Chương 3 & 4
Tác giả: Harolds Robbins
Nắng tháng Ba nhẩy nhót trên tuyết, long lanh đến chói mắt. Nắng xuyên qua cửa sổ vào phòng, nơi họ đang ngồi ăn sáng.
"Em nghĩ là anh phải cưới em thôi".
Sergei cầm ly nước cam lên. "Để làm gì?"
"Vẫn là lý do thông thường thôi. Em có mang". Anh lặng thinh. "Anh không bao giờ nghĩ đến điều đó, đúng không?"
"Anh có nghĩ về điều đó, nhưng anh cứ tưởng em đã để ý đến mọi việc rồi".
Cô mỉm cười. "Làm gì có thì giờ? Anh bực mình à?" Anh lắc đầu. "Thế thì anh nghĩ gì?"
"Anh biết một ông bác sĩ. Ông ấy rất giỏi".
Sue Ann không nói gì. Một lát sau, anh thấy nước mắt cô lưng tròng. Giọng cô bằng phẳng và tẻ nhạt. "OK, nếu anh muốn thế".
"Không" anh trả lời cục cằn. "đấy không phải là điều anh muốn. Nhưng chả lẽ không thấy là người ta sẽ làm gì em à?"
"Em không cần. Em không phải là đứa con gái đầu tiên vác một cái bầu đến trước bàn thờ".
"Đấy không phải là điều anh muốn nói. Này nhé, em vui vẻ với một hoàng tử hươu, thì OK. Nhưng lấy anh ta thì lại là chuyện khác. Người ta sẽ biến em thành một trò cười!"
"Ông nội em để lại cho em năm mươi triệu đô la, và em sẽ sở hữu tất cả khi em hai mươi lăm, hoặc lấy chồng. Với số tiền ấy thì chúng ta có thể ỉa phẹt vào tất cả bọn họ".
"Đấy chính là điều anh muốn nói. Điều đó còn tệ hơn".
Bỗng cô nổi cáu. "Thế thì anh là thứ đĩ đực gì mới được chứ? tiền của em không bằng tiền của những người khác à? Cái lão già ở Monte Carlo ấy, chẳng biết tên lão là gì, rồi con mụ cứ gửi séc từ Paris nữa?"
Anh chằm chằm nhìn cô "Em biết?"
"Tất nhiên em biết. Thế anh tưởng cánh nhà băng của cha em không theo chân em ngya sau khi họ phát hiện ra rằng em bỏ trường và sống với anh? Họ đưa cho em cả tập hồ sơ".
Một lát sau anh nói "Mà em vẫn muốn lấy anh?"
"Thế đấy".
"Vì sao? Anh không hiểu".
"Thế thì anh là một thằng cả đẫn. Anh biết em rồi còn gì. Trước khi gặp anh, em cứ nghĩ là mình có vấn đề. Một người đàn ông không bao giờ là đủ cả. Đã có thời em thường làm ba người liền, người nọ tiếp ngay sau người kia. Rồi em cho rằng sẽ không có một người đàn ông nào thoả mãn được mình. Rồi em gặp anh".
"Thế là đủ lý do lấy nhau à?"
"Thế là đủ đối với em. Anh còn cần lý do gì khi mà hai con người có thể sống với nhau như chúng ta?"
"Còn có một cái gì đó gọi là tình yêu".
"Giờ thì anh bắt đầu nói như một thằng ngốc. Vậy khi nào anh có thể nói cho em một cách chính xác tình yêu là gì?"
Anh không trả lời. Một cảm giác sầu muộn choán ngợp anh, pha lẫn chút thương cảm đối với cô. Rồi anh nhìn vào cặp mắt cô, và thấy sự hãi hùng trần trụi lộ rõ. Nếu như anh khước từ cô? Rồi chợt anh hiểu ra. Sự hãi hùng cô vốn cảm nhận và sẽ còn cảm nhận, nếu như không có một người đàn ông để bấu víu.
Cặp môi cô thoáng nở nụ cười. "Chúng ta rất giống nhau, anh và em. Chúng ta là những người hành động. Còn mọi người chỉ nói. Nếu điều chúng ta có không phải là tình yêu, thì đó cũng là điều gần nhất với tình yêu mà cả hai chúng ta không bao giờ biết".
