Chương Mười Chín (3)
Tác giả: Du Trí Tiên – Chu Diệu Đình
Năm 1211. Truật Xích, phò mã Bất Hợp dẫn quân bắc chinh thắng lợi trở về. Bá tánh ở trong rừng do thủ lĩnh của bộ lạc Oát Diệc Thích là Hốt Đô Hợp Biệt Khất và thủ lĩnh của bộ lạc Thốc Ma là Tháp Nhi Hồn phu nhân cầm đầu, đã hoàn toàn tỏ lòng qui thuận. Họ cùng nhóm người của Truật Xích kéo đến vùng đất chăn nuôi và xây dựng lều trại của Thành Cát Tư Hãn tại bờ sông Onon để triều kiến Đại Hãn.
Bên ngoài đại trướng nóc vàng, Truật Xích, Hốt Đô Hợp Biệt Khất, Tháp Nhi Hồn phu nhân và các vị thủ lĩnh khác sống trong rừng đứng thành một hàng dài. Thành Cát Tư Hãn và Khoát Nhi Xích từ trong đại trướng bước ra.
Đám đông có người quì một đầu gối, có người quì hai đầu gối, có người vòng tay, có người khòm lưng cùng tung hô:
- Tham kiến Thành Cát Tư Hãn!
Thành Cát Tư Hãn đưa hai cánh tay về phía trước, vừa nâng lên vừa nói:
- Miễn lễ!
Truật Xích to tiếng giới thiệu:
- Vị này là thủ lãnh của bộ lạc Oát Diệc Thích tên gọi Hốt Đô Hợp. Lần này chúng tôi may mắn được ông ấy nghênh đón và qui hàng trước tiên, sau đó lại không ngại khó khăn đi thuyết phục các bộ lạc khác ở trong rừng. Nhờ vậy thần mới hoàn thành được sứ mạng, thu phục bá tánh trong rừng một cách thuận lợi.
Thành Cát Tư Hãn gật đầu, nói:
- À, xin cám ơn ông!
Truật Xích lại giới thiệu người thứ hai:
- Đây là thủ lãnh của bộ lạc Thốc Ma, tên gọi Tháp Nhi Hồn phu nhân.
Thành Cát Tư Hãn nói:
- Phu nhân là người trông rất anh hùng, chỉ nhìn qua cũng biết phu nhân là bậc hào kiệt trong giới nữ lưu!
Truật Xích nói:
- Còn đây là thủ lĩnh của bộ lạc Khất Nhi Cát Tư và đây nữa là thủ lĩnh của bộ lạc Ba Nhi Hốt...
Thành Cát Tư Hãn nhiệt tình hoan nghênh tất cả mọi người, đồng thời, giới thiệu vị Vạn Hộ của mình với bá tánh sống trong rừng:
- Tôi hết sức hoan nghênh các vị! Giờ đây tôi xin giới thiệu vị Vạn Hộ: Khoát Nhi Xích là người từ đây về sau sẽ có trách nhiệm thống soái tất cả các bộ lạc sống trong rừng. Tôi mong các vị sẽ hòa hợp nhau thành một khối như nước trong hồ Baykal, để cùng chung bảo vệ cương thổ ở phía bắc của nước Đại Mông Cổ!
Khoát Nhi Xích cười, nói:
- Từ nay về sau, chúng tôi hoàn toàn nhờ vào sự hiệp trợ của các vị. Bàn tiệc đã chuẩn bị xong cả rồi, vậy xin các vị nhập tiệc!
Mọi người cùng bước vào đại trướng. Khoát Nhi Xích nói khẽ với Thành Cát Tư Hãn:
- 30 mỹ nhân của tôi...
- Thành Cát Tư Hãn đáp:
- Bây giờ thì nhà ngươi có thể tự chọn lựa được rồi!
Khoát Nhi Xích nói:
- Tôi xem Tháp Nhi Hồn phu nhân cũng đẹp đấy!
Thành Cát Tư Hãn chỉ cười, không nói gì.
