NGÀY THỨ NHẤT
Tác giả: Dennis Lehane
CHA CỦA TEDDY DANIELS là một ngư dân. Ông đã mất chiếc thuyền của mình cho nhà băng vào năm 1931 khi Teddy mới mười một tuổi và dành cả phần đời còn lại làm thuê cho các thuyền đánh cá khác khi họ cần, làm công việc dỡ hàng trên bến cảng khi không có ai thuê, rồi đi bộ suốt quãng đường dài để trở về nhà vào lúc mười giờ sáng, ngồi xuống chiếc ghế bành nhìn chằm chằm vào đôi bàn tay, thỉnh thoảng lại lẩm bẩm một mình, đôi mắt mênh mông và u tối. Ông đã cho Teddy ra các hòn đảo khi cậu còn rất nhỏ, quá nhỏ để có thể làm là tháo dây móc và buộc lại cần câu. Cậu đã cắt vào tay mình vài lần, máu lấm tấm trên các đầu ngón tay và chảy hoen xuống lòng bàn tay.
Họ đi vào lúc trời tối và khi mặt trời ló dạng, một màu ngà lạnh lẽo nhô lên từ rìa biển, những hòn đảo hiện ra trong lớp bụi mờ, nằm túm tụm lại với nhau như đang bị bắt quả tang âm mưu một chuyện gì.
Teddy nhìn thấy những cái lán nhỏ màu tùng lam xếp thành hàng trên một bãi biển, khu điền trang bằng đá vôi đổ nát trên một bãi biển khác. Cha cậu chỉ cho cậu nhà tù trên đảo Deer và pháo đài quân sự của bang trên đảo Georges. Trên đảo Thompson là những thân cây cao đầy chim chóc với tiếng kêu rào rào như tiếng mưa đá hay tiếng thủy tinh vỡ.
Tách ra khỏi những hòn đảo này là một hòn đảo có tên gọi là đảo Shutter, trông giống như một đồng tiền galleon của Tây Ban Nha bị tung xuống biển. Lúc đó, vào mùa xuân năm 1928, hòn đảo vẫn còn rậm rịt cây cối, và tòa pháo đài trải dài trên mũi đá cao nhất đảo bị dây leo thít chặt vào bao phủ bởi những đám rêu mốc khổng lồ.
“Sao nó lại được gọi là Shutter?” Teddy hỏi.
Cha cậu nhún vai. “Con và các câu hỏi của con. Lúc nào cũng là những câu hỏi.”
“Ôi, nhưng tại sao ạ?”
“Có những nơi được đặt một tên rất tình cờ và rồi dính liền với tên gọi đó. Có thể là do những tên cướp biển.”
“Những tên cướp biển ư?” Teddy thích cái âm thanh của từ đó. Cậu có thể thấy họ, những người đàn ông to lớn với dải băng bịt mắt, đôi ủng cao, và thanh gươm sáng quắc.
Cha cậu nói, “Đó là nơi trước đây chúng lẩn trốn.” Tay ông vung về phía chân trời. “Những hòn đảo ấy. Chúng lẩn trốn và chôn giấu tiền vàng ở đó.”
Teddy tưởng tượng ra những rương vàng với ăm ắp tiền vàng tràn ra khắp phía. Sau đó cậu bị say, cậu nôn thốc nôn tháo xuống biển nhiều lần từ mạn thuyền của cha cậu.
Cha cậu rất ngạc nhiên vì hàng giờ trước đó trong suốt chuyến đi Teddy đã không nôn ọe mà chỉ bắt đầu khi đại dương đang lúc êm ả, lấp lánh trong một cơn tĩnh lặng của riêng mình. Cha cậu nói, “Không sao. Đó là lần đầu tiên của con. Không có gì đáng xấu hổ cả.”
Teddy gật đầu và lau miệng bằng chiếc khăn cha cậu đưa cho. Cha cậu bảo, “Đôi khi có một sự vận động cơ học mà con không thể nào cảm nhận được cho tới khi nó dâng trào trong người con.”
Thêm một cái gật đầu vì Teddy không tài nào nói cho cha cậu rằng không phải sự vận động cơ học đã làm bụng cậu cồn cào.
Tất cả chỉ tại đám nước này. Trải ra mênh mông xung quanh họ cho tới khi nó là thứ duy nhất còn sót lại của thế giới. Không hiểu sao Teddy tin rằng nó thậm chí còn có thể nuốt chửng cả bầu trời. Trước cái phút giây nôn thốc nôn tháo đó, cậu chưa hề nghĩ tới sự đơn độc này.
Cậu ngước nhìn cha mình, mắt cậu ướt và đỏ quạch, cha cậu nói, “Con sẽ ổn thôi,” và Teddy cố gắng mỉm cười.
Mùa hè năm 1938, cha cậu đi theo một con tàu săn cá voi ở Boston và không bao giờ trở về nữa. Mùa xuân sau đó, những mảnh vỡ còn sót lại của chiếc thuyền dạt vào bờ biển Nantasket ở thị trấn Hull nơi Teddy lớn lên. Một mảnh ván thuyền, một mẩu kim loại có khắc tên thuyền trưởng, những hộp xúp cà chua và khoi tây, hai cái bẫy tôm hùm méo mó và thủng lỗ chỗ.