Mối thương cảm trong anh đã vượt cả lý trí. Anh không thể nói với cô rằng chính lý do mà cô đưa ra sẽ là điều huỷ hoại quan hệ của họ. Từ trong tiềm thức, anh hiểu rằng chẳng ai giữa họ có thể giữ mãi sự thoả mãn bên nhau.
"OK" anh nói mà không biết ai là người bại trước "chúng ta sẽ lấy nhau".
Kế hoạch là một đám cưới nhỏ, không ồn ào, trong một nhà thờ nhỏ ở ngoại ô Saint Moritz, nhưng lại hóa ra hoàn toàn khác. Chỉ giản dị là không thể bỏ qua tài sản kếch sù của nhà Daley, và cuối cùng, đám cưới được tổ chức ở nhà thờ lớn với hàng trăm khách và cả đám phóng viên.
"Trông cậu không hạnh phúc lắm" Robert nói khi họ đứng chờ trong phòng áo lễ ở nhà thờ.
"Mình chưa chuẩn bị cho một chú rể hạnh phúc".
"Cậu sẽ ổn thôi, một khi bọn mình vào hai bên cánh gà".
Sergei nhìn bạn. "Mình biết, nhưng đấy không phải là điều mình lo lắng. Sau đó cơ".
Robert không đáp. Cả anh cũng hoài nghi. Sergei nhìn ra cửa.
"Dax phải ở đây chứ. Cậu ấy phải buồn cười vì tất cả những chuyện này. Mình không hiểu Dax có nhận được thiếp mời không. Cậu cũng chẳng hay tin gì về Dax phải không?"
"Không một lời, từ khi cậu ấy rời Cambridge cả năm nay rồi. Mình viết khá nhiều cho Dax, mà cậu ấy chẳng hề hồi âm".
"Hy vọng là không có điều gì xảy ra với cậu ấy".
"Cậu ấy sẽ ổn thôi. Mà nhiều điều sẽ xảy ra cho chúng ta".
Sergei thoáng nhìn anh. "Cậu vẫn cho là sẽ có chiến tranh à? Còn cha cậu bảo sao?"
"Ông chuyển tất cả những gì có thể sang Mỹ. Thậm chí ông còn muốn mình và Caroline trở lại đấy".
"Thế cậu?" Robert lắc đầu. "Tại sao không?"
Robert nhún vai. "Vì..mình vừa là Do Thái vừa là Pháp".
"Cậu có thể làm gì được? Cậu thậm chí không phải là một người lính".
"Sẽ có một cái gì đó", Robert nói. "Ít nhất thì mình cũng có thể ở lại và chiến đấu. Đã có quá nhiều những người như chúng ta bỏ chạy trước con quái vật ấy rồi".
Âm thanh của chiếc organ ập vào phòng. Robert ghé mắt qua khe cửa rồi quay lại. "Nào, con ta, đến lượt con trở thành một người đàn ông".
Cánh phóng viên đứng phía sau thánh đường khi cặp tân hôn quỳ trước bàn thờ.
"Cứ nghĩ mà xem" tay phóng viên AP nói. "Trong vòng mươi phút nữa, anh ta ra khỏi đây, từ một tay khánh kiệt đến với năm mươi triệu đô".
"Cậu có vẻ ghen".
"Thì đúng như thế. Ít nhất thì cũng phải là một thằng cu người Mỹ chứ. Các chàng trai Mỹ hay ho xưa đâu cả rồi?"
"Chịu" Irma Andersen, người viết về đám cưới cho tờ Thế giới toàn cầu thì thầm một cách ranh mãnh "nhưng theo như tôi biết thì nàng đã thử cả, và thấy họ chưa đi đến đâu".
"Thôi đi".
"Ước gì mình cũng chơi được trò Caviar – champagne", tay INS nói. "Trúng phóc đấy".
"Đừng có hoang tưởng. Cánh nghèo bọn mình thì chỉ có nghêu sò ốc hến là cùng".
