Chương Hai Mươi
Tác giả: Du Trí Tiên – Chu Diệu Đình
Tháng 7 năm 1211, Thành Cát Tư Hãn 49 tuổi, đó là năm ông bắt đầu một cuộc chiến tranh kéo dài suốt 12 năm với nước Kim. Nước Kim do dân tộc Nữ Chân xây dựng, đó là một dân tộc giỏi chinh chiến. Suốt một thời gian dài, quân đội của họ kéo tới đâu là chiến thắng tới đó, nổi tiếng khắp trong vùng. Khi Thành Cát Tư Hãn mở cuộc nam chinh thì dân số của nước Kim đã gần năm chục triệu, so với Mông Cổ đông hơn gấp bốn chục lần; quân đội của họ trên một triệu người, so với Mông Cổ nhiều hơn gấp mười lần. Chính vì thế, người thời bây giờ có nói: “Nước Kim như biển cả, còn Mông Cổ như một bụm cát". Thế mà kết quả cuộc chiến tranh này là "bụm cát đó đã lắp đầy "biển cả" kia! Nguyên nhân ở đâu? Đây là một bài toán đố lịch sử rất đáng được tìm hiểu.
Nơi mở cuộc tấn công đầu tiên của Thành Cát Tư Hãn chính là một ngôi thành tại vùng biên cương phía Bắc của nước Kim: Đàn Châu.
Binh sĩ Kim đứng trên đầu thành bắn tên, nã pháo (loại súng đại bác thời cổ), làm cho những toán quân xung phong của quân đội Mông Cổ bị bắn té xuống ngựa liên tục. Do vậy, cũng như khi quân Mông Cổ ồ ạt kéo tới, họ buộc phải nhanh chóng rút lui.
Dã Lặc Miệt phi ngựa đến trung quân của Thành Cát Tư Hãn. Mũ đội trên đầu của anh ta bị lệch đi, mặt đen như thoa lọ, chỉ còn lộ một hàm răng trắng, nói:
- Thưa Đại Hãn, tướng sĩ bị thương vong rất nhiều, nhưng ngôi thành vẫn không thể hạ được!
Thành Cát Tư Hãn nghe qua nhảy lên lưng ngựa chạy bay về phía trước. Nạp Nha A dẫn theo mười tên Khiếp Tiết Quân cũng hối hả chạy theo.
Nhóm người của Thành Cát Tư Hãn đã nhanh chóng đến được phía ngoài của Đàn Châu. Dã Lặc Miệt đưa tay chỉ lên đầu thành nói với Thành Cát Tư Hãn:
- Đại Hãn xem kìa!
Binh sĩ Mông Cổ lại mở đợt xung phong. Trên đầu thành nào pháo, nào tên, nào đá ào ào bắn xuống, làm cho binh sĩ Mông Cổ bị thương vong rất nhiều. Đôi mày của Thành Cát Tư Hãn cau chặt, hai hàm răng nghiến mạnh. Dã Lặc Miệt nói:
- Binh sĩ của chúng ta không thể vượt qua hào thành sâu của họ, mà cũng không thể vượt lên tường thành cao của chúng. Cho dầu có cố gắng tới đâu cũng không có hiệu quả!
Thành Cát Tư Hãn khoát mạnh một cánh tay, quát:
- Lui!
Dã Lặc Miệt ra lệnh:
- Rút lui!
Tiếng phèng la của quân xung phong đánh lên, toàn bộ binh sĩ rút lui về phía sau nhanh như một cơn gió hốt. Thành Cát Tư Hãn dẫn Dã Lặc Miệt và Đà Lôi rút lui về phía sau, ông nói:
- Các ngươi hãy xem, rồi đây chiến mã của chúng ta sẽ vượt qua hào sâu, sẽ vượt lên tường cao!