Người ta tổ chức tang lễ cho bốn thuền viên tại nhà thờ Sư Tử.Theresa, lưng quay ra chính cái bờ biển đã cướp đi sinh mang rất nhiều giáo dân của nó và Teddy đứng đó cùng với mẹ cậu lắng nghe những lời tưởng nhớ tới thuyền trưởng con tàu, người bạn đồng hành thứ nhất của ông và thuyền viên thứ ba trên tàu, một thủy thủ lão luyện tên là Gil Restak, vốn là nỗi kinh hoàng đối với các quán bar trong thị trấn Hull kể từ khi ông trở về sau Đại chiến với một gót chân đầy thương tích và những hình vẽ xấu xí nhung nhúc trên đầu. Mọi chuyện được tha thứ khi người ta chết đi, một trong những người pha đồ uống tại quán bar từng bị ông làm cho khiếp sợ nói.
Chủ chiếc thuyền, Nikos Costa thừa nhận rằng ông ấy gần như không biết gì về cha của Teddy, người mà ông nhận thuê trong những phút cuối cùng khi một thủy thủ bị gẫy chân vì ngã từ xe tải xuống. Tuy nhiên, vị thuyền trưởng đã nói những lời hết sức tốt đẹp về ông, rằng tất cả mọi người trong thị trấn này đều biết ông ấy có thể làm tốt công việc của một thủy thủy. Và đó không phải là lời khen ngợi cao quý nhất mà một người có thể dành cho người khác hay sao? Đứng trong nhà thờ, Teddy nhớ đến cái ngày ở trên thuyền của cha cậu hôm đó vì họ không còn ra biển cùng nhau lần nào nữa. Cha cậu vẫn cứ nói là họ sẽ còn đi nhưng Teddy biết ông nói thế chỉ để con trai mình giữ lại chút kiêu hãnh. Cha cậu không bao giờ thừa nhận chuyện đã xảy ra ngày hôm ấy nhưng hai cha con đã trao đổi một cái nhìn trên đường quay về, khi trở lại qua những hòn đảo nối đuôi nhau đó, với đảo Shutter đã lùi lại phía sau và đảo Thompson vẫn cờn ở phía trước, khi hình dáng tp in trên nền trời trở nên thật cận kề và rõ nét khiến ta tưởng ta có thể nâng cã chóp của một tòa nhà.
“Biển cả là thế đấy,” cha cậu nói, một tay khẽ xoa lưng cậu khi cả hai đang đứng dựa lưng vào đuôi tàu. “Có những người tìm tới nó. Có những người nó sẽ mang đi.” Và ông nhìn Teddy với một cái nhìn khiến cậu hiểu rằng cậu sẽ trở thành loại người nào khi lớn lên.
VÀO NĂM 1954, để tới được đó, họ phải đi phà từ thành phố, vượt qua một loạt những hòn đảo nhỏ vốn bị quên lãng như Thompson, Specctacle, Grape, Bumpkin, Rainford, và Long, bám chắc lấy mặt biển trống trải bằng những cồn cát cứng, những cây gai và những quần thể đá trắng như xương người. Ngoại trừ hai chuyến vận chuyển cố định vào thứ Ba và thứ Bảy thì con phà không có một lịch trình cụ thể nào. Con phà chẳng còn gì ngoài một lớp sàn bằng tấm phù kim loại và hai cái ghế băng sắt kê dưới cửa sổ. Hai cái ghế này được bắt chặt vào sân và vào hai chiếc cột lớn màu đen ở cả hai đầu với một đống khóa tay và xiềng xích treo ở phía trên.
Hôm nay con phà không chở bệnh nhân tới viện mà chỉ có Teddy và người đồng sự mới của anh, Chuck Aule, với mấy cái túi vải bạt đựng thư từ và vài thùng thuốc men cung ứng.
Teddy khởi đầu chuyến đi bằng vệc quỳ gối trong nhà vệ sinh, gục đầu vào bồn rửa khi động cơ của con tàu kêu bình bịch và phát ra những tiếng lách cách, khi mũi anh tràn ngập thứ mùi oi nồng của xăng dầu và mùi biển cả vào cuối mùa hè. Anh chẳng nôn ra gì ngoài một ít nước nhưng cổ họng không ngừng thắt lại, bụng cồn cào, dạ dày quặn lên quặn xuống và không khí trước mặt cứ xoay tròn với những hạt bụi nhấp nháy như mắt người.
Cơn nôn ọc cuối cùng kết thúc bằng một quả cầu oxy bị nén thoát ra khỏi miệng và nổ tung, dường như mang theo cả một phần lồng ngực của anh. Teddy ngồi thụp xuống sàn tàu kim loại, lau mặt bằng chiếc khăn mùi soa và nghĩ đây thật không phải là cách thích hợp để khởi đầu một mối quan hệ đối tác.
Anh có thể tưởng tượng ra cảnh Chuck sẽ kể với vợ anh ta khi trở về nhà – nếu như anh ta có vợ; Teddy thậm chí cũng chưa biết nhiều về anh ta tới mức đó – về cuộc gặp gỡ đầu tiên với huyền thoại Teddy Daniels rằng: “Em yêu, anh ấy khoái anh đến nỗi nôn cả ra tàu.”
