Chương 50
Tác giả: Lý Chí Thỏa
Năm 1962 đã đưa lại một bước ngoặt về chính trị đối với Mao. Vào tháng giêng, khi ông triệu tập một hội nghị mở rộng của ủy ban trung ương đảng, thì cũng chính là lúc lòng ngưỡng mộ của mọi người đối với Mao đã xuống đến điểm thấp nhất.
Bảy nghìn cán bộ tham dự cuộc họp này, gồm các cán bộ đảng, quân đội, ở các vùng, các tỉnh, các thành phố, các quận, các huyện, đồng thời cả những giám đốc của các ngành công nghiệp và khai khoáng và cuộc họp mặt này đã đi vào lịch sử như một hội nghị của bảy nghìn cán bộ. Đa số thành viên dự cuộc họp không thuộc hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của đảng, những người không thể quyết định được chính sách của đất nước bằng ý kiến của mình, mà mà những người chịu trách nhiệm triển khai mệnh lệnh từ trên xuống trong từng lĩnh vực riêng của họ.
ở Bắc Kinh họ được ưu đãi đặc biệt, được ở trong những khách sạn sang trọng và tối nào cũng có thể tiêu khiển một cách thoải mái. Người ta cần sự ủng hộ của họ. Lưu Thiếu Kỳ chủ trì cuộc họp, còn Mao đã từ chối, không chịu đọc qua bài diễn văn của Lưu Thiếu Kỳ sẽ được đọc trước hội nghị bảy nghìn cán bộ. Hội nghị phải được diễn ra trên tinh thần dân chủ, những người dự họp phải được khuyến khích phát biểu ý kiến riêng của mình, và Lưu có thể soạn bản thảo cho bài diễn văn của ông trên tinh thần đóng góp cho việc thảo luận.
Sau đó, Mao đã sửng sốt khi nghe bài diễn văn của Lưu Thiếu Kỳ. Lưu phê Mao đã bào chữa rằng, tình trạng kinh tế tồi tệ hiện nay của đất nước là do thiên tai gây nên. Lưu tuyên bố trong Đại lễ đường nhân dân:
- Thiên tai chỉ xảy ra ở một vùng của đất nước. Ngược lại, những tai họa do con người gây nên đã tàn phá toàn bộ đất nước Trung hoa. Chúng ta không bao giờ được quên điều đó.
Lưu Thiếu Kỳ đề nghị phục chức cho những cán bộ bị sa thải vì họ đã chống lại chính sách phiêu lưu mạo hiểm tả khuynh của đại nhảy vọt, phục chức cho những cán bộ địa phương đã từng ủng hộ ý kiến của Bành Đức Hoài.
Tôi biết Mao rất tức tối. Ngay sau cuộc họp, ông phàn nàn:
- Lưu Thiếu Kỳ đã đi chệch khỏi lập trường đấu tranh giai cấp. Đồng chí ấy không quan tâm đến vấn đề là chúng ta đi theo con đường xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa. Thay vào đó, đồng chí lại so sánh thiên tai với những hỗn loạn do con người gây nên. Theo tôi thì sự nhảm nhí này mới thực là một tai họa.
Nhưng đa số những người dự họp đều đồng tình với đánh giá của Lưu Thiếu Kỳ. Một vết rạn khá sâu đã cắt ngang sự đoàn kết trong đảng. Tình hình Trung quốc lúc bấy giờ ảm đạm đến nỗi trong cả những vấn đề thuộc về chính sách quan trọng, phải chật vật lắm người ta mới đi đến được sự thống nhất về quan điểm. Vì vậy hội nghị phải kéo dài tới hơn một tháng. Các cán bộ địa phương thi nhau than phiền về những khó khăn mà đất nước đang gặp phải và về chính sách đã đưa đất nước đến tình trạng như hiện nay. Hội nghị này có tác dụng trấn an mọi người.
Như thường lệ. Mao rất ít khi tham dự các phiên họp của hội nghị. Phần lớn thời gian ông nằm trên chiếc giường ngoại cỡ của ông trong Phòng 118 của Đại lễ đường nhân dân. Ông nghỉ ngơi với các tì thiếp trẻ của ông và hàng ngày đọc các báo cáo về những phiên họp, mặc dù hội nghị diễn ra ngay trong tòa nhà ông dang ở.