Ngày hôm sau, tại một vùng hoang vắng cách khá xa thành Đàn Châu, một đội quân Mông Cổ tiến hành đào đất cát rồi đựng vào bao. Từng đội kỵ binh theo thứ tự đến lấy những bao đất cát đó mang đi. Đêm đến, quân Kim cầm lồng đèn đi tới đi lui trên đầu thành canh gác và liên tục bắn những mũi tên có mang lửa xuống nơi nào chúng nghi có quân đội Mông Cổ.
Quân Mông Cổ đưa những tay cung nõ dàn thành ba lớp sát bên bờ hào, rồi lần lượt bắn tên lên đầu thành để trấn áp quân Kim, yểm hộ cho kỵ binh có thể tiếp cận hào thành. Họ mang từng bao đất cát đến đỗ xuống một vị trí nhất định trên hào thành. Dần dần số đất cát đó đã lắp bằng hào thành, tạo nên một con đường đi. Kỵ binh Mông Cổ liền vượt qua con đường đó để tiến sát chân thành. Họ lại mang từng bao đất cát đến đỗ dưới chân thành. Ngọn đồi đất từ từ cao lên. Tới khi trời gần sáng thì ngọn đồi đất đó đã cao bằng những ụ chiến đấu trên đấu thành.
Thành Cát Tư Hãn đưa ngọn roi ngựa chỉ về phía trước, quát:
- Hỡi các anh hùng thảo nguyên của Mông Cổ, hãy theo ta vượt lên thành!
Thành Cát Tư Hãn thúc ngựa chạy như bay, Tứ Dũng cũng thúc ngựa chạy theo và vượt qua mặt Thành Cát Tư Hãn. Dã Lặc Miệt và Đà Lôi dẫn đầu binh sĩ vượt lên đầu thành. Quân Kim sợ hãi bỏ chạy như lũ chuột.
Thành Cát Tư Hãn dừng ngựa trên đầu thành Đàn Châu. Tướng sĩ vui mừng nhảy múa. Bách Linh Điểu kéo cây đàn đầu ngựa, các chiến sĩ vừa múa vừa hát:
Thành Cát Tư Hãn là vầng thái dương trên bầu trời,
Nhô lên cao tại phía đông của vùng đồng cỏ.
Uy danh và đức hạnh của người truyền tới đâu,
Thiên hạ đều được hưởng lấy ánh sáng chói lọi tới đó.
Thần dân của người là cỏ cây,
Còn bọn xấu xa kia như sương tuyết.
Cỏ cây sinh trưởng tốt tươi dưới ánh sáng mặt trời,
Còn sương tuyết thì bị tiêu vong tan biến,
Mặt trời có mọc có lặn, còn Khả Hãn thì vĩnh viễn trường tồn!
Chỉ có Thành Cát Tư Hãn vĩ đại của chúng ta,
Dùng bàn tay khổng lồ đưa cao lá cờ,
Ở dưới có thể che phủ sông dài biển rộng,
Ở trên có thể che phủ cả bầu trời.
Bắt đầu từ ngày binh phù ban ra,
Khắp trời đất túa ra từng đàn thiết kỵ.
Thành cao vạn nhẫn của kẻ cường địch.
Không ngăn chặn nổi chiến mã của Người!
Sau khi Thành Cát Tư Hãn đánh chiếm được Đàn Châu, thì vó ngựa của quân Mông Cổ vẫn không dừng lại, mà tức khắc tiến về phía Phủ Châu.
Thành Cát Tư Hãn, Đà Lôi và các tướng lãnh khác đều cùng xuống ngựa đi xuyên qua bộ đội Mông Cổ đang tạm dừng chân.
Dã Lặc Miệt dẫn theo hai binh sĩ đang vác một cái sọt lớn đi tới, nói:
- Thưa Đại Hãn, ngài xem đây, trên đường đi từ đây cho tới trước, trong các lùm cỏ đều được rải đầy những chiếc sọt này, chiến mã của ta không thể tiến lên được.