Hai người vừa mới bước vào đại trướng thì Nạp Nha A phi ngựa đến báo:
- Thưa Đại Hãn - Thành Cát Tư Hãn dừng bước đứng lại. Con ngựa của Nạp Nha A cũng vừa chạy đến trước mặt. Ông ta nói tiếp - Thưa Đại Hãn, sứ giả của nước Kim đã tới để truyền đạt tin nối ngôi của vua Kim. Ông ta bảo ngài phải quì cách xa mười dặm để đón chiếu chỉ của nhà vua mới.
Một đoàn sứ giả của nước Kim đã kéo tới đồng cỏ Mông Cổ. Cờ phướn tàng lộng tung bay rợp trời. Theo hầu vị sứ giả của nước Kim là tướng quân Minh An, mình mặc khôi giáp sáng chói, chung quanh binh lính bảo vệ hết sức uy nghiêm.
Thành Cát Tư Hãn, Nạp Nha A, Trấn Hải, Tứ Dũng cùng cưỡi ngựa đi tới nơi. Dã Lặc Miệt nhìn thấy tình hình trước mắt, nói:
- Ôi chao! Thật hết sức oai phong! Nếu biết như vậy mình cũng dẫn theo một số Khiếp Tiết Quân đông hơn, để cho họ thấy sức mạnh của mình!
Thành Cát Tư Hãn chỉ cười. Trấn Hải nói:
- Họ càng xem thường chúng ta, thì chúng ta càng có phúc lớn!
Khi ngựa tới gần, Thành Cát Tư Hãn và đám đông cùng xuống ngựa.
Minh An sửa áo, hai tay bợ tờ chiếu thư, cao giọng nói:
- Trát Ngột Thích Hốt Lý của bộ lạc Mông Cổ là Thiết Mộc Chân, hãy quì xuống tiếp chỉ!
Thành Cát Tư Hãn hỏi:
- Xin hỏi sứ thần của thượng quốc, bộ hoàng thượng chết rồi sao?
Minh An đáp:
- Đại hạnh hoàng đế đã giá băng, lấy thụy hiệu là Chương Tông.
- Lần này thì ai lên làm vua mới vậy?
- Chương Tông không có con nối ngôi, quần thần tuân theo di chiếu, cùng đề cử hoàng thúc Vệ vương Vĩnh Tế lên làm vua mới.
- Ai? - Thành Cát Tư Hãn hết sức ngạc nhiên.
- Vệ vương Vĩnh Tế! - Minh An trả lời.
- Có phải anh chàng công tử đẹp trai đó không?
Thành Cát Tư Hãn ngửa mặt cười to, rồi quay sang nói với Trấn Hải - Ta cứ tưởng hoàng đế của Trung Nguyên nhất định phải là người từ trên trời cử xuống mới làm được, nào dè lại là một người tầm thường nhu nhược như thế! - Nói dứt lời, lại phá lên cười.
Minh An quát lớn:
- Không được vô lễ! Quì xuống để tiếp chỉ!
Thành Cát Tư Hãn ngưng tiếng cười, phun một bãi nước bọt, quay đầu ngựa bỏ đi giữa tiếng cười rộ của Dã Lặc Miệt và bao nhiêu người chung quanh khác.
Viên phó sứ của nước Kim tức giận, nói:
- Này tướng quân Minh An, gã Thiết Mộc Chân kia tại sao lại quá thô lỗ như vậy? Tại sao hắn dám to gan tỏ ý khinh miệt như vậy?
Minh An mỉm cười, nói:
- Hắn là con cưng của trời!
Viên phó sứ không nghe rõ, lại hỏi:
- Ngài nói sao?
Minh An chỉ khoát tay nói:
- Trở về Trung Đô!
Thành Cát Tư Hãn trở về đến đại trướng nóc vàng, bữa tiệc rượu vẫn còn đang tiến hành. Mọi người cùng đứng dậy hô to:
- Thành Cát Tư Hãn!
