Chương 2
Tác giả: Lý Chí Thỏa
Năm 1949 tôi tròn 29 tuổi. Tôi là bác sĩ hàng hải ở Xít nây (úc). Qua báo chí tôi hiểu rằng thành phố quê hương tôi ngừng tiếng súng. Ngày 31-01-1949 tất cả dân Bắc Bình (tên gọi Bắc Kinh thời đó) đổ ra đường để đón chào những người giải phóng mình. Kéo về đây có cả lãnh đạo đảng cộng sản. Họ dự định thành lập Cộng hoà Nhân dân Trung hoa. Bắc Bình lại trở thành Bắc Kinh là thủ đô Trung quốc. Tên gọi Bắc Bình, nghĩa là bình yên phương Bắc. Tên gọi Bắc Kinh nhận được sau khi chính phủ Tưởng Giới Thạch rút về thủ đô phía nam - thành phố Nam Kinh. Nội chiến trong nước giữa những người cộng sản và Quốc dân đảng vẫn tiếp tục, nhưng không ai hoài nghi rằng về chiến thắng của hồng quân Trung quốc.
Bắc Kinh là thành phố quê hương tôi, ở đó tôi sống 13 năm đầu tiên cuộc đời. Nhà của chúng tôi xây theo phong cách truyền thống Trung hoa. Gia đình tôi giàu có và thuộc về hạng trên. Thực tế chúng tôi sống không phải trong nhà riêng biệt, mà trong một khu gồm nhiều nhà một tầng mái ngói và ba sân riêng biệt trồng cỏ và rau. Chúng tôi sống ở phía nam Cấm Thành ở khu Lưu Linh Chương. Khu này ngay lập tức bắt đầu sau bức tường dày, ngăn cách Thành Nội hoặc chỗ ở hoàng đế. Cứ mỗi năm một lần, ngày lễ Xuân, mọi người Bắc kinh đổ về đây. Tại đây có thể mua được đồ chơi Trung quốc cho trẻ con. Tên gọi Lưu Linh Chương xuất phát từ chữ Trung quốc Lưu Linh - bắt mắt. ở đây thời Minh có xưởng thợ làm ngói mạ vàng cho các toà nhà hoàng cung.
Cụ tổ tôi chết trước tôi ra đời, nhưng gia phong mà cụ lập ra vẫn được giữ gìn. Chân dung cụ treo ở một phòng mà chúng tôi thường tụ họp tất cả gia đình vài lần trong năm để ma ứtưởng nhớ cụ. Phòng thăm bệnh của cụ là bảo tàng gia đình. Cụ lập hiệu thuốc trong đó các thày lang. Cụ tôi là người giàu nhưng mọi người kính trọng và quý cụ vì cụ luôn luôn giúp đỡ người nghèo. Trong hiệu thuốc người nghèo có thể nhận thuốc không mất tiền. Không những người dân Lưu Linh Chương mà còn cả Bắc Kinh biết cụ. Tôi lớn lên trong gia đình, nơi người ta cho rằng người nghèo chịu đựng đau khổ và cần từ thiện.
Tuy nhiên do sự giàu có của chúng tôi đã tạo ra bức tường vô hình ngăn cách với các gia đình nghèo. Mẹ tôi không cho phép tôi chới với trẻ con gia đình nghèo, trong thời ấy có nhiều ở Bắc Kinh. Từ thuở thơ ấu, gia đình khuyên tôi cần tiếp tục truyền thống gia đình và trở thành bác sĩ. Tôi cho rằng tôi được sinh trong gia đình lựa chọn và tự hào về tổ tiên.
Chú tôi, em út của bố tôi, cũng trở thành bác sĩ và cũng cứu giúp người nghèo. Khi tỉnh Hồ Nam có bệnh thương hàn, chú tôi tự nguyện đến đó để cứu họ và chính ông cũng bị lây bệnh và chết khi chưa tròn 30 tuổi. Vợ goá của chú tôi và hai con trai cùng sống trong ngôi nhà chúng tôi, tôi coi họ như anh trai mình. Tôi còn có người anh, con người vợ trước của bố tôi. Anh cũng coi họ như anh em ruột của mình. Bố tôi cưới mẹ tôi sau cái chết của bà vợ đầu.
Bố tôi đã phá vỡ gia phong. Năm 1920 ông sang Pháp thực tập. Lúc ấy tôi mới ra đời. Tôi biết mặt bố mãi 7 năm sau. Qua thư từ, chúng tôi biếttrong số sinh viên của nhóm bố tôi có Chu Ân Lai, người mà ông đánh bạn. Tình bạn của họ giữ được đến tận khi bố tôi mất, dù rằng Chu Ân Lai trở thành lãnh tụ cộng sản, còn bố tôi thuộc về những người quốc gia thân Quốc dân đảng, và có chức vụ cao trong chính phủ Tưởng Giới Thạch.
Việc bố tôi quay về nước gây ra một bê bối. Ông mang theo một bà vợ người Pháp và bà cũng sống trong ngôi nhà chúng tôi. Mẹ tôi là một phụ nữ Trung quốc điển hình, xuất thân từ tầng lớp dân thường. Trên vai mẹ tôi là cả gánh nặng gia đình, kinh tế nuôi dậy con cái nhưng bà biết cách cư xử với họ hàng và người thân như bao phụ nữ chung thuỷ, đảm đang. Theo tục lệ Trung quốc việc đàn ông giàu có nhiều vợ là tương đối phổ biến. Nhưng gia phong của chúng tôi thì không chấp nhận việc xuất hiện bà vợ hai của bố mà họ cho rằng đó là sự nhục nhã cho gia đình.
Bà vợ hai của bố tôi là người ngăn nắp và có giáo dục. Bà dậy tiếng Pháp ở đại học tổng hợp Bắc Kinh đại học và luôn luôn thân thiện với tôi. Tuy nhiên tôi cảm thấy rằng mẹ tôi căn răng chịu đựng việc này. Mẹ tôi thường trút nỗi bự tức xuống đầu tôi và tôi cũng đôi khi cãi lại. Chỉ khi lớn rồi, tôi hiểu rằng trong vụ việc bố tôi có lỗi.
Thậm chí thời thơ ấu tôi không thích bố tôi. Hiếm khi bố con nói chuyện với nhau trừ khi ông chửi mắng tôi, còn tôi thì bỏ ngoài tai. Tất vả mọi người còn lại trong gia đình đối xử với nhau thân mật và kính trọng. Sự bình đẳng trong gia đình tôi đã tồn tại từ lâu, cho nên thái độ gia trưởng của bố tôi đã xúc phạm không những đến chúng tôi mà còn đến ký ức giòng họ chúng tôi. Ngay sau khi quay về Trung quốc bố tôi cùng bà vợ hai chuyển đến Nam Kinh. Sau một số năm bà vợ người pháp của ông từ trần. Ông gặp phụ nữ hết người này đến người khác nhưng chẳng cưới ai cả. Tôi rất xấu hổ về tư cách của ông, và tôi quyết tâm học hành để trở thành một bác sĩ lành nghề. Sự hằn thù của tôi đối với bố đã lây sang cả chính quyền Quốc dân đảng và trong nhiều năm tôi có mối quan hệ thân thiện với đảng cộng sản. Tuy nhiên sau này ở gần Mao, tôi lại va chạm với tính thô lỗ và vô đạo đức như từng có ở bố tôi.