Các cán bộ cấp dưới, rốt cuộc, đã có thể chôn vùi cái tham vọng quá lố của kế hoạch đại nhảy vọt và chống chọi với thực tế là tình trạng kinh tế suy sụp mà không bị Mao cản trở. Trong thời kỳ đại nhảy vọt, những cán bộ này đã phải chịu đựng một sức ép rất lớn. Khẩu hiệu: Nhanh hơn, nhiều hơn và tốt hơn đã thúc bách họ thường xuyên phải đưa ra những chỉ nêu sản xuất vô lý. Họ đứng trước nguy cơ bị quy là hữu khuynh hoặc có thể còn tệ hơn nữa, thậm chí bị mất việc nếu họ giảm chỉ tiêu sản xuất hoặc không hoàn thành định mức mà họ tự đề ra.
Cuộc hội nghị của bảy nghìn cán bộ đã tạo cho họ cơ hội khiếu nại về tất cả mọi vấn đề đổi với ban lãnh đạo đảng. Thật vô cùng thoải mái. Những khiếu nại đó không bao giờ trực tiếp công kích Mao, mà chống lại đường lối đại nhảy vọt. Tuy nhiên, ai cũng biết Mao là người chịu trách nhiệm về chính sách này.
Mao tức giận khi đọc những báo cáo hàng ngày. Ông nói:
- Suốt ngày họ chỉ biết than vãn, tối đến họ lại đi xem kịch. Ngày nào họ cũng ăn ba bữa mà chẳng chịu làm gì. Họ hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là thế đấy.
Chỉ vì biên bản cứ đòi tôi phải túc trực ở đây, nên tôi phải sống một tháng trời đầy chán ngán trong Đại lễ đường nhân dân.
Khi sự chỉ trích đã chấm dứt. Mao thấy đành nhận một cái lỗi nào đó đối với cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay. Theo tôi biết, chưa có ai yêu cầu Mao tự phê bình bao giờ. Việc tự phê chẳng qua chỉ là một phần trong chiến lược của Mao.
Mao rất ghét phải nhận lỗi. Nam 1960, trong một buổi nói chuyện với vị nguyên soái của quân đội Anh là Montgomery, tôi đã nghe thấy Mao nói với Montgomery rằng ông đã làm rất nhiều điều dại dột và phạm rất nhiều sai lầm, nhưng đối với các cán bộ cao cấp của đảng và nhân dân Trung quốc, về mặt tâm lý, ông không muốn thú nhận rằng tình trạng thảm hại của đất nước có liên quan đến ông. Lần này là lần đầu tiên Mao tự kiểm điểm kể từ khi ông nắm quyền hành từ năm 1949 tới nay, ông đã nói trong bài phát biểu ngày 30 tháng 1 năm 1962 rằng: Tôi phải chịu trách nhiệm về tất cả những lỗi lầm do các cơ quan trung ương trực tiếp hay gián tiếp gây ra, bởi vì tôi là Chủ tịch của các cơ quan trung ương. Nhưng Mao không bao giờ nói cụ thể là ông sai lầm ở chỗ nào, mà ông phản công lại một cách nhanh chóng bằng cách quy trách nhiệm cho những người khác. Sau đó ông chỉ trích cái cơ chế mang tính chất khoán tới hộ lao động là thành phần kinh tế tư nhân.
Tôi tin chắc rằng, thực ra Mao không hề cho ông đã phạm sai lầm. Nhưng mối lo ngại bị mất sự kiểm soát đối với bộ máy đảng trên toàn quổc của ông ngày càng lộ rõ. Ông muốn ông là trung tâm để dân chúng quây quanh, dù cho ông có lui xuống hàng thứ hai. Mao đã để cho Lưu Thiếu Kỳ đảm nhiệm chức Chủ tịch nước để kiểm tra lòng trung thành của ông ta và trong thời gian diễn ra Hội nghị bảy nghìn cán bộ, Mao đi đến kết luận rằng, tất cả những chuyện Lưu làm đều đi ngược lại với lòng trung thành đối với ông. Vậy thì ông chịu trách nhiệm đối với những khủng hoảng là để giữ vững vị trí của ông ở trung ương, chứ không phải vì ông thành khẩn nhận sai lầm.