Thành Cát Tư Hãn vui vẻ nói:
- Thưa các vị thủ lĩnh, tôi tiếp đón không được chu đáo, nhưng cũng may hôm nay chúng ta đều là người một nhà, vậy khi trở về thì các vị không thể đi về tay không. Hồi mùa thu này tôi có đến Trung Nguyên và đã mang về rất nhiều lụa là gấm vóc, vàng bạc châu báu, ngoài ra, còn có các loại đồ sứ và trà. Tất cả những thứ này tôi xin đem ra ban thưởng cho các vị!
Tất cả các thủ lĩnh đều đồng thanh đáp:
- Đa tạ ơn to của Thành Cát Tư Hãn!
- Kìa! Hốt Đô Hợp! ông khoan đa tạ đã, vì trong các món quà biếu này không có phần của ông đâu? - Câu nói của Thành Cát Tự Hãn làm cho ai nấy đều ngạc nhiên. Thành Cát Tư Hãn đưa tay vỗ nhẹ vào vai Hốt Đô Hợp nói tiếp - Này Hốt Đô Hợp, ông đã lập được công to đối với nước Mông Cổ, vậy tiền bạc, ngựa hay không đủ để báo đáp cho ông đâu. Nay tôi bằng lòng đem đứa con gái út của tôi là Khoát Khoát Can và cháu gái của tôi là Hỏa Lôi công chúa, gã cho hai đứa con trai của ông!
Truật Xích không khỏi ngạc nhiên.
Hốt Đô Hợp rời khỏi chỗ ngồi, dập đầu lạy tạ, đôi mắt đều trào lệ nhưng do quá cảm động nên không nói được tiếng nào. Thành Cát Tư Hãn cười to, nói:
- Này, chúng ta là sui gia với nhau, vậy không cần phải quì lạy! Có gì mà mọi người phải ngạc nhiên? Xin mời các vị hãy uống rượu bằng tô lớn, ăn thịt từng miếng to, kể cả Tháp Nhi Hồn phu nhân nữa, ai chưa uống tới nằm mẹp tại chỗ thì người đó chưa chân thành kết giao tình bằng hữu với Thiết Mộc Chân tôi! Xin uống! - Thiết Mộc Chân bưng tô rượu lên uống cạn.
Tất cả mọi ngươi đều bưng tô rượu của mình lên uống cạn theo.
Tiếng cười vui vẻ của Thành Cát Tư Hãn cũng làm cho bầu không khí trong khắp cả đại trướng cũng vui lên. Mọi người đều vui một cách thật sự.
Màn đêm đã buông rũ. Thành Cát Tư Hãn rời khỏi bàn tiệc bước ra ngoài trướng vàng. Khoát Nhi Xích cũng bước theo, gọi:
- Thưa Đại Hãn.
Thành Cát Tư Hãn đi chậm lại. Khoát Nhi Xích bước kịp tới nơi, nói:
- Thưa Đại Hãn, chuyện Tháp Nhi Hồn phu nhân, phải chăng ngài đã quên rồi?
Thành Cát Tư Hãn nói khẽ như để cho mình nghe:
- Không quên, nhưng hiện nay chẳng những nhà ngươi không thể cưới Tháp Nhi Hồn phu nhân và 30 mỹ nữ khác, mà ta còn phải gã con gái và cháu gái của nhà ngươi đi xa đến tận hồ Baykal!
Khoát Nhi Xích hốt hoảng, hỏi:
- Tại sao vậy?
Thành Cát Tư Hãn đứng yên lại, nói:
- Ta hiện nay hết sức cần một vùng biên cương ở phía bắc cũng yên tĩnh như bầu trời đêm tại vùng đồng cỏ này. Vậy chuyện các cô gái đẹp của nhà ngươi hãy chờ thêm một thời gian nữa nhé. Bây giờ hãy gọi Tốc Bất Đài tức khắc đến lều riêng của Dã Toại phi để ra mắt ta.
Thành Cát Tư Hãn tiếp tục đi về hướng lều riêng của Dã Toại phi.