Cũng như đa số người Trung quốc cùng thế hệ, tôi là người yêu nước và tự hào về nền văn hoá lâu đời của đất nước mình. Lịch sử 4000 năm của Trung quốc mang đến sự vinh quang và giàu có, triết học Trung quốc cổ đại, thi ca, sử ký đã đạt được những kỳ tích khác thường và được ngưỡng mộ khắp toàn thế giới. Vì thế tôi không thể chịu đựng, trong quá khứ đất nước vĩ đại bắt đầu xảy ra sự suy tàn. Ngay từ trong trường tôi biết nhục nhã của Trung quốc trong Chiến tranh nha phiến với Anh vào năm 1839. Sau đó lại tới Pháp, Nhậõt và Nga can thiệp. Do đó Trung quốc mất độc lập phải trở thành thuộc địa, sự hùng mạnh thuở nào biến mất dạng không còn dấu vết. Các ông chủ ngoại quốc tới đày các thành phố lớn và đất nước bắt đầu sống dưới một luật lệ mới lạ, ngược với truyền thống văn hóa và tinh thần của dân tộc Trung quốc. Từ nhỏ tôi đã nhìn thấy tận mắt chiếc biển treo ngay lối vào công viên cạnh khu phố Tây ở Thượng Hải, trên đó là dòng chữ: Cấm chó và người Trung quốc làm tôi thấy nhục nhã và đau lòng. Cũng như nhiều người, tôi cho rằng nỗi bất hạnh của đất nước Trung hoa xuất phát từ ảnh hưởng ngoại quốc hoặc là từ các thế lực đế quốc như - sau này người ta thường nói.
Năm 1931, khi tôi tròn 11 tuổi, người Nhật chiếm Bắc Mãn Châu và lập nên quốc gia bù nhìn Mãn Châu. Mẹ con chúng tôi bỏ Bắc Kinh và đi về phương nam - đến Quý Châu, nơi tôi theo học trường trung học thuộc đại học tổng hợp do phái bộ hướng đạo Mỹ thành lập. Tất cả các môn học đều bằng tiếng Anh, đúng hơn là tiếng Anh kiểu Mỹ. Chương trình học có nhiều bài phần giảng về kỷ luật tôn giáo. Tôi đã nghiên cứu tỷ mỷ lịch sử Mỹ. Năm 1935, lúc 15 tuổi tôi đã được kết nạp vào tổ chức hướng đạo.
Trong thời gian rất ngắn tôi đã quan tâm đến tư tưởng cộng sản. Người anh cùng cha khác mẹ của tôi học y khoa ở đại học tổng hợp Thượng Hải và năm 1935 vào đảng cộng sản. Cái đó chẳng xứng với vị thế và giàu có của anh tôi. Lòng yêu nước và thương dân nghèo đã thôi thúc anh tôi. Anh tôi đến Quý Châu thăm chúng tôi vào ngày nghỉ và luôn khẳng định cho tôi về sự tàn bạo và bóc lột công nhân của chủ nghĩa tư bản. Ông chỉ cho tôi rằng chỉ có những người cộng sản mới có thể xây dựng được một thế giới không có nghèo đói và bình đẳng. Theo anh tôi, Quốc dân đảng làm tay sai cho đế quốc và không có khả năng đấu tranh với xâm lược Nhật ở Mãn Châu, chỉ có những người cộng sản mới có thể đánh đuổi bọn Nhật ra khỏi đất nước Trung quốc. Tôi nghe anh tôi và bắt đầu tin vào khả năng hồi sinh lại đất nước Trung hoa giàu có, văn minh và độc lập trên nguyên tắc các bên cùng bình đẳng và cùng có lợi. Tôi bắt đầu chú trọng đọc những cuốn sách mà anh tôi đưa cho: Lịch sử kế hoạch 5 năm của Liên-xô Thép đã tôi thế đấy của Nicolai Oxtovxky và cả sách của nhà văn Pháp Henry Barbus về vai trò xuất sắc của Stalin trong việc chuẩn bị và thực hiên cách mạng tháng 10 vĩ đại ở Nga. Anh vạch cho tôi thấy chỉ có ý tưởng cộng sản mới cứu được Trung quốc và và các lãnh tụ cộng sản xuất sắc như Chu Đức và Mao Trạch Đông mới dẫn dắt đất nước đến kinh tế và tinh thần sanựg lạn. Số phận Trung quốc trong tay họ. Chúng tôi và anh gọi họ là Chu Mao, dường như đó là một người. Từ ấy, tôi bắt đầu đọc Chu Mao và lòng tin này dần dà tăng lên, khi tôi hiểu rằng Lỗ Tấn nhà văn yêu quý của tôi cũng thiên về lý tưởng cộng sản. Năm 1936 một người chị họ giới thiệu tôi với cô bạn cùng lớp của chị. Cô ta tên là Võ Tương Thanh - hay là Võ Lý Liên (theo tên thánh), và tôi thấy phải lòng cô ấy từ cái nhìn đầu tiên. Cô cũng xuất thân từ gia đình giầu có. Mười năm sau chúng tôi mới cưới nhau.
Quân Nhật tràn vào đất nước và chúng tôi cùng mẹ đầu tiên chạy về Vũ Hán năm 1937, sau đó chạy về Trùng Khánh tỉnh Tứ Xuyên. Thành phố này Tưởng Giới Thạch năm 1938 coi là thủ đô của Quốc dân đảng. Cuối năm 1934 căn cứ địa của đảng cộng sản Trung quốc ở Giang Tây bị quân đội Quốc dân đảng bao vây, nên trong tháng 10, lực lượng chính của Hồng quân, bị rơi vào vòng vây, đã phải làm cuộc đi bộ vĩ đại và anh hùng sang phía tây Trung quốc để nhập với căn cứ khác. Cuộc hành quân này kết thúc cuối năm 1935 ở tỉnh Thiểm Tây và viết nên trang sử hào hùng của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Trung quốc. Anh tôi và chị họ tôi cũng đến đó.
Năm 1939 tôi bắt đầu học y khoa ở trường đại học y đại học tổng hợp phía tây Trung quốc, được phái bộ Canada lập ra gần một thế kỷ trước ở thành Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên. Sau khi Nhật chiếm Bắc Kinh nhiều khoa và sinh viên trường y Bắc Kinh chuyển về Thành Đô, sau năm 1941 các bộ phận này hợp nhất làm một. Cả hai trường đều được Mỹ, đúng ra là quỹ Rốc-cơ-phen-lơ, tài trợ. Phần đông giáo sư là người Mỹ. Bài giảng bằng tiếng Anh, tác giả sách giáo khoa là những nhà y học đầu ngành xuất sắc của phương tây. Vì thế trình độ học vấn của chúng tôi rất cao và tương ứng với những tiêu chuẩn mà Mỹ và các nước châu Âu chấp nhận.
Sau khi học xong, tôi được trao hai bằng: bằng tốt nghiệp trường y khoa thuộc đại học tổng hợp tây Trung quốc và bằng tốt nghiệp đại học tổng hợp New York.
Lý Liên đầu tiên dự thính những bài giảng ngắn về xã hội học ở đại học tổng hợp Phương Đông Trùng Khánh, nhưng rồi sau chuyển sang học trường nữ sinh thiên chúa giáo ở Thành Đô.
Tôi kết thúc thực hành mổ vào năm 1945, đồng thời với sự thua trận của Nhật Bản. Tôi nhận việc làm trong một bệnh viện đa khoa trung ương Nam Kinh, được trang bị thiết bị hiện đại nhất, nơi tụ hợp các bác sĩ giỏi nhất. Tôi muốn được học chuyên môn hẹp là phẫu thuật nơ-ron. Tháng 11-1946 tôi và Lý Liên cuối cùng kết hôn với nhau. Lý Liên khi đó làm ở thư viện thuộc sứ quán Anh.
Nội chiến giữa những người cộng sản và Quốc dân đảng tiếp tục. Do lạm phát nên cuộc sống khó khăn vô cùng. Lý Liên nhận lương ở Sứ quán Anh không đến nỗi tồi - khoảng 150 đô-la/tháng, người ta trả bằng đồng bảng Anh. Tuy nhiên tôi nhận được khoảng 25 đô la Mỹ nhưng nhận bằng tiền Trung quốc. Tiền này tôi tức thời đem ra chợ đen đổi ngay sang đôla Mỹ hoặc đôla Mehico đúc bằng bạc. Lạm phát phi mã đến nỗi nếu tiền vào buổi sáng đủ mua ba quả trứng thì đến chiều chỉ mua nổi một quả. Người ta chở tiền lên xe kéo, giá gạo tăng đến mức những người tuyệt vọng trước đây không bao giờ nghĩ tới ăn cắp thì nay lao vào cướp lấy những gì có thể lấy được.