Thành Cát Tư Hãn muốn nhổ lấy cây chông sắt bên trong chiếc sọt nhưng bị nó đâm phải tay. Dã Lặc Miệt liền dùng tay nhổ lấy mấy cái chông sắt để lên lòng bàn tay của Thành Cát Tư Hãn. Thành Cát Tư Hãn nghiến răng hỏi:
- Ai giữ thành Phủ Châu?
Giã Biệt đáp.
- Hồ Sa Hổ.
Đà Lôi hỏi:
- Đây gọi là chiến pháp gì?
Dã Lặc Miệt đáp:
- Đây gọi là "Chiến Pháp Nọa Phu”. Nó làm cho chúng ta phải sợ hãi.
- Hãy nhổ hết những cây chông sắt này và tập trung lại, để dành đó!
- Dùng làm gì?
- Những cây chông sắt này có thể đâm bị thương chiến mã của ta, thì nó cũng có thể đâm bị thương chiến mã của quân Kim.
Dã Lặc Miệt hiểu ý, nói:
- Phải, để dành những cây chông sắt này cho Hồ Sa Hổ!
Sứ giả của triều đình nhà Kim là Trương Hạnh Tín đến nha môn của Phủ Châu. Trương Hạnh Tín nói lớn:
- Hồ Sa Hổ hãy tiếp chỉ!
Hồ Sa Hổ vội vàng quì xuống đất tung hô:
- Vạn tuế, vạn vạn tuế!
Trương Hạnh Tín tuyên đọc:
- Tây kinh lưu thủ Hồ Sa Hổ cầm binh thiếu kỷ luật, chưa đánh nhau với địch đã vội vàng rút lui, chính vì tham sinh úy tử, nên đã để mất đất lại bị hao binh tổn tướng, tội này đáng chém. Nay cho phép Hồ Sa Hổ được trấn giữ Phủ Châu để lấy công chuộc tội, nếu bị thất bại thì hai tội sẽ nhập lại làm một, chém đầu không tha!
Hồ Sa Hổ không dám làm trái với chiếu chỉ của hoàng thượng, nên đành phải nhắm mắt hứa liều:
- Thần tuân chỉ!
Binh sĩ Mông Cổ bắt đầu mở cuộc tấn công vào Phủ Châu!
Hồ Sa Hổ cầm dao vừa múa vừa đi lại trên đầu thành để bắt ép binh sĩ phải chiến đấu giữ thành. Phía ngoài thành Phủ Châu, Dã Lặc Miệt và Đà Lôi đang phi ngựa tới. Đà Lôi nói với Thành Các Tư Hãn:
- Thưa phụ Hãn, tường thành Phủ Châu so với Đàn Châu còn cao hơn, dày hơn, phải chăng chúng ta cũng đấp đất để tấn công vào thành?
Thành Cát Tư Hãn lắc đầu, nói:
- Không thể được, vì ở đây khác hơn ngoài biên tái, đất cát rất khó tìm.
Đà Lôi nói:
- Nhưng nếu ta cứ tấn công liều lĩnh mãi thì số thương vong của binh sĩ sẽ lên rất cao.
Thành Cát Tư Hãn nói:
- Phải nghĩ cách để dụ quân địch ra ngoài.
Dã Lặc Miệt hỏi:
- Hồ Sa Hổ có chịu nghe lời chúng ta kéo quân ra ngoài không?
Thành Cát Tư Hãn cười đáp:
- Điều đó phải chờ xem các ngươi bị đánh bại có giống như thật hay không?
Dã Lặc Miệt chợt hiểu ra, nói:
- À, tôi đã hiểu rồi! - Dứt lời, anh ta cùng Đà Lôi quay đầu ngựa chạy trở về phía sau.
Bên dưới chân thành Phủ Châu, quân Mông Cổ mở cuộc tấn công ào ạt tinh thần của binh sĩ hết sức dũng cảm, do vậy số người bị té xuống ngựa ngày càng đông.