Tay AP nhìn anh ta cười. "Tốt thôi, nhưng chúng mình làm gì cả mùa hè chứ?"
Chương 4
Tiếng lá rơi xào xạc làm Dax thức giấc. Anh thò tay ra, nắm lấy khẩu súng trường bên mình, và thấy Mèo Bự đang lặng lẽ lủi vào bụi cây. Ngăn tiếng động bằng chiếc chăn, anh lắp băng đạn vào súng, và chờ.
Không gian lặng tờ phủ quanh. Anh nheo mắt nhìn lên bầu trời. Không cần nhìn đồng hồ anh cũng biết đang là khoảng năm giờ sáng. Anh áp tai xuống đất, nghe ngóng.
Tiếng chân đã mất hút. Anh hít một hơi dài. Dù là ai thì Mèo Bự cũng đã chặn đứng. Anh vẫn không cử động. Thoảng có tiếng nói rì rầm, anh hoàn toàn yên tâm vì âm thanh đó. Nếu là nguy hiểm thì đã chẳng có tiếng nói. Chỉ là âm thanh của cái chết.
Tiếng chân lại dội đến. Dax nhô đầu lên, nhìn từ trong hang anh đang ẩn nấp xuống con đường mòn. Cẩn tắc, anh đưa mũi súng lên.
Đồng phục xanh và đỏ tươi của người lính xuất hiện. Đàng sau anh, Mèo Bự với khẩu súng lục trong tay, gần như vô hình trong bộ kaki bạc phếch. Dax chờ cho họ đến tận nơi, rồi đứng dậy. Người lính giật mình, rồi giơ tay chào. "Hạ sĩ Ortiz, thưa Đại uý" cậu ta nói theo nghi thức. "Tôi mang theo thư của tổng Thống".
"Ngồi xuống đi, hạ sĩ, ở đây không cần nghi tức . Hơn nữa, bộ đồng phục của cậu là một mục tiêu quá đẹp đấy".
Với một tiếng thở dài nhẹ nhõm, người lính ngồi thụp xuống đất. "Tôi đã kiếm các anh cả tháng nay".
Dax nheo mắt nhìn anh ta. "Cậu đã làm tốt. Chỉ một giờ nữa là chúng tôi đi". Anh nhìn Mèo Bự. "Có chút cà phê chứ?"
Mèo Bự nhóm lửa, ở nơi mà gió có thể tản khói đi trước khi bốc lên cao. Hắn tò mò nhìn khi người lính mở chiếc cặp của anh ta và đưa cho Dax một chồng phong bì được chằng buộc cẩn thận.
Dax tựa lưng vào một tảng đá, mở phong bì đầu tiên, lấy ra tấm thiệp in nổi. Anh nhìn nó, rồi vừa cười vừa giơ lên cho Mèo Bự xem. "Coi này! chúng ta được mời đến một đám cưới!".
Mèo Bự reo lên. "Hay quá, chẳng có gì mình thích bằng tiệc tùng. Thức ăn, nhạc và các em xinh tươi. Ai cưới đấy?"
"Sergei. Lấy Sue Ann Daley".
"Ả tóc vàng ấy à?"
Dax gật đầu.
"Ả sẽ làm Sergei chết mất. Có thể còn kịp báo cho anh ta?"
Dax nhìn người lính. "Hôm nay ngày bao nhiêu nhỉ?"
"Mừơi hai tháng Tư".
"Muộn rồi, đám cưới đã được tổ chức hai ngày trước ở Thuỵ Sĩ".
Mèo Bự tỏ vẻ buồn bã. "Chán quá". Rồi hắn và Dax nhìn nhau mà phá lên cười.
Người lính Ortiz kinh ngạc nhìn họ. Chả lẽ vì cái trò vớ vẩn này mà anh được cử đi tìm kiếm họ à? Mấy ngày qua, tính mạng anh treo trên sợi tóc trong những khu rừng khủng khiếp, với bao bất trắc hãi hùng, là chỉ để đưa cho họ tấm thiệp mời đám cưới mà thậm chí họ chẳng đi dự được? phận lính trơn thật đáng buồn.