Trong cơn khủng hoảng này, Đặng Ninh Hoàng, bạn cùng lớp của tôi, đang là bác sĩ làm việc ở Hồng Kông gợi ý tôi chuyển đến đó. Cuộc sống ở đó ổn định và nghề bác sĩ kiếm được số tiền không nhỏ.
Đối với tôi, quyết định chẳng dễ dàng gì. Đồng ý là, ở Hồng Kông chúng tôi có thể sống tốt hơn, tuy nhiên trình độ y học ở đó thấp hơn đáng kể so với ở Trung quốc, và một thày thuốc phẫu thuật như tôi có thể bị mai một nghề nghiệp. Nhưng nội chiến vẫn còn tiếp tục, và Lý Liên khuyên tôi đi khỏi tổ quốc. Tháng 12 năm 1948 tôi rời Nam Kinh và đi Hồng Kông.
Nhưng sống ở đó không lâu. Cũng năm ấy tôi nhận việc ở một hãng nằm ở đông úc và trở thành bác sĩ ở Xít nây. Dần dà, tôi theo các đoàn tàu qua lại úc và Tân Tây lan. Tôi hoàn toàn mãn nguyện. Lý Liên chuyển sang Hồng Kông, thuê nhà và kiếm việc trong một cơ quan của người Anh. Tôi không muốn vợ tôi chuyển sang úc với tôi. úc là nơi người ta chẳng yêu quý gì dân da vàng. Vì thế tôi cũng chẳng có ý định sống lâu dài ở Xít nây và tôi chỉ mê mải thực hành y học ở đó để hy vọng kiếm một cái gì đó để phòng thân. Tôi chưa nhận quyền công dân úc. Niềm tự hào và tự ái của tôi không thể hoà hợp được với những người bảo hoàng có tư tưởng phân biệt chủng tộc ở đây. Tôi sống trong một căn lều trại nhỏ, và những người úc mà tôi nói chuyện, đều một giọng cho rằng Trung quốc không khi nào hồi sinh được. Tôi rất tức nhưng tôi lại còn cần tiền, đúng thế và ở Hồng Kông cũng chẳng vui hơn. Lẽ nào chúng tôi vẫn mãi là thuộc địa Anh nơi tôi chỉ là nô lệ bị tước đoạt mọi quyền lợi của quốc gia hải ngoại.
Khi những người cộng sản chiếm Bắc Kinh, tôi cảm thấy trong lòng trào lên nỗi mừng không tả được. Tháng 2-1949 Hồng quân Trung quốc đè bẹp quân Anh và vượt qua sông Dương Tử, sự kiện này làm tôi sung sướng tột độ. Tôi cũng tin rằng với chiến thắng của những người cộng sản Trung quốc thì bọn cai trị nước ngoài sẽ cuốn xéo và đất nước được giải phóng khỏi ách sánh vai với các nước trên thế giới.
Rồi tôi đã nhận được thư của mẹ tôi. Bà đã quay về Bắc Kinh. Mẹ tôi gửi kèm thư của anh tôi, vừa quay về thành phố quê hương và giờ đây giữ một chức vụ trong Cục bảo vệ sức khoẻ thuộc ủy ban quân sự đảng cộng sản Trung quốc. Anh tôi rất sung sướng và rất mong tôi trở về.
ở Trung quốc còn thiếu các bác sĩ lành nghề - anh tôi viết - chính phủ mới đảm bảo cho chú công việc tốt, và toàn thể gia đình tôi lại đoàn tụ.
Tôi lại băn khoăn. Cuộc sống ở Xít nây đang yên ổn và tốt đẹp. Vợ và mẹ tôi còn có cơ hội đến đây được với tôi. Ngoài ra, tôi có thể giúp mẹ tôi ở Bắc Kinh tiền nong.
Chỉ có một điều tôi không hoài nghi. ở đây, úc, không khi nào tôi thành bác sĩ phẫu thuật nơ-ron, vì lẽ tôi là người Trung quốc. Dĩ nhiên, tôi có thể kiếm được hàng đống tiền, nhưng luôn luôn mặc cảm mình là người xa lạ bị đuổi khỏi tổ quốc. Đây có phải là lòng yêu nước của tôi không?
Gần đến ngày thanh minh. Tôi dự định tổ chức ngày lễ này vơi anh bạn thân Alex Young. Alex sinh ở úc, nhưng vẫn cố gắng giữ nhiều phong tục Trung quốc. Anh ta và vợ làm việc chăm chỉ. Họ có một cửa hàng tạp hoá ở phố Elizabet
Khi tôi gặp, Alex ngay lập tức nhận xét rằng tôi có một cái gì đó mất hồn. Tôi kể cho anh ta nghe tất cả.
- Cần phải nghĩ cho kỹ đấy - Alex nói.
- Anh tính thế nào? - tôi hỏi.
- Tôi không thể là cố vấn của anh - Alex Young chậm rãi - Gia đình tôi ở đây, ở úc. Thậm chí nếu họ hứa với tôi là trả lương tôi hậu hĩnh ở Bắc Kinh, thì tôi cũng chẳng nghĩ tới quay lại. Đúng là ở đây có tệ phân biệt chủng tộc, nhưng dân số thì không nhiều, và có thể sống dễ chịu. Vì sao anh không viết cho anh trai và hỏi tỷ mỉ về công việc, và để họ nói cho mình lương lậu ra sao chứ? Sau đó chúng ta so sánh tiếp.
Lời của Alex thức tỉnh lòng yêu nước của tôi. Tôi hoàn toàn không để ý ở đâu kiếm được nhiều tiền hơn. Nếu những người cộng sản đưa Trung quốc đến giàu có thì tôi sẵn sàng hy sinh cho hạnh phúc của tổ quốc mình.
Nhưng Alex, tất nhiên, là đúng: tôi phải biết tất cả một cách tỷ mỉ. Ngay chiều đó tôi viết cho anh tôi.
Đầu tháng 5 tôi nhận được thư trả lời. Anh tôi lại giục tôi về nước. Anh kèm thư của thủ trưởng của anh, Phó Liêm Chương, phó cục trưởng cục bảo vệ sức khoẻ thuộc ủy ban quân sự đảng cộng sản Trung quốc. Phó Liêm Chương, ở nước ngoài gọi là Nelson Phó, là một nhà y học nổi tiếng của Trung quốc. Đồng thời ông cũng là bác sĩ duy nhất được đào tạo ở phương tây tham gia Trường Chinh. Năm 1934 ông chưa cho Mao khỏi sốt rét và trong thời gian chiến tranh theo dõi sức khoẻ lãnh tụ đảng cộng sản Trung quốc ở Diên An.
Thư của Phó ngắn ngủn, nhưng trong đó sự nồng nhiệt và và lòng chân thành đã giảm bớt. Ông mời tôi trở về và đề nghị tin vào những người bác sĩ Trung quốc khác. Về công việc của tôi ở Bắc Kinh và về lương lậu Phó không nói gì, chỉ bâng quơ rằng tôi sẽ hài lòng về công việc. Tôi được ông tâng bốc là được giữ chức vụ cao, và yêu cầu tôi trở về. Vì đảng cộng sản rất thiếu thày thuốc lành nghề. Tôi nghĩ mình đã tìm thấy chỗ đứng ở nước Trung hoa mới. Tôi quyết định nhanh chóng về nước.
Alex Yuong tổ chức bữa ăn gĩa từ. Có hai người Trung quốc, cũng là bác sĩ. Họ bảo tôi viết cho họ từ Bắc Kinh, và thêm rằng nếu tôi thấy khó sống, họ có thể giúp tôi quay sang úc.