Khoát Nhi Xích mặc dù không hài lòng, nhưng cũng đành phải tuân lệnh bước đi.
Thành Cát Tư Hãn đã đến lều riêng của Dã Toại phi. Lính bảo vệ cúi đầu thi lễ và lên tiếng chào:
- Thưa Thành Cát Tư Hãn?
Ông vừa định bước vào cửa, thì Nạp Nha A dẫn hai mẹ con của Đóa Đãi bước tới nói - Thưa Đại Hãn, ngài còn nhớ người này không?
Hai mẹ con Đóa Đãi cùng quì xuống đất, dập đầu lạy và lên tiếng chào:
- Thưa Thành Cát Tư Hãn!
Thành Cát Tư Hãn cố nhớ lại con người trước mặt, nói:
- Có phải Đóa Đãi, người mà ta đã mua về khi đến thành Tịnh Châu hồi mùa thu năm đó không?
Đóa Đãi đáp:
- Chính là tiểu nhân ti tiện như loài sâu kiến này!
Thành Cát Tư Hãn hỏi:
- Nhà ngươi đã tìm được mẹ nhà ngươi rồi ư?
- Tiểu nhân nhờ Đại Phán Quan tìm trong sổ sách Thiên Hộ nên mới tìm được.
- Hỡi bà mẹ đáng kính kia, hỡi bà mẹ đáng thương kia, bà đã chịu khổ quá nhiều rồi đấy!
Bà cụ xúc động nói:
- Thưa Đại Hãn, suốt cả cuộc đời mẹ con chúng tôi thật không thể nào báo đáp được ân tình của ngài!
Thành Cát Tư Hãn nói:
- Con trai của bà đã vì tôi mà chết ngoài trận mạc, vây mà tôi không bảo vệ được đứa con trai út của bà, để nó bị người Nữ Chân bắt đi làm nô lệ suốt bảy năm, chịu đủ thứ giày vò và tủi nhục. Tôi xin thề trước trời cao, là tôi sẽ làm cho tất cả mỗi sinh linh ở khắp các địa phương dưới bầu trời này phải nhớ mãi, là người Mông Cổ da vàng, tay cầm mã tấu đầu cong, cưỡi trên lưng những con chiến mã là không thể hiếp đáp được! Phải để cho tiếng hò reo sát phạt của chúng ta làm cho những đứa trẻ khuấy rầy khóc đêm phải sợ hãi; sẽ dùng những thanh đao và những mũi tên của chúng ta trừng phạt tất cả những sự ngang ngược ở trong đời, để cho sự báo ứng được diễn ra ngay trước mắt. Ngày đó sẽ không còn xa! Này Đóa Đãi, nhà ngươi phải chăm sóc và hiếu thảo với mẹ già đấy nhé!
Thành Cát Tư Hãn bước vào lều riêng của Dã Toại. Dã Toại cởi chiếc áo choàng cho chồng và nói:
- Đại Hãn hãy ngồi xuống cạnh bếp lò này đây.
Thành Cát Tư Hãn ngồi xuống phía tây của bếp lò, đưa hai tay ra hơ lửa. Dã Toại nói một cách bình thản:
- Ngài đã quyết định rồi ư?
Thành Cát Tư Hãn hỏi:
- Quyết định cái gì?
Dã Toại đáp:
- Mở cuộc nam chinh đánh nước Kim?
Thành Cát Tư Hãn hỏi:
- Tại sao nàng biết được?
- Ngài đuổi sứ thần của hoàng đế nước Kim, không phải có nghĩa là ngài đã tuyên chiến với họ rồi đấy sao?
Thành Cát Tư Hãn đưa mắt nhìn Dã Toại một lượt, nhưng không trả lời. Một lúc sau, ông ngã người nằm xuống và gối đầu lên cánh tay của Dã Toại nói:
- Này Dã Toại, theo nàng ta có thể đánh thắng được không?
- Được!
- Có phải thế không? Nếu ta bị đánh bại thì sự nghiệp xây dựng suốt nửa đời người của ta kể như phủi tay đó!