Kể từ cái chuyến đi biển ngày còn bé đó, Teddy chưa bao giờ cảm thấy thích thú với sông nước và không vui vẻ gì với sự thiếu vắng đất đai, với cảnh không nhìn thấy mặt đất, thứ mà ta có thể vươn tay ra, chạm vào nó mà không bị mất hút đi. Anh tự trấn an mình rằng chuyện đó không có gì đáng lo ngại vì đó là điều hiển nhiên khi đi qua một thực thể bằng nước, nhưng sự thật lại không phải vậy. Ngay cả trong chiến tranh, đối với anh việc tập kích hàng giờ trên các bãi biển không đáng sợ bằng những mét cuối cùng khi thuyền sắp cập bến, khi phải thò chân xuống nước để lội vào bờ và những sinh vật lạ bắt đầu chui vào trong ủng.
Dù vậy, anh vẫn muốn đứng trên boong, hít thở không khí trong lành hơn là ngồi ở đây dưới sàn tàu tròng trành và nóng tới phát bệnh.
Khi chắc rằng cơn buồn nôn đã qua hẳn, khi dạ dày không còn nổi bong bóng và đầu không còn dập dềnh nữa thì anh rửa tay và mặt, xem lại bộ dạng bên ngoài của mình, trong tấm gương nhỏ treo phía bên trên bồn rửa đãbị muối biển ăn mòn gần hết trông giống như có một đám may nhỏ ở giữa mà Teddy cố lắm mới nhìn ra hình ảnh phản chiếu của mình, một người đàn ông tương đối trẻ, tóc húi cua theo kiểu người đi làm công vụ. Nhưng gương mặt anh đã hằn lên những chứng tích của chiến tranh và năm tháng, còn đôi mắt thì phản chiếu niềm ham mê đối với những cuộc truy đuổi và bạo lực mà Dolores đã có lần ví nó với đôi mắt của một con sói nhớ rừng. Mình con quá trẻ để có cái vẻ khắc khổ ấy, Teddy nghĩ.
Anh chỉnh lại dây lưng để cho súng và bao súng sang bên cạnh hông. Anh lấy chiếc mũ trên nắp bồn cầu và đội lên đầu, sửa lại vành mũ hơi vểnh lên phía bên phải. Anh thắt lại cà vạt. Đó là một trong những chiếc cà vạt hoa lòe loẹt lỗi thời nhưng anh vẫn đeo vì cô ấy đã tặng nó cho anh, thả nó xuống trước mặt anh vào một lần sinh nhật khi anh đang ngồi trong phòng khách. Môi cô áp vào yết hầu trên cổ anh. Một bàn tay đặt trên má anh ấm áp. Lưỡi cô có vị cam. Rồi cô trượt vào lòng anh, tháo chiếc cà vạt anh đang đeo ra, Teddy vẫn nhắm mắt. Lặng lẽ hít thở mùi hương của cô. Tưởng tượng cô. Tạo ra hình ảnh cô trong đầu anh và giữ cô lại đó.
Anh vẫn có thể làm được chuyện đó, chỉ cần nhắm mắt lại và anh lại thấy cô. Nhưng rồi những vệt màu trắng sẽ bắt đầu làm mờ đi phần nào đó, một bên dái tai, hàng lông mi, hay đường viền mái tóc cô. Điều đó vẫn chưa đủ để che mờ cô nhưng Teddy sợ rằng thời gian sẽ lấy cô đi khỏi anh, sẽ nghiền nát những khung ảnh trong đầu anh, làm chúng tiêu tan.
“Anh nhớ em,” anh nói và bước ra ngoài boong trước.
Ở đây trời ấm và trong trẻo nhưng mặt nước như được dệt bằng những tia sáng màu gỉ sắt sẫm lại giữa một khoảng mênh mông xám nhợt xanh xao, như thể có một vật gì đó đang lớn dần lên từ dưới đáy biển âm u.
Chuck nhấp một hơi từ chai rượu bỏ túi của mình rồi quay sang phía Teddy, nhướng một bên mày ra hiệu. Teddy lắc đầu, Chuck đút chai rượu vào túi áo khoác, khép lại vạt chiếc áo khoác ngoài xung quanh hông rồi nhìn ra biển.
“Sếp ổn chứ?” Chuck hỏi. “Trông sếp hơi xanh.”
“Tôi không sao,” Teddy nhún vai trả lời.
“Chắc chứ?”
Teddy gật đầu. “Chỉ là một cơn say sóng thôi.”
Họ đứng im lặng một lúc, biển dập dờn xung quanh họ với những hũ xoáy tối om và mượt như nhung.
“Cậu có biết trước đây nó từng là một nơi giam giữ tù binh chiến tranh?” Teddy lên tiếng.
“Hòn đảo ư?” Chuck hỏi.
Teddy gật đầu. “Vào thời Nội chiến. Họ xây cả một pháo đài công sự và những doanh trại ở đó.”
“Bây giờ họ làm gì với cái pháo đàu công sự ấy?”