Lâm Bưu là một người mồm mép, lanh lợi nhất trong đám thuộc hạ thân tín còn lại của Mao. Mao vừa dứt lời, ông ta đã lên phát biểu: Tư tưởng của Mao Chủ tịch luôn luôn đúng đắn. Nếu chúng ta gặp phải một khó khăn hay một vấn đề nào đó, điều đó có nghĩa rằng, chúng ta đã không thưc hiện đúng chỉ thị của Chủ tịch, chúng ta đã không làm theo những lời căn dặn của Chủ tịch, hoặc đã đi chệch hướng.
Trong khi Lâm Bưu nói, tôi ngồi ngay sau diễn đàn. Mao bình phẩm:
- Bài phát biểu của phó chủ tịch Lâm thật hay. Những lời nói của đồng chí Lâm Bưu lúc nào cũng rõ rằng và đầy sức thuyết phục. Tại sao các cán bộ lãnh đạo khác của đảng không thể phát biểu như vậy?
ít ra, bây giờ tôi đã có thể kết luận rằng, việc Mao tự phê bình chỉ là một tiểu xảo, ông không bao giờ nghĩ ông phạm sai lầm. Nhưng chắc chắn việc Lâm Bưu bảo vệ Mao có hàm chứa một ý đồ không sạch sẽ gì cho lắm.
Hoa Quốc Phong, cựu bí thư huyện ủy Hướng Đan, thuộc tỉnh Hồ Nam, quê Mao mà tôi quen từ năm 1959, lại có vẻ thực lòng hơn Lâm. Nhưng cũng như Lâm, Hoa không chỉ trích Mao, khiến Mao đánh giá tốt về ông. Cũng như năm ngoái. Hoa trình bày rằng: sau những nỗ lực của chúng ta trong thời gian từ năm 1958 đến nám 1960, con người cũng như trâu bò và cả đất nước đều khánh kiệt. Chúng ta không còn đủ sức cho những bước tiếp theo. Và vừa nói, Hoa vừa hướng về phía Mao: Nếu chúng ta muốn khắc phục được những khó khăn ở các vùng nông thôn, chúng ta phải cương quyết đi theo con đường xã hội chủ nghĩa và chúng ta không được phép chấp nhận cơ chế khoán tới từng nông hộ và một nền nông nghiệp không bao cấp. Nếu không, chúng ta sẽ đâm đầu vào ngõ cụt.
Sau Hội nghị tháng 1 năm 1962. Mao nói: Hoa Quốc Phong là người trung thực. Đồng chí ấy còn hơn nhiều người lãnh đạo nhà nước hiện nay của chúng ta. Sau khi Châu Tiểu Châu và các đàn em của ông ta ở Hồ Nam thất sủng, Trương Bình Hoa được bổ nhiệm làm bí thư thứ nhất của tỉnh. Một số chức vụ trong bộ máy tỉnh còn trống, thế là Hoa Quốc Phong được cử làm Trưởng ban bí thư tỉnh Hồ Nam và phụ trách các công việc thường vụ ở Hồ Nam.
Sau Hội nghị bảy nghìn cán bộ, việc bài xích kế hoạch đại nhảy vọt càng tăng lên. Cả những thế lực ly gián cũng tăng theo, làm cho đảng có nguy cơ bị chia rẽ. Đảng và nhà nước thoát khỏi sự phụ thuộc vào Mao. Các công xã nhân dân cuối cùng được cải tổ lại thành những đơn vị nhỏ hơn, dễ kiểm soát hơn như cỡ hợp tác xã của năm 1956. Định mức sản xuât công nghiệp cũng được giảm xuổng. Toàn bộ nền kinh tế đang chuyển mình và người ta vẫn nếp tục lên án thái độ thiên tả của kế hoạch đại nhảy vọt.