Dã Toại nói một cách khẳng định:
- Ngài sẽ đánh thắng!
Thiết Mộc Chân ngồi bật lên, đưa mắt nhìn chăm chú vào Dã Toại, nói:
- Nàng có biết không? Nước Kim đã xây dựng hơn 100 năm rồi, dân số của họ nhiều hơn ta gấp 40 lần, quân đội của họ nhiều hơn gấp 10 lần ta. Nước của họ là một quốc gia giàu có, binh mạnh ngựa khỏe!
Dã Toại tươi cười nói:
- Họ đã ngoài 100 tuổi rồi! Đã quá già rồi!
Thành Cát Tư Hãn hỏi:
- Làm sao nàng biết?
- Ngài quên rồi sao! Người Tháp Tháp Nhi chúng tôi đã thần phục họ năm sáu chục năm. Lúc ban đầu A Cốt Đã khởi binh chống lại triều đình nhà Liêu, đánh chiếm Biện Lương, bắt sống hai vua Huy Tông và Khâm Tông của triều đại nhà Tống, thì họ chỉ có mấy vạn binh mã mà thôi, thế mà họ lại chiến thắng được quân đội của nước Tống đông đến mấy chục vạn. Còn bây giờ nước Kim cũng giống như nước Liêu, nước Tống thời đó, họ đã quen sống trong cảnh thái bình, quen cầu an hưởng lạc, không còn tinh thần chiến đấu dũng cảm như thời trước, không còn đủ sức chịu đựng được những cuộc tấn công mạnh. Trong khi đó, chúng ta vừa mới thành lập Hãn quốc của riêng mình. Ở vùng đồng cỏ này có một câu ngạn ngữ: "Lỗ tai có trước nhưng không bằng cặp sừng mọc sau”. Huống chi hiện nay nước Kim lại do Vệ vương, một con người tầm thường vô dụng, u mê cùng cực đó lên làm hoàng đế?!
Thành Cát Tư Hãn hết sức hài lòng, cất tiếng cười, nói:
- Chính ta cũng suy nghĩ như vậy nên mới dám nhổ một bãi nước bọt trước mặt sứ thần nhà Kim!
Dã Toại cũng cười, nói:
- Có phải ngài thử thiếp hay không?
Thành Cát Tư Hãn dùng trán của mình ấn vào trán Dã Toại, nói:
- Không! Vì ta muốn chứng minh đó thôi. Nói cho cùng, vì đây là một đại sự mà tính nguy hiểm lại rất to lớn!
Từ ngoài lều có tiếng của Tốc Bất Đài nói to:
- Thiên Hộ Tốc Bất Đài phụng chiếu diện kiến Thành Cát Tư Hãn!
Thành Cát Tư Hãn nói với Dã Toại phi:
- Gọi anh ta vào đây.
Dã Toại đi mở cửa. Tốc Bất Đài bước vào, nói:
- Tham kiến Đại Hãn!
Thành Cát Tư Hãn nói:
- Hãy ngồi xuống! Thủ lĩnh của bộ lạc Oát Diệc Thích ở trong rừng là Hốt Đô Hợp cho biết, cha con Thoát Hắc Thoát A và Hốt Đô thuộc bộ lạc Miệt Nhi Khất, đã kết hợp với con trai của Thái Dương Hãn là Khuất Xuất Luật, tụ hợp hơn 2.000 tàn binh của các bộ lạc Miệt Nhi Khất và Nải Man, đang chiếm cứ vùng sông Dã Nhi Đích Thạch, chuẩn bị gây rối!
Tốc Bất Đài cười nói:
- Chỉ hơn hai nghìn người thì đâu phải là chuyện to.
Thành Cát Tư Hãn nói:
- Không! 2.000 người đối với đại quân của Mông Cổ đông 10 vạn người thì không đáng kể gì, nhưng đối với 2.000 quân của quân đội Mông Cổ đang đóng giữ vùng Oát Nhi Đóa mà nói, thì là một kẻ thù rất nguy hiểm.
