tay cái một lúc rồi chiếm lĩnh cả cánh tay.”
“Còn gì nữa?”
“Nhạy cảm đối với ánh sáng, những cơn đau ở bán cầu não trái, diễn đạt từ ngữ bắt đầu chật vật. Nói lắp nhiều hơn.”
Teddy có thể nghe thấy biển cả bên ngoài với những cơn triều dâng xô vào vách đá.
“Chuyện gì đang diễn ra ở ngọn hải đăng?” anh hỏi.
Cô ta nhún vai và nhoài người về phía đống lửa. “Phẫu thuật.”
“Phẫu thuật? Họ có thể tiến hành phẫu thuật trong viện cơ mà.”
“Phẫu thuật não.”
“Ở đây họ có thể làm thế nữa ư?” Teddy hỏi.
Cô ta nhìn chằm chằm vào ngọn lửa. “Phẫu thuật thăm dò. Không phải là phẫu thuật kiểu ‘Hãy mổ cái sọ này ra và chữa chỗ này chỗ kia.’ Không phải thế. Mà là ‘Hãy mổ cái sọ này ra xem sẽ có phản ứng thế nào nếu chúng ta chọc chỗ này, kéo chỗ kia.’ Đó là những việc làm phạm pháp, đặc vụ. Học từ bọn Đức quốc xã.” Cô ta mỉm cười với anh. “Đó là nơi họ đang cố gắng tạo ra những bóng ma.”
“Có những ai biết về chuyện đó? Ý tôi là trong số những người trên đảo này?”
“Về ngọn hải đăng hả?”
“Ừ, về ngọn hải đăng.”
“Tất cả mọi người.”
“Thôi nào, chẳng lẽ tất cả y tá và hộ lý cũng đều biết sao?”
Cô ta nhìn thẳng vào Teddy qua ánh lửa, mắt cô ta trong sáng và kiên định.
“Tất cả mọi người,” cô ta nhắc lại.