Tôi chẳng khi nào viết cho anh ta cả. Ba mươi sáu năm sau, năm 1985 tôi ở úc theo lời mời của hiệp hội bác sĩ úc và có mặt ở đại lộ Elizabet hy vọng thấy Alex Yuong. Nhưng tất cả đã thay đổi, và cửa hàng nhỏ của anh ta không còn đó. Tôi không còn thấy Alex Yuong nữa.
Thế là chúng tôi và Lý Liên lại đoàn tụ. Giữa tháng 5-1949 có cuộc xáo lộn ở thuộc địa Anh. Hàng nghìn người đã chạy về đây tránh họa cộng sản và hàng nghìn người chuẩn bị quay về đất mẹ. Hiện tượng này thật lạ lùng và không bình thường. Khi gặp Đặng Ninh Hoàng và kể về quyết định của tôi quay về Trung quốc, anh ta lắc đầu quầy quậy Chẳng lẽ anh không thể ở lại đây và làm việc với tôi? - ông hỏi. Tôi kể cho anh ta thư của Phó Liêm Chương. Đặng buông lời: Thôi, ông tự quyết lấy. Nếu mọi việc xuôi xẻ thì viết cho tôi. Có thể, cả tôi cũng về tổ quốc.
Tôi chẳng bao giờ viết cho anh ta được cả.
Tôi cùng Lý Liên tới thăm ông Trương Thành Đô giáo sư quen biết đại học tổng hợp Phương Đông. Ông cũng về Bắc Kinh. Người ta xếp ông vào đoàn đại biểu hội đồng hiệp thương chính trị Trung quốc. Đảng cộng sản lôi kéo thêm các trí thức không đảng phái vào một mặt trận duy nhất, trong diễn đàn được triệu tập để bày tỏ cho các lực lượng dân chủ và giải quyết vấn đề chính quyền ở trong nước. Chúng tôi nghĩ lúc đó chính phủ cộng sản sử dụng tri thức để kéo đất nước ra khỏi khủng hoảng. ở Trung quốc đều có tương lai - ông nói - cả nước đang trên đường hồi sinh.
Phiên họp đầu tiên ủy ban hiệp thương được tổ chức cuối tháng 9. 1949, đã đi tới quyết định thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa và bầu ra chính phủ mới do Chủ tịch Mao Trạch Đông đứng đầu. Phó chủ tịch của Mao là Lưu Thiếu Kỳ, bạn chiến đấu của ông và Tống Khánh Linh, vợ goá của nhà cách mạng vĩ đại Tôn Trung Sơn, người đã đánh đổ triều Thanh và lập nên nước cộng hoà Trung hoa từ 1912. Nhưng rõ rằng là ủy ban hiệp thương chính trị nhân dân chỉ là một cây cảnh cho nền dân chủ - mọi việc điều hành trong nước nằm trong tay những người cộng sản. ủy ban hiệp thương chính trị nhân dân chỉ là lọ cắm hoa cho vui mắt nhưng hoàn toàn vô tích sự. Ai đó trong số thành viên ủy ban này tỏ ra dũng cảm phát biểu bày tỏ quan điểm của mình mà không hợp với quan điểm của những người lãnh đạo cộng sản thì sẽ bị buộc tội hữu khuynh, bị lăng nhục thô bạo và bị trừng phạt nặng. Một trong số những người như thế là giáo sư Trương Thành Đô. Năm 1957 người ta buộc tội ông hữu khuynh và tống ông đi cải tạo trong trại lao động khổ sai. Ông được phục hồi hai mươi năm sau đó và khi được tự do thì thành một ông già thiểu não, không nơi nương tựa.
Tuy nhiên trong những năm đầu tiên, trước khi bắt đầu đàn áp hàng loạt, tôi cảm thấy rằng những người cộng sản điều hành đất nước là hoàn toàn tự nhiên và đúng đắn. Tôi khâm phục đảng của họ. Toàn thể nhân dân Trung quốc đặt niềm tin vào đảng. Tại úc tôi gần như người mù được người ta dẫn đến tương lai tươi sáng. ý tưởng xây dựng một mặt trận thống nhất đã trở thành ngôi sao dẫn đường cho tôi. Tài năng bác sĩ của tôi cần cho đất nước. Chúng tôi, trí thức, sẽ được trọng dụng và thậm chí còn được tham gia điều hành đất nước. Tôi nhìn thấy một số hành động của những người lãnh đạo cộng sản đi ngược với những nguyên tắc mà đảng đề ra, nhưng cho rằng đó chỉ là sai sót nhỏ và mà thể tránh khỏi.
Một người bạn sống với tôi ở Hồng Kông, giới thiệu tôi một người tên là Dương. Ông này có chức vụ trong giới lãnh đạo đảng và phụ trách vấn đề lôi kéo các nhà chuyên môn từng bỏ ra nước ngoài quay trở về Trung quốc. Anh bạn thân khuyên tôi nên biếu cho Dương một món quà để ông ta đảm bảo việc trở về Trung quốc được tốt đẹp. Nhờ ông Dương, anh có thể kiếm được một công việc thu nhập cao ở một trường y khoa ở Bắc Kinh. Một chiếc đồng hồ Thụy sĩ không phải là món quà tồi với ông ấy. Để được ông ấy cho về làm ở Bắc Kinh, thì việc trả một món quà như thế cũng không phải là quá đắt.
Chẳng lẽ ông Dương mà cũng nhận những khoản tiền hối lộ bẩn thỉu từng được coi là nguồn gốc làm giàu ở Trung hoa hàng nghìn năm nay. Tôi nghĩ rằng nạn tham nhũng là xa lạ với những người cộng sản, khi mà họ đã thức tỉnh được hàng triệu người đứng dậy chiến đấu chống Quốc dân đảng, và thế là tôi từ chối đưa quà cho ông Dương. Người cộng sản không bị mua chuộc - tôi nói với các bạn - và tôi sẽ tự kiếm tiền để sống bằng khả năng và trí tuệ của mình.
Về sau tôi không gặp Dương nữa. Nhưng một thời gian sau ông Dương xuất hiện trên chính trường với tư cách là người lãnh đạo đảng dân chủ. Thực tế đây là thủ đoạn chính trị đối với dân chủ. Dương chưa bao giờ ra khỏi hàng ngũ đảng cộng sản Trung quốc và làm việc bí mật ở bộ công an. Trong Hội đồng hiệp thương chính trị nhân dân nhiều thành viên đeo mặt nạ dân chủ.
Năm 1956 tôi kể cho Mao câu chuyện về ý nghĩ hối lộ Dương. Chủ tịch cười phá lên: Vì sao các anh, lũ trí thức ăn bám lại keo kiệt đến thế nhỉ? Anh như người trên trời rơi xuống, anh phải biết tính tham lam của con người chứ. Cá không thể sống trong nước sạch được. Món quà chẳng mang một giá trị nào cả. Chẳng lẽ Quách Mạc Nhược không tặng được tôi chiếc đồng hồ khi hội đàm ở Trùng Khánh hay sao?
Mùa thu 1949 Hồng Kông giống như ong vỡ tổ. nhưng tôi còn trẻ, bồng bột và ảo tưởng và ảo tưởng. Tôi trở về tổ quốc và nhận việc tại một bệnh viện đa khoa lớn ở Bắc Kinh. Tôi có thể sống xứng đáng với truyền thống gốc gác của tôi và tin vào lời thề của Hyppocrat chữa bệnh và cứu tất cả đồng bào giàu cũng như nghèo. Tôi sẽ trở thành nhà phẫu thuật nơ-ron xuất sắc. Y học là kho báu của tôi đẻ xây dựng nước Trung hoa mới, thịnh vượng và hùng mạnh, không có bất công và thối nát.
Chúng tôi cùng Lý Liên rời Hồng Kông về Bắc Kinh vào giữa tháng sáu 1949. Tính ra tôi xa thành phố chôn rau cắt rốn này gần 17 năm.