Teddy nhún vai. “Không thể nói với cậu được. Chỉ còn lại một vài căn cứ quân sự trên những hòn đảo khác nhau. Phần lớn chúng là mục tiêu tập trận pháo kích trong thời kỳ chiến tranh. Giờ cũng chẳng còn lại mấy.”
“Thế còn bệnh viện thì sao?”
“Những gì mà tôi có thể nói là họ sử dụng các trụ sở quân đoàn cũ.”
“Ôi thế thì giống như là chúng ta đang quay lại căn cứ ấy nhỉ, hừm?”
“Đừng dại mà nghĩ thế.” Teddy quay lưng lại phía lan can tàu. “Thế cậu tới đây làm gì hả Chuck?”
Chuck mỉm cười. Anh ta to hơn nhưng thấp hơn Teddy một chút, có lẽ cao khoảng 1m75, tóc xoăn màu đen cắt gọn gàng, nước da màu ô liu và đôi bàn tay mảnh dẻ, thanh tú dường như trái ngược hẳn với phần còn lại của con người, như thể anh ta đã đi mượn chúng trong lúc chờ đợi hai bàn tay thật của mình được làm xong. Bên phía má trái có một vết sẹo nhỏ và anh ta gõ gõ ngón tay trỏ lên đó.
“Tôi luôn bắt đầu bằng câu chuyện về vết sẹo này,” anh ta nói. “Sớm muộn gì thì mọi người cũng sẽ hỏi tới nó.”
“Được thôi.”
“Không phải là từ chiến tranh đâu,” Chuck nói. “Bạn gái tôi bảo rằng tôi nên nói là thế cho nó xong chuyện, nhưng…” Anh ta nhún vai. “Dù nó cũng là do chơi trận giả. Khi tôi còn bé. Tôi và những đứa trẻ khác bắn nhau bằng súng cao su ở trong rừng. Viên đá của bạn tôi đã trượt nên tôi mới ổn thế này chứ, đúng không?” Anh ta lắc đầu trước khi nói tiếp. “Viên đá của cậu ấy trúng vào một thân cây, một mảnh gỗ bay vào má tôi. Tôi đã có vết sẹo như thế đấy.”
“Do chơi trận giả.”
“Do chơi trận giả, đúng thế.”
“Cậu thuyên chuyển từ Oregon tới à?”
“Từ Srattle. Mới chỉ tuần trước.”
Teddy chờ đợi nhưng Chuck không giải thích gì thêm.
“Cậu gia nhập đội tầm nã tội phạm được bao lâu rồi?”
“Bốn năm.”
“Vậy là đã đủ biết nó nhỏ bé thế nào.”
“Phải. Sếp muốn biết vì sao tôi bị thuyên chuyển đúng không?” Chuck khẽ gật đầu như thể vừa đưa ra một quyết định quan trọng. “Nếu tôi nói là do tôi đã chán ngấy cái cảnh mưa gió thì sao?”
Teddy ngửa lòng bàn tay lên trên lan can. “Nếu cậu nói vậy…”
“Nhưng nó đúng là nhỏ, như sếp nói. Trong lực lượng, mọi người đều biết nhau. Rồi cuối cùng là những, họ họi chúng ta là gì nhỉ, những lời đồn thổi.”
“Cũng là một cách gọi.”
“Sếp đã tóm được Breck, đúng không?”
Teddy gật đầu.
“Làm thế nào mà sếp lại biết hắn sẽ đến đâu? Năm mươi người truy lùng hắn, tất cả bọn họ đều đi tới Cleveland. Còn sếp lại tới Maine.”
“Hắn đã một lần tới đó nghỉ hè với gia đình lúc còn nhỏ. Những gì hắn làm với các nạn nhân là những hành động người ta chỉ làm với ngựa. Tôi có nói chuyện với một bà dì của hắn. Bà ấy kể rằng lần duy nhất hắn cảm thấy hạnh phúc là khi hắn ở trong một trang trại nuôi ngựa gần nhà nghĩ của gia đình hắn ở Maine. Và thế là tôi tới đó.”
“Và tặng cho hắn năm phát,” Chuck nói và nhìn xuống đám bọt biển dưới mũi tàu.”
“Lẽ ra phải bắn hắn thêm năm phát nữa.” Teddy nói. “Nhưng chỉ cần đến năm phát.”
Chuck gật đầu và nhổ một bãi nước bọt qua thành tàu.
“Bạn gái của tôi là người Nhật. Sinh ra ở đây, nhưng sếp biết đấy… Lớn lên trong một trại tập trung. Nhiều nơi tình hình vẫn căng thẳng, Portlan, Seattle, Tacoma. Chẳng ai muốn nhìn thấy tôi với cô ấy.”
“Nên họ đã thuyên chuyển cậu.”
Chuck lại gật đầu, nhổ nước miếng rồi nhìn nó rơi lẫn vào trong đám bọt biển sục ngầu.
“Họ nói rằng nó sẽ rất mạnh,” anh ta nói.
Teddy nhắc cùi tay khỏi lan can tàu và đứng thẳng lên. Mặt anh nhớp nhúa, môi mằn mặn. Vì một lý do nào đó mà biển cả đã xoay sở để tìm thấy anh và anh đã không chống đỡ nổi khi bị một cú bụi nước táp vào mặt.