Vào tháng hai và tháng ba ủy han nhà nước về khoa học và công nghệ tổ chức một hội nghị lại Quảng Châu. Thậm chí người ta còn định phục hồi danh dự cho những trí thức, mặc dù người ta thừa biết Mao rất ác cảm với họ. Các nhà khoa học và các trí thức của Trung quốc vẫn chưa hoàn hồn bởi chiến dịch chống hữu khuynh hồi năm 1957. Trong chiến dịch đó, hàng trăm nghìn người bị sa thải, bị giáng chức hoặc bị đưa đi cải tạo lao động. Còn những người không bị truy bức về chính trị, thì lúc nào cũng sống trong lo sợ và không dám hé miệng.
Bây giờ phó chủ tịch Trần Nghị lại nói khác trong bài phát biểu của mình. Ông nói trước những người bị cưỡng ép tham dự Hội nghị như sau: Có một số việc mà những người khác không dám nói, nhưng tôi sẽ nói. Đất nước Trung hoa cần có những nhà khoa học, cần những người trí thức. Trong những năm qua, họ đã bị ngược đãi. Bây giờ chúng ta phải sắp xếp cho họ trở lại đúng vị trí của họ.
Lời nói của Trần Nghị là xúc phạm tới Mao, nhưng đối với giới trí thức lại là một niềm hy vọng là họ sẽ lại được trọng dụng và được người ta đánh giá đúng khả năng của họ.
Cả bài diễn văn Về vấn đề của những người trí thức cũng có chiều hướng chống lại những xu thế thù nghịch với trí thức. Chu Ân Lai tuyên bố với các thính giả của ông ta rằng ở nước Trung hoa xã hội chủ nghĩa đại đa số những người trí thức được xếp vào giai cấp công nhân và do đó họ cũng được coi là những người bạn của chủ nghĩa xã hội. Bài trừ mê tín không đồng nghĩa với bài trừ khoa học. Trái lại, để bài trừ mê tín dị đoan, người ta phải nhờ vào những nhà khoa học. Ông kêu gọi những người trí thức hãy tích cực và hết đóng đóng góp vào công cuộc phát triển đất nước. Các nhà khoa học cũng cảm thấy thỏa mãn về cuộc hội nghị này, hệt như những cán bộ địa phương đã hài lòng với Hội nghị bảy nghìn cán bộ. Những lời ngon ngọt của đã dỗ dành được họ. Tất cả những bài phát biểu của họ đều tỏ ra biết ơn những cố gắng của đảng. Đặc biệt, những người thiên hữu rất phấn khích, bởi vì họ hy vọng con dấu thiên hữu đang đóng trên mình họ sắp sửa mất đi và họ sẽ lại được thu xếp vào một vị trí nào đó.
Cũng như các thính giả của mình, Chu Ân Lai thừa biết rằng, năm 1957 Mao đã công kích tầng lóp trí thức và kêu gọi công nhân và nông dân hãy bài trừ thói mê tín dị đoan. Nếu không có sự đồng ý của Mao, Chu sẽ chẳng dám cả gan phát biểu như vậy.
Tuy vậy, khi đọc biên bản, Mao vẫn tỏ ra không hài lòng về Hội nghị này. Một buổi tối. Mao hỏi tôi với một giọng châm biếm:
- Tôi rất muốn biết tầng lóp nào đã làm nên lịch sử? Công nhân và nông dân, nhân dân lao động hay là tầng lóp nào khác?
Mao luôn cho rằng, làm nên lịch sử là công nhân và nông dân chứ không phải tầng lớp trí thức. Cuối cùng, những cuộc khởi nghĩa của nông dân là sức mạnh chủ tực của lịch sử Trung quốc.
Ngay sau Hội nghị, với thái độ tự do hơn, hòa giải hơn của Chu Ân Lai. Mao quyết định triệu tập một hội nghị tiếp theo, lần này ít công khai hơn, để xác định vị trí của tầng lớp trí thức trong xã hội Trung quốc. Bởi vì ông không thể thực hiện được ý muốn của ông qua những cửa ải quan liêu được nữa, nên từ sau hậu trường, ông cố gắng tập hợp vây cánh triển khai chiến thuật của ông và tìm kiếm sự ủng hộ củu những cuộc phản công trong tương lai, âm thầm và bí mật. Ông bắt đầu quy tụ các tay chân của ông. Một trong số họ là Trần Bá Đạt, người đứng đầu các thư ký chính trị của Mao và đồng thòi là chủ bút từ báo Cờ đỏ, cơ quan tuyên truyền của đảng. Theo đánh giá của Mao, Trần Bá Đạt là nhà lý luận xuất sắc nhất của đảng về chủ nghĩa Mác-Lênin. Ông thường nói: Không có lý luận thì cuộc cách mạng nào thành công được. Trần Bá Đạt là một lý luận gia rất hiếm hoi của đảng.