Đóa Đãi hăng hái kêu gọi đồng đội cùng xung phong, nhưng bỗng con ngựa của anh ta đứng thẳng hai chân sau lên quăng anh ta xuống đất. Nhưng sau khi té xuống đất, anh ta vẫn nheo mắt làm trò hề.
Hồ Sa Hổ đứng trên đầu thành quan sát tình hình, cảm thấy hết sức phấn khởi, nói:
- Tốt! Các ngươi đánh rất tốt! Bản soái sẽ có thưởng!
Bên dưới chân thành Phủ Châu, binh sĩ Mông Cổ nằm ngổn ngang la liệt. Những con chiến mã không người cưỡi lớp thì đứng yên tại chỗ, lớp thì chạy tới chạy lui một cách hỗn loạn. Trên mặt đất đâu đâu cũng thấy mã tấu và giáo dài nằm ngổn ngang.
Trên thành Phủ Châu có người la to:
- Quân Mông Cổ đã bị đánh bại, phải rút lui rồi!
Hồ Sa Hổ tuốt đao ra khỏi võ, nói lớn:
- Hỡi các tướng sĩ, đây là một dịp tốt để lập công với nước! Hãy truy đuổi chúng! Hãy bắt sống cho được Thiết Mộc Chân!
Cửa thành mở rộng, Hồ Sa Hổ dẫn quân Kim vượt qua cửa thành, vượt qua cầu treo, rồi tiếp tục tiến lên truy kích quân Mông Cổ.
Tại một hẻm núi, Dã Lặc Miệt chỉ huy Đóa Đãi và những binh sĩ khác rải những cây chông xuống mặt đường, rồi mới núp vào hai bên hẻm núi để mai phục.
Kỵ binh của Hồ Sa Hổ tiến lên như bay. Nhưng số kỵ binh chạy trước liên tục bị té xuống ngựa. Bọn quân Kim ở phía sau dừng lại không dám tiến lên và túm tụm thành một đám đông.
Hai bên hẻm núi bỗng có tiếng tù và thổi lên và tiếp đó là những tay cung nỏ của quân đội Mông Cổ bắn tên ra dày đặc như một bầy cào cào. Đồng thời, từ trên vách núi họ lăn gỗ lăn đá xuống đầu quân Kim. Thế là quân Kim bắt đầu hỗn loạn, mất cả trật tự. Hồ Sa Hổ chỉ biết quay đầu ngựa bỏ chạy. Quân Mông Cổ đuổi theo chém giết, Hồ Sa Hổ chỉ dẫn theo mười kỵ binh chạy ngang qua thành Phủ Châu, rồi tiếp tục bỏ chạy mất dạng.
Thành Cát Tư Hãn và Đà Lôi dẫn đại quân tiến vào thành. Tháng 7 năm đó, mười vạn thiết kỵ của Mông Cổ chia làm ba đường tấn công vào nước Kim. Thành Cát Tư Hãn và đứa con trai út Đà Lôi chịu trách nhiệm một mũi tiến quân. Họ lần lượt hạ Xương Châu, Đàn Châu, Phủ Châu. Giã Biệt, Gia Luật A Hải chịu trách nhiệm một mũi tiến công, đã dùng chiến thuật kỳ tập chiếm được Ô Nguyệt Danh, rồi lại tiến chiếm Ô Sa Bảo. Truật Xích, Sát Hợp Đài, Oa Khoát Đài chịu trách nhiệm một mũi tiến công và đã chiếm được Vân Nội, Đông Thắng, v.v... Tháng 8 cùng năm, Thành Cát Tư Hãn xua quân bao vây Tây Kinh của nước Kim là Đại Đồng. Tướng giữ thành là Hồ Sa Hổ chưa đánh nhau đã bỏ chạy, thế là Tây Kinh lại bị rơi vào tay Mông Cổ, làm cho cả triều đình và khắp dân gian đều kinh hoàng sợ hãi.