Năm 1949 tôi tròn 29 tuổi. Tôi là bác sĩ hàng hải ở Xít nây (úc). Qua báo chí tôi hiểu rằng thành phố quê hương tôi ngừng tiếng súng. Ngày 31-01-1949 tất cả dân Bắc Bình (tên gọi Bắc Kinh thời đó) đổ ra đường để đón chào những người giải phóng mình. Kéo về đây có cả lãnh đạo đảng cộng sản. Họ dự định thành lập Cộng hoà Nhân dân Trung hoa. Bắc Bình lại trở thành Bắc Kinh là thủ đô Trung quốc. Tên gọi Bắc Bình, nghĩa là bình yên phương Bắc. Tên gọi Bắc Kinh nhận được sau khi chính phủ Tưởng Giới Thạch rút về thủ đô phía nam - thành phố Nam Kinh. Nội chiến trong nước giữa những người cộng sản và Quốc dân đảng vẫn tiếp tục, nhưng không ai hoài nghi rằng về chiến thắng của hồng quân Trung quốc.
Bắc Kinh là thành phố quê hương tôi, ở đó tôi sống 13 năm đầu tiên cuộc đời. Nhà của chúng tôi xây theo phong cách truyền thống Trung hoa. Gia đình tôi giàu có và thuộc về hạng trên. Thực tế chúng tôi sống không phải trong nhà riêng biệt, mà trong một khu gồm nhiều nhà một tầng mái ngói và ba sân riêng biệt trồng cỏ và rau. Chúng tôi sống ở phía nam Cấm Thành ở khu Lưu Linh Chương. Khu này ngay lập tức bắt đầu sau bức tường dày, ngăn cách Thành Nội hoặc chỗ ở hoàng đế. Cứ mỗi năm một lần, ngày lễ Xuân, mọi người Bắc kinh đổ về đây. Tại đây có thể mua được đồ chơi Trung quốc cho trẻ con. Tên gọi Lưu Linh Chương xuất phát từ chữ Trung quốc Lưu Linh - bắt mắt. ở đây thời Minh có xưởng thợ làm ngói mạ vàng cho các toà nhà hoàng cung.
Cụ tổ tôi chết trước tôi ra đời, nhưng gia phong mà cụ lập ra vẫn được giữ gìn. Chân dung cụ treo ở một phòng mà chúng tôi thường tụ họp tất cả gia đình vài lần trong năm để ma ứtưởng nhớ cụ. Phòng thăm bệnh của cụ là bảo tàng gia đình. Cụ lập hiệu thuốc trong đó các thày lang. Cụ tôi là người giàu nhưng mọi người kính trọng và quý cụ vì cụ luôn luôn giúp đỡ người nghèo. Trong hiệu thuốc người nghèo có thể nhận thuốc không mất tiền. Không những người dân Lưu Linh Chương mà còn cả Bắc Kinh biết cụ. Tôi lớn lên trong gia đình, nơi người ta cho rằng người nghèo chịu đựng đau khổ và cần từ thiện.
Tuy nhiên do sự giàu có của chúng tôi đã tạo ra bức tường vô hình ngăn cách với các gia đình nghèo. Mẹ tôi không cho phép tôi chới với trẻ con gia đình nghèo, trong thời ấy có nhiều ở Bắc Kinh. Từ thuở thơ ấu, gia đình khuyên tôi cần tiếp tục truyền thống gia đình và trở thành bác sĩ. Tôi cho rằng tôi được sinh trong gia đình lựa chọn và tự hào về tổ tiên.
Chú tôi, em út của bố tôi, cũng trở thành bác sĩ và cũng cứu giúp người nghèo. Khi tỉnh Hồ Nam có bệnh thương hàn, chú tôi tự nguyện đến đó để cứu họ và chính ông cũng bị lây bệnh và chết khi chưa tròn 30 tuổi. Vợ goá của chú tôi và hai con trai cùng sống trong ngôi nhà chúng tôi, tôi coi họ như anh trai mình. Tôi còn có người anh, con người vợ trước của bố tôi. Anh cũng coi họ như anh em ruột của mình. Bố tôi cưới mẹ tôi sau cái chết của bà vợ đầu.
Bố tôi đã phá vỡ gia phong. Năm 1920 ông sang Pháp thực tập. Lúc ấy tôi mới ra đời. Tôi biết mặt bố mãi 7 năm sau. Qua thư từ, chúng tôi biếttrong số sinh viên của nhóm bố tôi có Chu Ân Lai, người mà ông đánh bạn. Tình bạn của họ giữ được đến tận khi bố tôi mất, dù rằng Chu Ân Lai trở thành lãnh tụ cộng sản, còn bố tôi thuộc về những người quốc gia thân Quốc dân đảng, và có chức vụ cao trong chính phủ Tưởng Giới Thạch.
Việc bố tôi quay về nước gây ra một bê bối. Ông mang theo một bà vợ người Pháp và bà cũng sống trong ngôi nhà chúng tôi. Mẹ tôi là một phụ nữ Trung quốc điển hình, xuất thân từ tầng lớp dân thường. Trên vai mẹ tôi là cả gánh nặng gia đình, kinh tế nuôi dậy con cái nhưng bà biết cách cư xử với họ hàng và người thân như bao phụ nữ chung thuỷ, đảm đang. Theo tục lệ Trung quốc việc đàn ông giàu có nhiều vợ là tương đối phổ biến. Nhưng gia phong của chúng tôi thì không chấp nhận việc xuất hiện bà vợ hai của bố mà họ cho rằng đó là sự nhục nhã cho gia đình.
Bà vợ hai của bố tôi là người ngăn nắp và có giáo dục. Bà dậy tiếng Pháp ở đại học tổng hợp Bắc Kinh đại học và luôn luôn thân thiện với tôi. Tuy nhiên tôi cảm thấy rằng mẹ tôi căn răng chịu đựng việc này. Mẹ tôi thường trút nỗi bự tức xuống đầu tôi và tôi cũng đôi khi cãi lại. Chỉ khi lớn rồi, tôi hiểu rằng trong vụ việc bố tôi có lỗi.
Thậm chí thời thơ ấu tôi không thích bố tôi. Hiếm khi bố con nói chuyện với nhau trừ khi ông chửi mắng tôi, còn tôi thì bỏ ngoài tai. Tất vả mọi người còn lại trong gia đình đối xử với nhau thân mật và kính trọng. Sự bình đẳng trong gia đình tôi đã tồn tại từ lâu, cho nên thái độ gia trưởng của bố tôi đã xúc phạm không những đến chúng tôi mà còn đến ký ức giòng họ chúng tôi. Ngay sau khi quay về Trung quốc bố tôi cùng bà vợ hai chuyển đến Nam Kinh. Sau một số năm bà vợ người pháp của ông từ trần. Ông gặp phụ nữ hết người này đến người khác nhưng chẳng cưới ai cả. Tôi rất xấu hổ về tư cách của ông, và tôi quyết tâm học hành để trở thành một bác sĩ lành nghề. Sự hằn thù của tôi đối với bố đã lây sang cả chính quyền Quốc dân đảng và trong nhiều năm tôi có mối quan hệ thân thiện với đảng cộng sản. Tuy nhiên sau này ở gần Mao, tôi lại va chạm với tính thô lỗ và vô đạo đức như từng có ở bố tôi.