Trần Bá Đạt đã sáng tác những bài hát ca ngợi kế hoạch đại nhảy vọt một cách rất tỉ mỉ và tâng bốc. Trích dẫn lời của Mác rằng, một ngày sống trong chủ nghĩa cộng sản bằng 20 năm sống dưới chủ nghĩa tư bản, ông ta đã mô tả bình minh của chủ nghĩa cộng sản ở Trung quốc. Hai năm sau, khi phải đối đầu với nạn đói do kế hoạch đại nhảy vọt gây ra, Trần Bá Đạt lại thản nhiên đối với hàng triệu người đã chết, ông quả quyết: Đó là một hiện tượng phụ tất yếu trên cuộc hành trình của chúng ta.
Cũng chẳng có gì lạ, khi Mao đánh giá cao Trần Bá Đạt, con người đểu giả, nhỏ mọn và tham vọng một cách bệnh hoạn của ông ta. Chỉ bằng một câu nói duy nhất mà ông ta đã làm cho Mao được trắng án, thoát khỏi trách nhiệm đối với một thảm họa lớn nhất trong lịch sử Trung quốc.
Năm 1962, Mao đến nhờ Trần Bá Đạt giúp một tay để chuyển hướng tình hình chính trị sang phía tả. Trần Bá Đạt đã tổ chức hội nghị, trong đó sự đánh giá của chủ nghĩa Mao về tầng lớp trí thức được nhấn mạnh. Bài phát biểu của Mao khác hẳn với thái độ trước đây của Chu Ân Lai:
- Tầng lớp trí thức làm việc trong các văn phòng. Họ sống sung sướng, ăn ngon, mặc đẹp. Họ thường ít khi ra ngoài. Bởi vậy họ hay bị cảm lạnh.
Mao muốn rằng những sinh viên, giảng viên đại học và những nhân viên hành chính phải lao động chân tay năm tháng liền ở các nhà máy hoặc ở đồng ruộng - một yêu câu mà nhất định sẽ được giới trí thức xem như một hình thức trừng phạt mới. Theo Mao, họ phải tham gia đấu tranh giai cấp và làm quen với cuộc cách mạng. Mao tiếp:
- Tình hình hiện nay càng trở nên phức tạp. Một số người hô hào cho cơ chế kinh tế tư nhân, nhưng trong thực tế chính là sự phục hồi lại chủ nghĩa tư bản. Chúng ta đã lãnh đạo đất nước từ nhiều năm nay, tuy nhiên chúng ta mới chỉ kiểm soát được hai phần ba xã hội của chúng ta. Một phần ba còn lại nằm trong tay kẻ thù của chúng ta hoặc trong tay của bè lũ theo chúng. Kẻ thù có thể mua chuộc người của chúng ta cưới con gái của các đại địa chủ.
Tôi không biết Mao nói gì, nhưng qua đó người ta cảm thấy sự thù hằn của ông đối với giới trí thức cũng như đối với các cán bộ lãnh đạo cao cấp khác của đảng. Mấy năm sau, trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa. Giang Thanh đánh giá Hội nghị dưới sự chủ tọa của Chu Ân Lai và Trần Nghị là một Hội nghị đen và lên án một số cán bộ lãnh đạo đảng - có nghĩa là Chu Ân Lại và Trần Nghị - là họ đã quì mọp dưới chân giới trí thức, khi họ nhấc cái mũ tư sản của trí thức ra và thay bằng chiếc mũ giai cấp lao động.