Nhanh chóng, Dax mở các phong bì còn lại, cho đến công văn cuối cùng, có mang triệu của tổng thống. Từng cái một được ném vào đống lửa. Khi đã đọc xong cái cuối cùng, anh nhìn lên. "Tổng thống muốn chúng ta vào".
"Để làm gì?" Mèo Bự rót cà phê đang bốc khói vào tách đưa cho Dax, rồi rót cho Ortiz và cho mình.
"Ông không nói",Dax nhìn Ortiz. "Anh biết vì sao không?"
"Không, thưa đại uý" Ortiz đáp vội. "Tôi chỉ là lính trơn. Tôi biết gì đâu".
Mèo Bự giận dữ chửi thề. "Bọn mình sống ba tháng trời ở đây, như những con thú rừng hoang, giờ sắp xong công việc được trao thì "vào đi". Tại sao cậu không chờ thêm hai ngày nữa hãy tìm thấy bọn tớ? Chỉ hai ngày nữa thôi".
Người lính tái dại trước cơn thịnh nộ của Mèo Bự, như co rúm lại trong bộ đồng phục. "Tôi…".
"Có thể cũng không tệ lắm đâu" Dax an ủi. "Ở trong rừng núi này thì ngày tháng cũng lẫn lộn tùm lum ấy mà. Cậu lính rất cừ này thực ta không tìm thấy chúng ta cho đến ngày mười bốn, đúng không nhỉ?"
Ortiz hết nhìn người nọ lại đến người kia, không hiểu trong hai người thì ai điên hơn. Người trẻ với bộ mặt cháy nắng gần như đen xì, hay là người bự con nhưng có thể lẻn đến, lặng lẽ vồ anh như con một con báo gấm. Nhưng anh biết một điều. Nếu như họ bảo là anh không tìm thấy họ cho đến ngày mươi bốn, tức là anh chỉ được tìm thấy họ vào ngày mười bốn, hoặc cộng một, cộng hai. Thêm hai ngày trong rừng thì có khác gì, khi mà ở đây chỉ có sống hay chết. Kể cả mạng anh.
Anh hắng giọng. "Thưa đại uý, tất nhiên ạ. Mười bốn".
Dax mỉm cười, đứng lên. "Đi thôi. Chúng ta còn một chặng đường gian khổ nữa mới đến được nơi gặp Đại bàng".
Đại bàng! Ortiz thấy ruột gan mình lộn nhào cả lên. Té ra họ mưu toan việc ấy! Đại bàng, tay trùm cướp, người đã làm cho cả vùng núi hãi hùng suốt năm năm qua và cũng là người đã thề là sẽ giết ngay bất cứ ai mặc đồng phục quân đội rơi vào tay hắn. "Tôi nghĩ là mình phải trở về", người lính nói.
"Tôi không nghĩ thế", Dax lắc đầu. "Cậu ở với chúng tôi thì an toàn hơn".
"Đúng" Mèo Bự thêm, "nhất là khi cậu mặc bộ quân phục ấy. Lang thang ở rừng với bộ đồ khỉ gió này thì chẳng hay ho gì đâu".
"Có kiếm được cái gì đó cho anh ta thay không?" Dax hỏi.
Mèo Bự gật đầu. "Mình còn một bộ nữa, rộng chút đỉnh…"
"Thì cậu càng thoải mái".
Ortiz không thể ưng hơn, lúng túng tụt khỏi bộ đồng phục.
Dax nhìn xuống thung lũng. "Thấy không?"
Ortiz và Mèo Bự nhìn theo. Dải khói mảnh dẻ bốc lên từ một góc thung lũng.
"Họ đang đợi ở đấy" Dax nói, giọng như có phần thoả mãn. "Đúng như Đại bàng đã hứa".
"Cậu cho là hắn sẽ trả lời sao?" Mèo Bự hỏi.
Dax nhún vai. "Chỉ có Chúa mới biết được".
"Trả lời gì cơ?" Ortiz hỏi.
Mèo Bự đáp. "Tổng thống cử chúng tôi đi với một lệnh ân xạ nếu Đại bàng hạ vũ khí, chịu vào Curatu, thì sẽ được tha thứ hết".