Cũng như đa số người Trung quốc cùng thế hệ, tôi là người yêu nước và tự hào về nền văn hoá lâu đời của đất nước mình. Lịch sử 4000 năm của Trung quốc mang đến sự vinh quang và giàu có, triết học Trung quốc cổ đại, thi ca, sử ký đã đạt được những kỳ tích khác thường và được ngưỡng mộ khắp toàn thế giới. Vì thế tôi không thể chịu đựng, trong quá khứ đất nước vĩ đại bắt đầu xảy ra sự suy tàn. Ngay từ trong trường tôi biết nhục nhã của Trung quốc trong Chiến tranh nha phiến với Anh vào năm 1839. Sau đó lại tới Pháp, Nhậõt và Nga can thiệp. Do đó Trung quốc mất độc lập phải trở thành thuộc địa, sự hùng mạnh thuở nào biến mất dạng không còn dấu vết. Các ông chủ ngoại quốc tới đày các thành phố lớn và đất nước bắt đầu sống dưới một luật lệ mới lạ, ngược với truyền thống văn hóa và tinh thần của dân tộc Trung quốc. Từ nhỏ tôi đã nhìn thấy tận mắt chiếc biển treo ngay lối vào công viên cạnh khu phố Tây ở Thượng Hải, trên đó là dòng chữ: Cấm chó và người Trung quốc làm tôi thấy nhục nhã và đau lòng. Cũng như nhiều người, tôi cho rằng nỗi bất hạnh của đất nước Trung hoa xuất phát từ ảnh hưởng ngoại quốc hoặc là từ các thế lực đế quốc như - sau này người ta thường nói.
Năm 1931, khi tôi tròn 11 tuổi, người Nhật chiếm Bắc Mãn Châu và lập nên quốc gia bù nhìn Mãn Châu. Mẹ con chúng tôi bỏ Bắc Kinh và đi về phương nam - đến Quý Châu, nơi tôi theo học trường trung học thuộc đại học tổng hợp do phái bộ hướng đạo Mỹ thành lập. Tất cả các môn học đều bằng tiếng Anh, đúng hơn là tiếng Anh kiểu Mỹ. Chương trình học có nhiều bài phần giảng về kỷ luật tôn giáo. Tôi đã nghiên cứu tỷ mỷ lịch sử Mỹ. Năm 1935, lúc 15 tuổi tôi đã được kết nạp vào tổ chức hướng đạo.
Trong thời gian rất ngắn tôi đã quan tâm đến tư tưởng cộng sản. Người anh cùng cha khác mẹ của tôi học y khoa ở đại học tổng hợp Thượng Hải và năm 1935 vào đảng cộng sản. Cái đó chẳng xứng với vị thế và giàu có của anh tôi. Lòng yêu nước và thương dân nghèo đã thôi thúc anh tôi. Anh tôi đến Quý Châu thăm chúng tôi vào ngày nghỉ và luôn khẳng định cho tôi về sự tàn bạo và bóc lột công nhân của chủ nghĩa tư bản. Ông chỉ cho tôi rằng chỉ có những người cộng sản mới có thể xây dựng được một thế giới không có nghèo đói và bình đẳng. Theo anh tôi, Quốc dân đảng làm tay sai cho đế quốc và không có khả năng đấu tranh với xâm lược Nhật ở Mãn Châu, chỉ có những người cộng sản mới có thể đánh đuổi bọn Nhật ra khỏi đất nước Trung quốc. Tôi nghe anh tôi và bắt đầu tin vào khả năng hồi sinh lại đất nước Trung hoa giàu có, văn minh và độc lập trên nguyên tắc các bên cùng bình đẳng và cùng có lợi. Tôi bắt đầu chú trọng đọc những cuốn sách mà anh tôi đưa cho: Lịch sử kế hoạch 5 năm của Liên-xô Thép đã tôi thế đấy của Nicolai Oxtovxky và cả sách của nhà văn Pháp Henry Barbus về vai trò xuất sắc của Stalin trong việc chuẩn bị và thực hiên cách mạng tháng 10 vĩ đại ở Nga. Anh vạch cho tôi thấy chỉ có ý tưởng cộng sản mới cứu được Trung quốc và và các lãnh tụ cộng sản xuất sắc như Chu Đức và Mao Trạch Đông mới dẫn dắt đất nước đến kinh tế và tinh thần sanựg lạn. Số phận Trung quốc trong tay họ. Chúng tôi và anh gọi họ là Chu Mao, dường như đó là một người. Từ ấy, tôi bắt đầu đọc Chu Mao và lòng tin này dần dà tăng lên, khi tôi hiểu rằng Lỗ Tấn nhà văn yêu quý của tôi cũng thiên về lý tưởng cộng sản. Năm 1936 một người chị họ giới thiệu tôi với cô bạn cùng lớp của chị. Cô ta tên là Võ Tương Thanh - hay là Võ Lý Liên (theo tên thánh), và tôi thấy phải lòng cô ấy từ cái nhìn đầu tiên. Cô cũng xuất thân từ gia đình giầu có. Mười năm sau chúng tôi mới cưới nhau.
Quân Nhật tràn vào đất nước và chúng tôi cùng mẹ đầu tiên chạy về Vũ Hán năm 1937, sau đó chạy về Trùng Khánh tỉnh Tứ Xuyên. Thành phố này Tưởng Giới Thạch năm 1938 coi là thủ đô của Quốc dân đảng. Cuối năm 1934 căn cứ địa của đảng cộng sản Trung quốc ở Giang Tây bị quân đội Quốc dân đảng bao vây, nên trong tháng 10, lực lượng chính của Hồng quân, bị rơi vào vòng vây, đã phải làm cuộc đi bộ vĩ đại và anh hùng sang phía tây Trung quốc để nhập với căn cứ khác. Cuộc hành quân này kết thúc cuối năm 1935 ở tỉnh Thiểm Tây và viết nên trang sử hào hùng của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Trung quốc. Anh tôi và chị họ tôi cũng đến đó.
Năm 1939 tôi bắt đầu học y khoa ở trường đại học y đại học tổng hợp phía tây Trung quốc, được phái bộ Canada lập ra gần một thế kỷ trước ở thành Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên. Sau khi Nhật chiếm Bắc Kinh nhiều khoa và sinh viên trường y Bắc Kinh chuyển về Thành Đô, sau năm 1941 các bộ phận này hợp nhất làm một. Cả hai trường đều được Mỹ, đúng ra là quỹ Rốc-cơ-phen-lơ, tài trợ. Phần đông giáo sư là người Mỹ. Bài giảng bằng tiếng Anh, tác giả sách giáo khoa là những nhà y học đầu ngành xuất sắc của phương tây. Vì thế trình độ học vấn của chúng tôi rất cao và tương ứng với những tiêu chuẩn mà Mỹ và các nước châu Âu chấp nhận.
Sau khi học xong, tôi được trao hai bằng: bằng tốt nghiệp trường y khoa thuộc đại học tổng hợp tây Trung quốc và bằng tốt nghiệp đại học tổng hợp New York.
Lý Liên đầu tiên dự thính những bài giảng ngắn về xã hội học ở đại học tổng hợp Phương Đông Trùng Khánh, nhưng rồi sau chuyển sang học trường nữ sinh thiên chúa giáo ở Thành Đô.
Tôi kết thúc thực hành mổ vào năm 1945, đồng thời với sự thua trận của Nhật Bản. Tôi nhận việc làm trong một bệnh viện đa khoa trung ương Nam Kinh, được trang bị thiết bị hiện đại nhất, nơi tụ hợp các bác sĩ giỏi nhất. Tôi muốn được học chuyên môn hẹp là phẫu thuật nơ-ron. Tháng 11-1946 tôi và Lý Liên cuối cùng kết hôn với nhau. Lý Liên khi đó làm ở thư viện thuộc sứ quán Anh.
Nội chiến giữa những người cộng sản và Quốc dân đảng tiếp tục. Do lạm phát nên cuộc sống khó khăn vô cùng. Lý Liên nhận lương ở Sứ quán Anh không đến nỗi tồi - khoảng 150 đô-la/tháng, người ta trả bằng đồng bảng Anh. Tuy nhiên tôi nhận được khoảng 25 đô la Mỹ nhưng nhận bằng tiền Trung quốc. Tiền này tôi tức thời đem ra chợ đen đổi ngay sang đôla Mỹ hoặc đôla Mehico đúc bằng bạc. Lạm phát phi mã đến nỗi nếu tiền vào buổi sáng đủ mua ba quả trứng thì đến chiều chỉ mua nổi một quả. Người ta chở tiền lên xe kéo, giá gạo tăng đến mức những người tuyệt vọng trước đây không bao giờ nghĩ tới ăn cắp thì nay lao vào cướp lấy những gì có thể lấy được.