Công việc của Lưu Thiếu Kỳ khiến cho ông luôn luôn gặp xung đột với Mao. Lưu đòi phục hồi danh dự cho những nạn nhân của các cuộc thanh trừng năm 1959. ý kiến này được hầu hết mọi người trong đảng tán thành. Trong thời gian cuộc Hội nghị bảy nghìn cán bộ, người ta đã thận trọng và kín đáo thảo luận về vụ Bành Đức Hoài. Người ta bắt đầu so sánh Bành Đức Hoài với Hải Thụy, một trung thần đời nhà Minh, người đã bị vua cách chức chỉ vì những lời góp ý thẳng thắn và những lời phê bình xác đáng, và cũng là một nhân vật được Mao rất khâm phục.
Đến tháng 4, dưới sự chỉ đạo của Lưu Thiếu Kỳ, ban thư ký trung ương đã bắt tay vào việc phục hồi cho những người theo Bành, hoặc những người phê phán kế hoạch đại nhảy vọt. Dưới khẩu hiệu Đánh giá lại công việc của cán bộ và đảng viên, người ta đã ủng hộ việc tha thứ cho ít nhất 70% cán bộ đang bị coi là có tội. Chỉ có việc thanh trừng nội bộ chống Bành Đức Hoài là không được xét lại, bởi vì ngay đến Luu Thiếu Kỳ cũng không dám qua mặt Mao trong vấn đề này. Lưu Thiếu Kỳ không hề xin phép Mao trong việc phục hồi cho các cán bộ, cả An Tử Văn, trưởng ban tổ chức của đảng cũng vậy. Đến lúc Mao nhận được một bản sao của văn bản phục hồi nói trên, Mao nói:
- An Tử Văn có lẽ chẳng bao giờ báo cáo trung ương về những việc làm của đồng chí ấy. Vì vậy, các đồng chí ở trung ương chẳng biết gì về các hoạt động trong ban tổ chức của đảng cả. Đồng chí ấy chẳng cho chúng ta biết những thông tin quan trọng và còn làm việc như một ông vua nữa.
Điền Gia Anh cho tôi biết. An Tử Văn rất bực khi biết Mao đã nói như vậy. An Tử Văn hỏi: Trung ương à? Thế trung ương là ai? Có rất nhiều các đồng chí lãnh đạo cao cấp ở Bắc Kinh - Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Bành Chân. Họ là những người chịu trách nhiệm về các công việc hành chính hàng ngày của đảng. Tôi báo cáo cho họ không phải là đã báo cáo cho trung ương hay sao?
Cả Trần Vân cũng xung khắc với Mao. Hồi đó ông ta là phó chủ tịch đảng, một chức vụ rất có thế lực, nhưng từ lâu, mối quan hệ của ông ta với Mao rất căng thẳng và ảnh hưởng của ông cũng rất ít. Sau những biến cố đầu thập kỷ 60, Trần Vân nhận ra rằng chỉ bằng cách giải tán các công xã nhân dân và trả lại ruộng đất cho nông dân thì mới có thể cải thiện tình hình được. Sau cuộc Hội nghị của bảy nghìn cán bộ, ông được ủy nhiệm phụ trách các công việc về kinh tế và tài chính của đảng. Khi ông trình lên bản báo cáo với những đề nghị cụ thể cho con đường thoát khỏi khủng hoảng và trả lại ruộng đất cho nông dân, thì Mao từ chối không chịu phê chuẩn. Mao ghi ngoài lề: Bức tranh được vẽ một cách đen tối này chẳng thấy một tia sáng nào. Đồng Trần Vân vốn xuất thân từ một gia đình buôn bán nhỏ và đồng chí ấy đã không dứt bỏ được đặc tính tư sản của mình. Đồng chí luôn luôn có chiều hướng hữu khuynh.
Trong thực tế, Chủ tịch đảng công kích phó chủ tịch đảng, chuyên gia kinh tế của đảng, theo kiểu này, lên án ông ta có đặc tính tư sản và thiên hữu sẽ là một tai họa. Trong cấp bậc của đảng, Trần Vân cao hơn hẳn so với Bành Đức Hoài và một sự kết luận kiểu như vậy từ phía Mao có thể dẫn đến việc đảng bị tan vỡ. Những lời của Mao đã xúc phạm Trần Vân đến nỗi Điền Gia Anh phải xử sự một cách bất thường: Điền ra lệnh cho Lâm Khắc, vừa mới trở về sau khi bị đi đày, không được gửi tài liệu có phụ chú của Mao lên trung ương. Nếu như tài liệu này được gửi lên có thể nó sẽ được người ta sử dụng trong tương lại để chống lại Trần Vân.