Tốc Bất Đài phấn khởi nói:
- Đại Hãn muốn nam chinh ư? - Thành Cát Tư Hãn khẽ gật đầu. Tốc Bất Đài nói tiếp - Tôi sẽ đi cho 2.000 người của bọn Thoát Hắc Thoát A và Khuất Xuất Luật đều trở thành quỉ không đầu hết!
- Tốt! Vậy sẽ do người sui gia mới của ta là Hốt Đô Hợp làm người dẫn đường. Các ngươi xóa được bọn chúng là rất tốt, vì đó là bọn có thể gây rối ở hậu phương của ta. Được vậy ta sẽ dẫn các ngươi đi gặp hoàng đế của nước Kim!
- Vâng! - Tốc Bất Đài đứng lên thi lễ, bước ra khỏi lều với một tinh thần phấn chấn
Kỵ binh của Tốc Bất Đài đã tiến được vào vùng thung lũng sông Dã Nhi Đích Thạch êm ru không ai hay biết.
Một buổi sáng, đội ngũ của Khuất Xuất Luật, Thoát Hắt Thoát A đang tập hợp một cách vô trật tự tại phía trái của bờ sông. Những người phụ nữ đang lo việc nấu cơm dã ngoại, còn bọn đàn ông thì xúm nhau đến vớt những miếng thịt nửa sống nửa chín để ăn.
Khuất Xuất Luật, Thoát Hắc Thoát A, Hốt Đô và một số người khác đang ngồi vây quanh một đống lửa.
Khuất Xuất Luật nói:
- Theo tôi, chúng ta sống lâu dài như một bầy chuột ở đồng cỏ không phải là chuyện tốt đâu.
Thoát Hắc Thoát A cất giọng già nua nói:
- Còn có cách nào khác hơn? Ta và Thiết Mộc Chân đã đánh nhau suốt 30 năm trường, lực lượng của hắn ngày càng mạnh lên, đội ngũ của ta không đủ sức để tiêu diệt chúng!
Khuất Xuất Luật nói:
- Tất nhiên! Nhưng đội ngũ của chúng ta có thể đi đánh chiếm từng bộ lạc của hắn ở trong rừng để giành lấy bá tánh. Nếu mọi việc thành công thì chúng ta sẽ có trong tay hằng vạn binh mã, cũng như một vùng đất rộng lớn ở biên cương phía bắc này.
- Tức chúng ta cắm một lưỡi dao sau lưng của Thiết Mộc Chân! - Hốt Đô phấn khởi đâm thẳng thanh đao đang cầm trong tay vào thân con dê đang nướng trên lửa.
Ngay lúc đó, bỗng có tiếng la hốt hoảng:
- Người Mông Cổ tới rồi!...
Mọi người ngước mặt nhìn lên, thấy trên núi nằm ở phía sau lưng có những tay cung nỏ đứng đông nghẹt. Sau một hồi trống, những mũi tên từ trên núi bắn xuống bờ sông loạn xạ như một đám cào cào bay. Số người có mặt tại đó liên tục ngã xuống.
Thoát Hắc Thoát A to tiếng la:
- Hãy lên ngựa vượt qua sông!
Mọi người ào ào tràn tới, đua nhau vượt qua sông bằng cách lội nước. Nhưng họ mới vừa qua được nửa sông, thì trên sườn núi phía đối diện lại xuất hiện vô số những người Mông Cổ từ trên cao giương cung bắn xuống như mưa.
Thoát Hắc Thoát A từ trên lưng ngựa té xuống dòng sông. Hốt Đô và bọn thân binh vừa khóc vừa đỡ ông ta lên bờ. Khuất Xuất Luật dẫn bốn năm tên kỵ mã chạy bay tới, nói to:
- Chạy mau, Tốc Bất Đài tới rồi!
Quả nhiên, Tốc Bất Đài và Hốt Đô Hợp đang dẫn một đội kỵ mã với mã tấu sáng ngời cầm trên tay áo ào xông tới. Đứa con út của Thoát Hắc Thoát A vừa khóc vừa nói:
- Đại ca ơi, còn di thể của phụ thân tính làm sao đây?