Trong cơn khủng hoảng này, Đặng Ninh Hoàng, bạn cùng lớp của tôi, đang là bác sĩ làm việc ở Hồng Kông gợi ý tôi chuyển đến đó. Cuộc sống ở đó ổn định và nghề bác sĩ kiếm được số tiền không nhỏ.
Đối với tôi, quyết định chẳng dễ dàng gì. Đồng ý là, ở Hồng Kông chúng tôi có thể sống tốt hơn, tuy nhiên trình độ y học ở đó thấp hơn đáng kể so với ở Trung quốc, và một thày thuốc phẫu thuật như tôi có thể bị mai một nghề nghiệp. Nhưng nội chiến vẫn còn tiếp tục, và Lý Liên khuyên tôi đi khỏi tổ quốc. Tháng 12 năm 1948 tôi rời Nam Kinh và đi Hồng Kông.
Nhưng sống ở đó không lâu. Cũng năm ấy tôi nhận việc ở một hãng nằm ở đông úc và trở thành bác sĩ ở Xít nây. Dần dà, tôi theo các đoàn tàu qua lại úc và Tân Tây lan. Tôi hoàn toàn mãn nguyện. Lý Liên chuyển sang Hồng Kông, thuê nhà và kiếm việc trong một cơ quan của người Anh. Tôi không muốn vợ tôi chuyển sang úc với tôi. úc là nơi người ta chẳng yêu quý gì dân da vàng. Vì thế tôi cũng chẳng có ý định sống lâu dài ở Xít nây và tôi chỉ mê mải thực hành y học ở đó để hy vọng kiếm một cái gì đó để phòng thân. Tôi chưa nhận quyền công dân úc. Niềm tự hào và tự ái của tôi không thể hoà hợp được với những người bảo hoàng có tư tưởng phân biệt chủng tộc ở đây. Tôi sống trong một căn lều trại nhỏ, và những người úc mà tôi nói chuyện, đều một giọng cho rằng Trung quốc không khi nào hồi sinh được. Tôi rất tức nhưng tôi lại còn cần tiền, đúng thế và ở Hồng Kông cũng chẳng vui hơn. Lẽ nào chúng tôi vẫn mãi là thuộc địa Anh nơi tôi chỉ là nô lệ bị tước đoạt mọi quyền lợi của quốc gia hải ngoại.
Khi những người cộng sản chiếm Bắc Kinh, tôi cảm thấy trong lòng trào lên nỗi mừng không tả được. Tháng 2-1949 Hồng quân Trung quốc đè bẹp quân Anh và vượt qua sông Dương Tử, sự kiện này làm tôi sung sướng tột độ. Tôi cũng tin rằng với chiến thắng của những người cộng sản Trung quốc thì bọn cai trị nước ngoài sẽ cuốn xéo và đất nước được giải phóng khỏi ách sánh vai với các nước trên thế giới.
Rồi tôi đã nhận được thư của mẹ tôi. Bà đã quay về Bắc Kinh. Mẹ tôi gửi kèm thư của anh tôi, vừa quay về thành phố quê hương và giờ đây giữ một chức vụ trong Cục bảo vệ sức khoẻ thuộc ủy ban quân sự đảng cộng sản Trung quốc. Anh tôi rất sung sướng và rất mong tôi trở về.
ở Trung quốc còn thiếu các bác sĩ lành nghề - anh tôi viết - chính phủ mới đảm bảo cho chú công việc tốt, và toàn thể gia đình tôi lại đoàn tụ.
Tôi lại băn khoăn. Cuộc sống ở Xít nây đang yên ổn và tốt đẹp. Vợ và mẹ tôi còn có cơ hội đến đây được với tôi. Ngoài ra, tôi có thể giúp mẹ tôi ở Bắc Kinh tiền nong.
Chỉ có một điều tôi không hoài nghi. ở đây, úc, không khi nào tôi thành bác sĩ phẫu thuật nơ-ron, vì lẽ tôi là người Trung quốc. Dĩ nhiên, tôi có thể kiếm được hàng đống tiền, nhưng luôn luôn mặc cảm mình là người xa lạ bị đuổi khỏi tổ quốc. Đây có phải là lòng yêu nước của tôi không?
Gần đến ngày thanh minh. Tôi dự định tổ chức ngày lễ này vơi anh bạn thân Alex Young. Alex sinh ở úc, nhưng vẫn cố gắng giữ nhiều phong tục Trung quốc. Anh ta và vợ làm việc chăm chỉ. Họ có một cửa hàng tạp hoá ở phố Elizabet
Khi tôi gặp, Alex ngay lập tức nhận xét rằng tôi có một cái gì đó mất hồn. Tôi kể cho anh ta nghe tất cả.
- Cần phải nghĩ cho kỹ đấy - Alex nói.
- Anh tính thế nào? - tôi hỏi.
- Tôi không thể là cố vấn của anh - Alex Young chậm rãi - Gia đình tôi ở đây, ở úc. Thậm chí nếu họ hứa với tôi là trả lương tôi hậu hĩnh ở Bắc Kinh, thì tôi cũng chẳng nghĩ tới quay lại. Đúng là ở đây có tệ phân biệt chủng tộc, nhưng dân số thì không nhiều, và có thể sống dễ chịu. Vì sao anh không viết cho anh trai và hỏi tỷ mỉ về công việc, và để họ nói cho mình lương lậu ra sao chứ? Sau đó chúng ta so sánh tiếp.
Lời của Alex thức tỉnh lòng yêu nước của tôi. Tôi hoàn toàn không để ý ở đâu kiếm được nhiều tiền hơn. Nếu những người cộng sản đưa Trung quốc đến giàu có thì tôi sẵn sàng hy sinh cho hạnh phúc của tổ quốc mình.
Nhưng Alex, tất nhiên, là đúng: tôi phải biết tất cả một cách tỷ mỉ. Ngay chiều đó tôi viết cho anh tôi.
Đầu tháng 5 tôi nhận được thư trả lời. Anh tôi lại giục tôi về nước. Anh kèm thư của thủ trưởng của anh, Phó Liêm Chương, phó cục trưởng cục bảo vệ sức khoẻ thuộc ủy ban quân sự đảng cộng sản Trung quốc. Phó Liêm Chương, ở nước ngoài gọi là Nelson Phó, là một nhà y học nổi tiếng của Trung quốc. Đồng thời ông cũng là bác sĩ duy nhất được đào tạo ở phương tây tham gia Trường Chinh. Năm 1934 ông chưa cho Mao khỏi sốt rét và trong thời gian chiến tranh theo dõi sức khoẻ lãnh tụ đảng cộng sản Trung quốc ở Diên An.
Thư của Phó ngắn ngủn, nhưng trong đó sự nồng nhiệt và và lòng chân thành đã giảm bớt. Ông mời tôi trở về và đề nghị tin vào những người bác sĩ Trung quốc khác. Về công việc của tôi ở Bắc Kinh và về lương lậu Phó không nói gì, chỉ bâng quơ rằng tôi sẽ hài lòng về công việc. Tôi được ông tâng bốc là được giữ chức vụ cao, và yêu cầu tôi trở về. Vì đảng cộng sản rất thiếu thày thuốc lành nghề. Tôi nghĩ mình đã tìm thấy chỗ đứng ở nước Trung hoa mới. Tôi quyết định nhanh chóng về nước.
Alex Yuong tổ chức bữa ăn gĩa từ. Có hai người Trung quốc, cũng là bác sĩ. Họ bảo tôi viết cho họ từ Bắc Kinh, và thêm rằng nếu tôi thấy khó sống, họ có thể giúp tôi quay sang úc.