Anh sờ túi ao khoác ngoài để tìm bao thuốc lá hiệu Chesterfields của mình. “’Họ’ là ai? Và ‘nó’ là cái gì?”
“Họ là những người viết các bản dự báo thời tiết,” chuck nói. “Và nó là cơn bão. Một cơn bão mạnh, họ bảo thế. Rất mạnh.” Anh ta vẫy tay về phía bầu trời xanh xao, nhợt nhạt như đám bọt nước đang ngầu lên dưới mũi thuyền. Nhưng ở đó, dọc theo đường chân trời phía Nam những cụm mây màu đỏ tía như những miếng gạc đang tạo thành một đường viền mảnh mai rồi to dần lên như những vết mực.
Teddy hít không khí vào trong lồng ngực. “Cậu nhớ chiến tranh chứ Chuck?” Chuck mỉm cười thoe cái cách mà Teddy ngờ rằng hia người bọn họ đã tìm được sự đồng điệu và có thể đọc thấu tâm can nhau.
“Một chút,” Chuck nói. “Hình như tôi nhớ tới các đống đổ nát. Vô số đống đổ nát. Con người cứ hay gièm pha các đống đổ nát nhưng tôi cho rằng nó có vị thế riêng. Có vẻ đẹp thẩm mỹ riêng. Tất cả đều phụ thuộc vào con mắt của người nhìn nó.”
“Cậu nói cứ như một tiểu thuyết gia rẻ tiền. Đã có ai nói với cậu điều đó chưa?”
“Nó cứ tự tuôn ra,” Chuck nói và lại tặng cho biển cả một nụ cười lặng lẽ, đoạn dựa lưng vào mũi tàu và duỗi người ra.
Teddy vỗ vỗ túi quần rồi lục chiếc túi bên trong áo vest. “Chắc cậu nhớ các báo cáo thời tiết đã tác động tới các quyết định ra quân của chung như thế nào?”
“Có, tôi có nhớ,” Chuck vừa nói vừa lấy cùi tay xoa xoa lớp ria mọc lởm chởm trên cằm.
“Thế cậu có nhớ độ chính xác của các bản dự báo đó không?” Chuck nhíu mày như thể muốn Teddy biết là anh ta đang xem xét câu hỏi này một cách nghiêm túc. Rồi anh ta khẽ chép miệng và nói, “Khoảng ba mươi phần trăm, tôi đoán thế.”
“Tối đa là vậy.”
“Phải, tối đa,” Chuck gật gù.
“Vậy thì giờ đây, trở lại với thế giới chúng ta đang…”
“Ôi, như chúng ta đang nương náu, có thể nói như vậy.”
Teddy cố nén một nụ cười, cảm thấy rất khoái chàng trai này. Nương náu. Lạy Chúa tôi.
“Ừ thì nương náu,” Teddy đồng tình. “Thế thì tại sao bây giờ cậu lại trở nên tin tưởng vào các bản dự báo thời tiết hơn trước đây?”
“Ừm,” Chuck nhìn thấy cái mỏm hơi lõm của một hình tam giác đang nhô lên phía chân trời. “Tôi cũng không chắc lòng tin của tôi thì có thể đo đếm được theo kiểu tăng hay giảm. Sếp có muốn làm một điếu không?”
Teddy dừng lại trong giây lát sờ tay vào các túi và phát hiện ra Chuck đang quan sát mình, một nụ cười láu lỉnh ngoác tới tận mang tai, ngay dưới vết sẹo.
“Tôi vẫn còn chúng khi lên tàu cơ mà,” Teddy nói.
Chuck nhìn qua vai anh. “Các nhân viên chính phủ. Cướp lúc nào không biết.”
Chuck lắc ra một điếu từ bao thuốc hiệu Lucky của anh ta và đưa cho Teddy rồi châm lửa cho anh với chiếc bật lửa Zippo bằng đồng thau, mùi hôi của dầu hỏa lẫn vào mùi không khí mằn mặn xông vào cổ họng Teddy. Chuck đóng chiếc bật lửa, rồi lại bật lên bằng một cái vẩy cổ tay điệu nghệ và châm cho mình một điếu.
Teddy thở hắt ra, trong vài giây, cái đỉnh tam giác của hòn đảo chợt biến mất giữa làn khói thuốc.
“Ở nước ngoài,” Chuck nói, “khi dư báo thời tiết tuyên bố khả năng đổ bộ của quân dù hay hành quân tới vị trí tập kết thì rõ ràng có nhiều sự rủi ro hơn đúng không?”
“Đúng vậy.”
“Còn ở trong nước thỉ rủi ro chỉ là một chút lung lạc niềm tin thôi phải không? Đó là tất cả những gì tôi muốn nói, sếp.”