Hốt Đô một mặt nhảy lên lưng ngựa một mặt nói lớn:
- Cắt lấy thủ cấp mang đi!
Đội kỵ mã của Tốc Bất Đài ầm ầm lướt qua, tức thì tại bờ sông Dã Nhi Đích Thạch đã trở thành một bãi tha ma vắng lạnh!
Để thử tinh thần của quân đội, Thành Cát Tư Hãn đã tiến hành một cuộc thực nghiệm nho nhỏ.
Một hôm, tại lều vàng của Đại Hãn, Thành Cát Tư Hãn đem một chiếc khớp ngựa có nạm vàng trao cho Thất Cát Hốt Thốc Hốt, nói:
- Nhà ngươi hãy đem bộ khớp ngựa nạm vàng này vứt đâu đó trong khu vực chăn nuôi của chúng ta.
Thất Cát Hốt Thốc Hốt hỏi:
- Để làm gì?
Thành Cát Tư Hãn đáp:
- Phái người núp ở một vị trí xa xa để theo dõi người qua đường, bất luận ai nhặt hoặc không nhặt bộ khớp ngựa nạm vàng này đều bắt về đây cho ta.
Thất Cát Hốt Thốc Hốt tuân lệnh, nói:
- Vâng!
Qua ngày hôm sau, Thất Cát Hốt Thốc Hốt hướng dẫn Thành Cát Tư Hãn đến lều riêng của Đại Phán Quan nói:
- Trong vòng một ngày có bốn người đi qua, nhưng không có ai nhặt lấy bộ khớp ngựa nạm vàng này cả.
Thành Cát Tư Hãn hỏi:
- Thế à? - Vừa nói ông vừa bước vào đại trướng.
Thành Cát Tư Hãn ngồi xuống chiếc ghế của Đại Phán Quan. Thất Cát Hốt Thốc Hốt đứng bên cạnh ông. Phía trước họ có bốn người Mông Cổ đang đứng thành một hàng.
Thành Cát Tư Hãn đưa tay chỉ một trong số bốn người đó, hỏi:
- Anh! Có phải anh không trông thấy bộ khớp ngựa này không?
Người đó đáp:
- Tôi có trông thấy.
Thành Cát Tư Hãn lại hỏi:
- Có phải anh không biết đó là một bộ khớp ngựa quí không?
Người ấy đáp:
- Có ai lại không biết? Đó là một bộ khớp ngựa nạm vàng!
- Thế tại sao anh không nhặt?
Người ấy lắc đầu đáp:
- Không! Tôi không dám! Bộ luật Đại Trác Tát có qui định, nếu ai nhặt của rơi mà không hoàn trả lại cho nguyên chủ, thì bị xem là trộm cắp, mà trộm cắp thì sẽ bị chém đầu!
Thành Cát đưa tay chỉ một người khác, hỏi:
- Tại sao anh không nhặt?
Người đó đáp:
- Tôi đã có một bộ khớp ngựa còn quí hơn bộ khớp ngựa này nữa. Đó là bộ khớp ngựa do Thiên Hộ Trưởng đã phân phối cho tôi, vì tôi đã tỏ ra dũng cảm trong trận đánh nhau với người Nải Man.
Thành Cát Tư Hãn đưa tay chỉ vào người thứ ba, hỏi:
- Còn anh, có phải anh cũng có một bộ khớp ngựa quí hơn bộ khớp ngựa đó không?
- Thưa không! Nhưng trong chiến trận sắp tới, tôi có thể có một bộ khớp ngựa quí hơn bộ này!
- Tốt! Anh có chí khí đấy! - Thành Cát Tư Hãn quay sang hai người cuối cùng: - Còn anh thì sao?
- Tôi không nhặt vì nó không phải là của tôi. Lấy những gì không phải của mình là điều đáng nhục!
- Hả?