Tôi chẳng khi nào viết cho anh ta cả. Ba mươi sáu năm sau, năm 1985 tôi ở úc theo lời mời của hiệp hội bác sĩ úc và có mặt ở đại lộ Elizabet hy vọng thấy Alex Yuong. Nhưng tất cả đã thay đổi, và cửa hàng nhỏ của anh ta không còn đó. Tôi không còn thấy Alex Yuong nữa.
Thế là chúng tôi và Lý Liên lại đoàn tụ. Giữa tháng 5-1949 có cuộc xáo lộn ở thuộc địa Anh. Hàng nghìn người đã chạy về đây tránh họa cộng sản và hàng nghìn người chuẩn bị quay về đất mẹ. Hiện tượng này thật lạ lùng và không bình thường. Khi gặp Đặng Ninh Hoàng và kể về quyết định của tôi quay về Trung quốc, anh ta lắc đầu quầy quậy Chẳng lẽ anh không thể ở lại đây và làm việc với tôi? - ông hỏi. Tôi kể cho anh ta thư của Phó Liêm Chương. Đặng buông lời: Thôi, ông tự quyết lấy. Nếu mọi việc xuôi xẻ thì viết cho tôi. Có thể, cả tôi cũng về tổ quốc.
Tôi chẳng bao giờ viết cho anh ta được cả.
Tôi cùng Lý Liên tới thăm ông Trương Thành Đô giáo sư quen biết đại học tổng hợp Phương Đông. Ông cũng về Bắc Kinh. Người ta xếp ông vào đoàn đại biểu hội đồng hiệp thương chính trị Trung quốc. Đảng cộng sản lôi kéo thêm các trí thức không đảng phái vào một mặt trận duy nhất, trong diễn đàn được triệu tập để bày tỏ cho các lực lượng dân chủ và giải quyết vấn đề chính quyền ở trong nước. Chúng tôi nghĩ lúc đó chính phủ cộng sản sử dụng tri thức để kéo đất nước ra khỏi khủng hoảng. ở Trung quốc đều có tương lai - ông nói - cả nước đang trên đường hồi sinh.
Phiên họp đầu tiên ủy ban hiệp thương được tổ chức cuối tháng 9. 1949, đã đi tới quyết định thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa và bầu ra chính phủ mới do Chủ tịch Mao Trạch Đông đứng đầu. Phó chủ tịch của Mao là Lưu Thiếu Kỳ, bạn chiến đấu của ông và Tống Khánh Linh, vợ goá của nhà cách mạng vĩ đại Tôn Trung Sơn, người đã đánh đổ triều Thanh và lập nên nước cộng hoà Trung hoa từ 1912. Nhưng rõ rằng là ủy ban hiệp thương chính trị nhân dân chỉ là một cây cảnh cho nền dân chủ - mọi việc điều hành trong nước nằm trong tay những người cộng sản. ủy ban hiệp thương chính trị nhân dân chỉ là lọ cắm hoa cho vui mắt nhưng hoàn toàn vô tích sự. Ai đó trong số thành viên ủy ban này tỏ ra dũng cảm phát biểu bày tỏ quan điểm của mình mà không hợp với quan điểm của những người lãnh đạo cộng sản thì sẽ bị buộc tội hữu khuynh, bị lăng nhục thô bạo và bị trừng phạt nặng. Một trong số những người như thế là giáo sư Trương Thành Đô. Năm 1957 người ta buộc tội ông hữu khuynh và tống ông đi cải tạo trong trại lao động khổ sai. Ông được phục hồi hai mươi năm sau đó và khi được tự do thì thành một ông già thiểu não, không nơi nương tựa.
Tuy nhiên trong những năm đầu tiên, trước khi bắt đầu đàn áp hàng loạt, tôi cảm thấy rằng những người cộng sản điều hành đất nước là hoàn toàn tự nhiên và đúng đắn. Tôi khâm phục đảng của họ. Toàn thể nhân dân Trung quốc đặt niềm tin vào đảng. Tại úc tôi gần như người mù được người ta dẫn đến tương lai tươi sáng. ý tưởng xây dựng một mặt trận thống nhất đã trở thành ngôi sao dẫn đường cho tôi. Tài năng bác sĩ của tôi cần cho đất nước. Chúng tôi, trí thức, sẽ được trọng dụng và thậm chí còn được tham gia điều hành đất nước. Tôi nhìn thấy một số hành động của những người lãnh đạo cộng sản đi ngược với những nguyên tắc mà đảng đề ra, nhưng cho rằng đó chỉ là sai sót nhỏ và mà thể tránh khỏi.
Một người bạn sống với tôi ở Hồng Kông, giới thiệu tôi một người tên là Dương. Ông này có chức vụ trong giới lãnh đạo đảng và phụ trách vấn đề lôi kéo các nhà chuyên môn từng bỏ ra nước ngoài quay trở về Trung quốc. Anh bạn thân khuyên tôi nên biếu cho Dương một món quà để ông ta đảm bảo việc trở về Trung quốc được tốt đẹp. Nhờ ông Dương, anh có thể kiếm được một công việc thu nhập cao ở một trường y khoa ở Bắc Kinh. Một chiếc đồng hồ Thụy sĩ không phải là món quà tồi với ông ấy. Để được ông ấy cho về làm ở Bắc Kinh, thì việc trả một món quà như thế cũng không phải là quá đắt.
Chẳng lẽ ông Dương mà cũng nhận những khoản tiền hối lộ bẩn thỉu từng được coi là nguồn gốc làm giàu ở Trung hoa hàng nghìn năm nay. Tôi nghĩ rằng nạn tham nhũng là xa lạ với những người cộng sản, khi mà họ đã thức tỉnh được hàng triệu người đứng dậy chiến đấu chống Quốc dân đảng, và thế là tôi từ chối đưa quà cho ông Dương. Người cộng sản không bị mua chuộc - tôi nói với các bạn - và tôi sẽ tự kiếm tiền để sống bằng khả năng và trí tuệ của mình.
Về sau tôi không gặp Dương nữa. Nhưng một thời gian sau ông Dương xuất hiện trên chính trường với tư cách là người lãnh đạo đảng dân chủ. Thực tế đây là thủ đoạn chính trị đối với dân chủ. Dương chưa bao giờ ra khỏi hàng ngũ đảng cộng sản Trung quốc và làm việc bí mật ở bộ công an. Trong Hội đồng hiệp thương chính trị nhân dân nhiều thành viên đeo mặt nạ dân chủ.
Năm 1956 tôi kể cho Mao câu chuyện về ý nghĩ hối lộ Dương. Chủ tịch cười phá lên: Vì sao các anh, lũ trí thức ăn bám lại keo kiệt đến thế nhỉ? Anh như người trên trời rơi xuống, anh phải biết tính tham lam của con người chứ. Cá không thể sống trong nước sạch được. Món quà chẳng mang một giá trị nào cả. Chẳng lẽ Quách Mạc Nhược không tặng được tôi chiếc đồng hồ khi hội đàm ở Trùng Khánh hay sao?
Mùa thu 1949 Hồng Kông giống như ong vỡ tổ. nhưng tôi còn trẻ, bồng bột và ảo tưởng và ảo tưởng. Tôi trở về tổ quốc và nhận việc tại một bệnh viện đa khoa lớn ở Bắc Kinh. Tôi có thể sống xứng đáng với truyền thống gốc gác của tôi và tin vào lời thề của Hyppocrat chữa bệnh và cứu tất cả đồng bào giàu cũng như nghèo. Tôi sẽ trở thành nhà phẫu thuật nơ-ron xuất sắc. Y học là kho báu của tôi đẻ xây dựng nước Trung hoa mới, thịnh vượng và hùng mạnh, không có bất công và thối nát.
Chúng tôi cùng Lý Liên rời Hồng Kông về Bắc Kinh vào giữa tháng sáu 1949. Tính ra tôi xa thành phố chôn rau cắt rốn này gần 17 năm.