Hòn đảo bắt đầu hiện ra rõ hơn, không chỉ còn là một mẩu tam giác nhỏ, phần đáy bắt đầu lớn dần cho tới khi biển lại trải dài phía bên kia nó. Họ có thể nhìn thấy những sắc màu giống như những nét cọ vẽ, màu xanh lặng lẽ của cây cỏ mọc hoang, màu vàng rám nắng của dải bờ biển, màu nâu xám xịt trên bề mặt vách đá phía Bắc. Và trên đỉnh, khi tiến lại gần, họ bắt đầu trông thấy những đường vuông góc của các tòa nhà.
“Thật đáng tiếc,” Chuck nói.
“Cái gì cơ?”
“Cái giá của sự phát triển.” Anh ta đặt một chân lên đoạn dây chão dùng để neo thuyền rồi dựa lưng vào lan can tàu bên cạnh Teddy và cùng ngắm hòn đảo đang dần định hình. “Với những bước nhảy vọt – và những bước nhảy vọt vẫn đang diễn ra, đừng đùa, diễn ra hàng ngày ấy chứ - trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe thì một nơi như thế này sẽ không còn tồn tại nữa. Hai mươi năm sau người ta sẽ gọi một chỗ như thế này là man rợ. Một thứ phụ phẩm tai hại của ảnh hưởng Victoria đã lỗi thời. Nên dẹp nó đi, người ta sẽ nói thế. Sự hòa nhập, người ta cũng nói vậy. Sự hòa nhập là mệnh lệnh ngày nay. Các bạn được hoan nghênh đến với cộng đồng. Chúng tôi sẽ chữa trị cho các bạn. Tái thiết các bạn. Tất cả chúng tôi đều là Đặc vụ Quốc gia. Chúng ta là một xã hội mới, và ở đây không có chỗ cho sự loại trừ. Không có những chiếc máy xung điện Elbas.”
Các tòa nhà lại biến mất sau đám cây cối nhưng Teddy vẫn có thể nhận ra hình dáng mờ mờ của một tòa tháp hình nón rồi đến những góc cạnh rắn rỏi nhô ra ngoài mà anh cho là của pháo đài cũ.
“Nhưng chúng ta sẽ mất quá khứ của mình để đảm bảo cho tương lai?” Chuck khẽ gẩy tàn thuốc xuống đám bọt biển. “Vấn đề là ở đó? Sếp sẽ mất gì khi quét một cái sàn nhà hả Teddy? Bụi bặm. Những mẩu bánh vụn mà có khi sẽ thu hút cả lũ kiến. Nhưng một chiếc khuyên tai mà cô ấy đánh rơi thì sao? Nó cũng nằm trong thùng rác đúng không?”
“ ‘Cô ấy’ à ai? Cái từ ‘cô ấy’ bỗng dưng xuất hiện từ đâu vậy Chuck?” Teddy hỏi.
“Lúc nào chẳng có một cô nào đó. Không đúng sao?”
Teddy nghe thấy tiếng rền rĩ của động cơ thay đổi tần số sau lưng họ, cảm thấy con phà hơi tròng trành dưới chân và anh có thể nhìn thấy tòa pháo đài hiện lên rõ hơn trên đỉnh vách đá phía Nam khi họ đi vòng sang phía Tây của hòn đảo. Những khẩu đại bác đã không còn nhưng Teddy vẫn có thể dễ dàng nhận ra vị trí các ụ pháo. Phía sau pháo đài, mặt đất cao dần thành những ngọn đồi mấp mô và Teddy hình dung ra những bức tường, nhìn không được rõ lắm từ chỗ anh đang đứng, và bệnh viện Ashecliffe nằm đâu đó sau những vách đá dựng đứng nhìn xuống phía bờ Tây.
“Sếp cũng có một cô gái chứ? Sếp có vợ chưa?” Chuck hỏi.
“Đã từng,” Teddy nói và hình dung ra Dolores, cái cách cô nhìn anh trong tuần trăng mật của họ, khi cô quay đầu lại, chiếc cằm gần như chạm vào bờ vai trần của cô và những cơ bắp chuyển động dưới lớp da ở gần xương sống. “Cô ấy đã qua đời.”
Chuck rời khỏi thành tàu, cổ anh đỏ lựng lên. “Ôi, Chúa ơi.”
“Không sao,” Teddy nói.
“Ồ không, không.” Chuck đặt bàn tay lên ngực Teddy. “Chuyện đó… Tôi có nghe nói. Không hiểu tại sao tôi lại có thể quên được. Vài năm trước đây đúng không?”
Teddy gật đầu.
“Chúa ơi, Teddy. Tôi thấy mình giống như một thằng ngốc. Thật đấy. Tôi xin lỗi.”
Teddy lại nhìn thấy cô, lưng xoay về phía anh khi cô bước xuống tầng trệt của căn hộ, mặc một trong những chiếc áo sơ mi đồng phục cũ kỹ của anh, vừa đi vừa hát trước khi rẽ vào bếp, và khắp người anh lại tràn ngập một nỗi đau đớn rã rời, thấu tận xương tủy. Anh thà làm bất cứ chuyện gì – thậm chí bơi trong cái đám nước kia – còn hơn là nói về Dolores và về cái thực tế đau lòng là cô chỉ tồn tại vẻn vẹn ba mốt năm trên cõi đời này mà thôi. Chỉ có bằng ấy thời gian. Khi anh đi làm vào buổi sáng, cô còn có mặt. Nhưng buổi chiều, khi anh trở về thì cô đã ra đi. Nhưng nó cũng giống như vết sẹo của Chuck, anh nghĩ, một câu chuyện không thể đừng được trước khi họ có thể chuyển sang đề tài khác. Nếu không nó sẽ luôn luôn tồn tại giữa hai người những câu hỏi thế nào, ở đâu và tại sao?