Người ấy nói tiếp:
- Tôi còn nhớ có một lần viên Na Khả Nhi của Tát Sát Biệt Khất, thủ lĩnh của bộ lạc Chủ Nhi Khất đã ăn cắp một bộ khốp ngựa, làm cho Khả Hãn hết sức tức giận, ngài bảo trong đời của mình ghét nhất là bọn trộm cắp. Vì tất cả cái ăn cái mặc của chúng ta đều do sự lao động cần cù làm ra, hoặc lấy được từ chiến trường về, cho nên nó được đổi bằng mồ hôi và máu. Trong khi đó, kẻ trộm cắp vừa không đổ mồ hôi vừa không đổ máu, mà chiếm hữu một cách dễ dàng mồ hôi và máu của kẻ khác. Vậy cái thứ chó chốc, cái thứ quạ đen đó, chỉ có một biện pháp xử lý duy nhất: Giết!
Thành Cát Tư Hãn cười to nói:
- Tốt! Này Thất Cát Hốt Thốc Hốt, ta vốn lo ngại số quân 2.000 đang đóng giữ tại đầu nguồn ba dòng sông là quá ít, nhưng nay ta có một hậu phương mà người đi đường không nhặt của rơi thì ta còn sợ gì nữa?
Thất Cát Hốt Thốc Hốt hỏi:
- Đại Hãn định thảo phạt nước Kim ư?
Thành Cát Tư Hãn nói một cách nghiêm túc:
- Ta đã chờ đợi cái ngày đó suốt hơn 4 năm qua rồi!
Mùa xuân năm 1211, Thành Cát Tư Hãn mở đại hội thệ sư tại bờ sông Onon, nơi dựng lều và chăn nuôi của người Mông Cổ. Lá quân kỳ Thốc Hắc được treo cao trên đỉnh núi. 90 Thiên Hộ xếp thành hàng theo thứ tự, cờ xí rực rỡ, chiến mã to béo, đại đao và giáo dài san sát như rừng.
Thành Cát Tư Hãn đi nhanh lên một đỉnh đồi nhỏ nhìn về phía mặt trời đang mọc. Ông cởi sợi dây nịt vắt ngang qua cổ, lột mão đưa cao rồi quì xuống nói:
- Hỡi trời cao và các vị thần linh trên núi Bất Nhi Hãn, đôi mắt của các vị có mặt ở khắp các nơi và các vị cũng đã chứng kiến tổ tiên của chúng tôi như Yểm Ba Hài Hãn và Oát Lặc Ba Nhi Hợp Hắc đều là những người vô tội nhưng lại bị hoàng đế của nước Kim đóng đinh lên con lừa gỗ để giết chết. Mối thù hận này chúng tôi luôn ghi xương khắc cốt. Chúng tôi hôm nay sẽ đi trả thù. Chúng tôi dựa vào sức mạnh của trời cao để chiến thắng kẻ thù; dựa vào những vị thần linh chuyên lo trừ ác đề cao việc thiện, cũng như nhờ sự phù hộ của các vị tổ tiên đời trước để đánh thắng Kẻ thù.
Thành Cát Tư Hãn nhắm đôi mắt lại, trong khi tiếng hò reo sát phạt chấn động cả mặt đất. Một lúc lâu sau, ông vẫn quì yên tại chỗ.
Thành Cát Tư Hãn tiến về phía nam để đánh vương triều nhà Kim là việc mà nhiều năm qua ông rất mong muốn. Nhìn chung nguyên nhân và lý do, quá trình và thực chất của cuộc chiến tranh này, chúng ta có thể qui kết đây là một cuộc chiến tranh phục thù chống áp bức dân tộc, một cuộc chiến tranh cướp đoạt về mặt kinh tế và cũng là một cuộc chiến tranh nhằm mục đích chinh phục, giành quyền thống trị tối cao để thống nhất đất nước. Cuộc chiến tranh này là kết quả tất nhiên của sự phát triển từ các mối mâu thuẫn trong xã hội, giai cấp và dân tộc, chứ không phải là một cuộc chiến tranh của một thiểu số người có cuồng tính.