"Ân xá cho Đại bàng?" Ortiz rùng mình rồi làm dấu. "Làm sao mà hắn tin các anh được?"
"Ông ta biết cha tôi", Dax nói. "Ông ta biết rằng tôi chẳng theo đảng phái nào hết, ngoài sự thật. Bọn tôi phải mất ngần ấy tháng trời để tìm ông ta. Tuần trước, ông ta bảo với chúng tôi rằng ông sẽ trả lời trong bảy ngày. Rồi chúng ta sẽ qua đêm ở đây, sáng ra thì xuống núi".
"Anh có thực sự nghĩ là Đại bàng sẽ về không?" Ortiz thì thầm với Mèo Bự khi họ trải chăn trên đất.
"Tốt nhất là tối mai tôi hãy trả lời". Rồi Mèo Bự nói thêm làm cho Ortiz buốt giá thâu đêm. "Nếu chúng ta còn sống".
Dax nằm sấp trên tấm chăn, nhìn xuống thung lũng. Ngày tàn dần trong sắc đỏ tía, và những âm thanh của đêm vọng vào tai anh. Không thấy dải khói lượn lờ từ trại của bọn cướp nữa. Anh nằm xuống, bất động, sự an toàn của đêm đen đã phủ xuống anh như tấm chăn. Mọi thứ khác với những gì anh mong đợi, nhưng cũng chỉ vì anh nghĩ là mọi thứ đều đã đổi thay.
Chẳng có gì thay đổi cả, cho đến khi anh về, và nhận ra rằng chẳng có gì thực sự thay đổi cả. Từng đã có người bảo rằng sự vật càng biến đổi thì nó càng giống như cũ. Đối với anh thì chẳng có điều gì mà cha anh từng hy vọng được thực hiện. Vẫn chưa đủ trường học, còn những trường cũ vốn tồn tại thì nhanh chóng tràn ngập con em các quan chức lớn nhỏ. Đấy là ở Curatu. Còn ở những làng mạc xa xôi thì chẳng có trường sở gì hết.
Quanh thủ đô thì có cả một hệ thống đường trải nhựa dẫn đi tứ tung, rồi chợt chấm dứt ở những bờ đầm hoặc chân núi chỉ cách ngoại ô vài dặm. Trong những dẫy núi và thung lũng, bọn cướp vẫn là nỗi hãi hùng của đám dân quê. Trong mấy tuần đầu ở nhà, anh thực sự sầu muôn. Chỉ mừng là cha anh không phải thấy những gì anh thấy. Đấy không phải là kết quả mà cha anh đã gắng gỏi.
Anh đã xuống cảng để thấy những con tàu ra vào và dân chài trở về với những mẻ lưới của mình. Những sớm mai, anh lang thang ở góc chợ, đầu phố để nghe những lời kêu tướng của dân buôn bán. Đến đâu anh cũng thấy chiếc tượng nhỏ của tổng thống – từng góc phố, trước một toà lầu, bên mỗi cầu cảng, và cả cổng chợ. Và bao giờ cũng là màu xanh, đỏ của quân phục.
Phải mất một tuần anh mới biết rằng mình bị theo dõi. Phải mấy ngày sau anh mới nhận ra mọi người nhìn anh như một kẻ xa lạ, rằng giọng nói anh không mang trọng âm của họ, rằng quần áo anh thuộc về một xã hội khác.
Cảm giác cô đơn và cách biệt choán ngợp anh. Bỗng không khí thị thành làm anh nghẹn thở. Đến lúc đó anh mới nhận ra mình không còn là con người đã ra đi từ đây, nhiều năm trước. Anh là một cái gì đó khác, một người nào đó khác. Anh vốn dĩ như thế nào, anh đâu có biết. Một cách bản năng và tràn đầy hy vọng, anh rời thành phố về trang trại ở vùng núi, nơi anh đã sinh ra.
Ở đấy, nơi bầu trời và trái đất như vĩnh viễn trải rộng trước mặt và những ngọn núi như chỉ những ngón tay lởm chợm đỏ tía lên mặt trời và những vì sao, nơi anh hy vọng tìm lại được tự do đã mất. Và đó cũng là lý do tồn tại của anh.