Dolores đã qua đời được hai năm nhưng cô vẫn sống lại hàng đêm trong những giấc mơ của anh, và đôi khi mỗi sáng sớm anh vẫn mất một lúc lâu để tưởng rằng cô vẫn đâu đó trong bếp hay đang ngồi uống cà phê trên bậu cửa trước căn hộ của hai người ở Buttonwood. Đó là một trò đùa tàn nhẫn của trí óc, đúng thế, nhưng Teddy từ lâu đã chấp nhận cái logic của nó, việc thức dậy, xét cho cùng, cũng gần như trạng thái mới được sinh ra. Bạn tỉnh giấc không tiềm thức, chớp mắt và ngáp như lúc mới sinh rồi sắp xếp các mảnh vỡ theo thứ tự thời gian trước khi chuẩn bị bản thân cho hiện tại.
Nhưng tàn nhẫn hơn rất nhiều là cái cách một danh sách tưởng như phi logic gần những đồ vật có thể châm ngòi cho những ký ức về vợ anh đã được cài vào đầu anh như một que diêm. Mà anh thì không bao giờ biết được đó sẽ là vật gì, đôi khi là một lọ muối, dáng đi của một người phụ nữ lạ trên phố đông, một chai Coca Cola, một vệt son môi trên miệng cốc, một chiếc gối ôm.
Nhưng trong tất cả những ngồi nổ đó, không có gì kém logic hơn xét về mặt liên kết, và không có gì cay độc hơn, xét về mặt tác động, so với nước, những giọt nước đang rỉ ra từ vòi, rơi ti tách từ bầu trời, ứ lại trên vỉa hè, hay như lúc này đây, trải ra xung quanh anh hàng dặm, từ mọi phía.
Anh nói với Chuck: “Có một đám cháy trong tòa nhà chúng tôi ở. Lúc đó tôi đi làm. Bốn người thiệt mạng. Cô ấy là một trong số đó. Chính khói đã giết chết cô ấy, Chuck, chứ không phải là ngọn lửa. Điều đó có nghĩa là cô ấy đã không chết trong đau đớn. Còn sợ hãi? Có thể. Nhưng không đau đớn. Điều đó rất quan trọng.”
Chuck lại làm thêm một hơi từ chai rượu của mình và giơ nó ra mời Teddy lần nữa. Teddy lắc đầu. “Tôi bõ việc. Sau đám cháy. Cô ấy vẫn thường hay lo lằng về công việc đó, cậu biết không? Và nói rằng tất cả đám quân nhân và cảnh sát chúng ta đều uống quá nhiều. Nên…” Anh có thể cảm thấy Chuck ở bên cạnh, chìm trong hổ thẹn và anh nói, “Cậu sẽ học cách sống chung với những chuyện như thế, Chuck, cậu không có sự lựa chọn nào khác. Như tất cả những thứ rác rưởi mà cậu đã thấy trong chiến tranh. Nhớ chứ?”
Chuck gật đầu, mắt nheo lại trong giây lát với những ký ức cũ, xa xăm.
“Đó là điều cậu phải làm,” Teddy nhẹ nhàng nói.
“Vâng,” Chuck cuối cùng cũng lên tiếng, mặt vẫn hơi ửng đỏ.
Chiếc cầu cảng bỗng xuất hiện như một trò chơi khăm của ánh sáng, duỗi dài trên cát, nhìn từ xa trong giống một thanh kẹo cao su màu xám, mong manh.
Teddy cảm thấy cả người khô kiệt kể từ luc 1non6 ọe trong nhà vệ sinh và bắt đầu kiệt sức trong mấy phút trở lại đây, cho dù anh đã cố học cách để sống chung với nó, với cô, với cái sức nặng có thể làm anh suy sụp bất cứ lúc nào. Một con đau âm ỉ xuất hiện ở nửa đầu bên trái, ngay dưới mắt anh như thể cái sống của một chiếc thìa cũ đang áp vào đó. Quá sớm để biết rằng liệu đó chỉ là một tác dụng phụ không đáng kể của sự mất nước, sự khởi đầu của một cơn đau đầu thông thường hay là dấu hiệu đầu tiên của một cái gì đó tồi tệ hơn, những cơn đau nửa đầu đã bám riết lấy anh như một thứ dịch bệnh từ thời niên thiếu, nhiều khi gay gắt tới mức một bên mắt của anh dường như không còn thấy gì trong chốc lát, ánh sáng trở nên đau rát như một con mưa đã hay những chiếc đinh sắc nhọn; và một lần, ơn Chúa là mới chỉ một lần nó khiến anh phải nằm liệt giường trong suốt một ngày rưỡi.
Tuy nhiên những cơn đau nửa đầu ấy của anh không bao giờ xuất hiện vào những lúc áp lực công việc căng thẳng mà chỉ sau đó, khi tất cả đã lắng xuống, khi bom đã ngừng rơi và những cuộc truy đuổi đã kết thúc. Những cơn đau tồi tệ nhất thường xuất hiện khi anh ở trong các lán trại tại khu căn cứ hay khu doanh trại kể từ khi cuộc chiến xảy ra, trong các phòng khách sạn hay trên đường quốc lộ khi lái xe về nhà. Ở đây có một cái mẹo mà Teddy đã nhận ra từ lâu rằng anh phải giữ cho mình bận rộn và tập trung. Chúng không thể tóm được anh nếu anh không ngừng chạy.
Anh nói với Chuck, “Cậu đã nghe nói nhiều về chỗ này chưa?”
“Một bệnh viện tâm thần, đó là tất cả những gì tôi biết.”
“Cho những kẻ điên phạm tội,” Teddy nói.
“Nhưng nếu không phải vì thế thì chúng ta cũng chẳng đến đây,” Chuck nói.
Teddy lại bắt gặp anh ta với nụ cười nhăn nhở không thành tiếng như lúc nãy.
“Cậu chẳng bao giờ biết được đâu, Chuck. Trong mắt tôi, cậu trông chẳng ổn định được tới 100%.”
“Có lẽ trong thời gian chúng ta ở đây, tôi nên đặt trước một giường trong viện để họ giữ cho mình một chỗ cho sau này.”
“Ý tưởng cũng không tồi,” Teddy nói khi tiếng động cơ tàu chợt dừng lại trong giây lát, mũi tàu quay sang bên phải theo luồng nước để đổi hướng rồi động cơ lại được khởi động trở lại, con tàu bắt đầu đi giật lùi về phía cầu cảng, Chuck và Teddy đứng quay mặt ra biển.
“Tôi được biết là ở đây họ sử dụng những phương pháp chữa bệnh cấp tiến,” Teddy nói.
“Mức độ Đỏ à?”
“Không phải Đỏ,” Teddy nói. “Chỉ là cấp tiến thôi. Giữa hai cái này có một sự khác nhau đấy nhé!”
“Nhưng trong thời buổi này thì cũng chẳng biết được.”
“Đúng là đôi khi cũng không thể biết được thật,” Teddy đồng ý.
“Và cái người phụ nữ bỏ trốn đó?”
“Cũng chẳng biết gì nhiều. Cố ta trốn thoát đêm qua. Tôi có ghi lại tên cô ta trong sổ tay. Chắc là họ sẽ nói cho chúng ta mọi chuyện,” Teddy nói.
Chuck nhìn ra mặt nước xung quanh. “Cô ta đi đâu nhỉ? Bơi về nhà à?”
Teddy nhún vai. “Rõ ràng là các bệnh nhân ở đây đều mắc những chúng hoang tưởng khác nhau.”
“Tâm thần phân liệt?”
“Phải, tôi đoán thế. Trong bất cứ trường hợp nào thì cậu cũng sẽ không tìm thấy những người mắc bệnh Down thông thường ở đây. Hay những kẻ suốt ngày ngủ vì sợ đường nứt ra khi đi dạo. Với những gì tôi đọc trong hồ sơ thì tất cả các bệnh nhân ở đây, cậu biết không, đều rất điên.”
“Tuy nhiên, theo sếp, trong số họ có bao nhiêu người giả điên? Tôi vẫn luôn tự hỏi mình thế. Sếp có nhớ các bệnh nhân ở Khu Tám mà sếp gặp trong thời kỳ chiến tranh không? Bao nhiêu trong số họ sếp nghĩ rằng thật sự có vấn đề?”
“Tôi chiến đấu cùng với một anh chàng ở Ardennes…”
“Sếp đã ở đó ư?”
Teddy gật đầu. “Anh chàng đó, một hôm thức dậy và bắt đầu nói ngược.”
“Các từ á?”
“Cả câu ấy,” Teddy nói. “Anh ta nói, ‘Trung sĩ, máu nhiều quá có ở đây hôm này.’ Chiều hôm đó chúng tôi tìm thấy anh ta trong một hố cá nhân, lấy đá tự đập nhiều nhát vào đầu mình. Chỉ đập vào đầu. Liên tục, liên tục. Chúng tôi sững sờ một lúc mới nhận ra là anh ta đang móc mắt mình ra.”
“Sếp nói thế để dọa tôi chứ gì.”
Teddy lắc đầu. “Mấy năm sau tôi có nghe một người kể lại việc anh ta tình cờ gặp một gã mù trong một bệnh viện cựu chiến binh ở San Diego. Vẫn nói ngược và mắc một chứng liệt mà không bác sĩ nào chuẩn ra nguyên nhân, cả ngày ngồi trên xe lăn bên cửa sổ và nói chuyện mùa màng, rằng anh ta phải đi thu hoạch mùa vụ của mình. Vấn đề là, anh chàng đó lớn lên ở Brooklyn.”
“Rồi, một anh chàng Brooklyn lại nghĩ rằng anh ta là nông dân, tôi đoán là anh ta thuộc Khu Tám.”
“Đó là một dấu hiệu, chắc thế.”