Điền Gia Anh không được phép gỉữ lại một tài liệu quan trọng như vậy nhưng ông ta ngưỡng mộ Trần Vân và đồng ý với những đánh giá của Trần Vân. Hơn nữa Điền Gia Anh không muốn để cho giới lãnh đạo cao cấp của đảng phải đi đến chỗ bị chia rẽ. Thay vì gửi lên trung ương, thì Điền Gia Anh đưa tài liệu đó cho Lâm Khắc, thư ký của Mao, còn Lâm Khắc thì giấu nó dưới đệm. Tài liệu đó không bao giờ được trình lên ban lãnh đạo đảng.
Phải có một ai đó đã báo cho Trần Vân biết về những lời bình của Mao. Bởi vậy, Trần Vân lập tức về Tô Châu lấy có là để dưỡng bệnh. Đó chẳng qua chỉ là một lý do chính trị. Ông không bao giờ bị cách chức hoặc bị công kích đích danh, nhưng trong thời gian Mao còn sống, ông không giữ một vai trò nào tích cực. Mãi đến năm 1980, sau cuộc Cách mang Văn hóa và Mao chết, Trần Vân lại bước lên diễn đàn chính trị. Sự trớ trêu của số phận muốn rằng, qua sự rút lui của ông, ông được bảo toàn trước những cuộc săn lùng của cuộc Cách mạng Văn hóa.
Cái tài liệu bị yểm đi với những lời phê phán Trần Vân đã bị phát hiện vào năm 1964. Hứa Diệp Phụ, người sau khi các hệ thống nghe trộm bị phát hiện, lại được cử làm thư ký riêng cho Mao và coi Lâm Khắc là một đối thủ, đã biết được vụ này và ra lệnh khám nhà Lâm Khắc trong khi Lâm Khắc đang đi công du với Mao. Người ta đã tìm được tài liệu này. Hứa Diệp Phụ gửi nó cho ban thư ký trung ương và viết báo cáo cho Mao và Uông Đông Hưng. Sau đó Lâm Khắc bị đuổi ra khỏi nhóm Một và Hứa Diệp Phụ được bổ nhiệm vào vị trí của địch thủ của mình.
Tuy vậy Điền Gia Anh vẫn thoát khỏi sự trừng phạt, nhưng cho đến khi cuộc Cách mạng Văn hóa bắt đầu, ông là một nhân viên đầu tiên của Mao bị công kích. Khi nhìn thấy tình trạng khốn khổ của Lâm Khắc bạn tôi, tôi vui sướng gấp bội vì tôi đã khước từ Mao khi ông yêu cầu tôi làm thư ký riêng cho ông. Nếu không hồi đó tôi cũng sẽ phải vạ.
Uông Đông Hưng cho tôi là một kẻ hoang đường khi tôi thổ lộ với ông về mối nghi ngờ của tôi là hình như Mao ngày càng thất vọng đối với hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của đảng. Ông nói: Đảng ta không phải là đảng cộng sản Liên-xô. Trong đảng cộng sản Trung quốc chỉ có sự thống nhất mà thôi. Thế nhưng, mỗi lời nói của Mao tôi đều giỏng tai lên nghe. Tình hình quả là khó lường.
Năm 1962 đã đưa lại một bước ngoặt về chính trị đối với Mao. Vào tháng giêng, khi ông triệu tập một hội nghị mở rộng của ủy ban trung ương đảng, thì cũng chính là lúc lòng ngưỡng mộ của mọi người đối với Mao đã xuống đến điểm thấp nhất.
Bảy nghìn cán bộ tham dự cuộc họp này, gồm các cán bộ đảng, quân đội, ở các vùng, các tỉnh, các thành phố, các quận, các huyện, đồng thời cả những giám đốc của các ngành công nghiệp và khai khoáng và cuộc họp mặt này đã đi vào lịch sử như một hội nghị của bảy nghìn cán bộ. Đa số thành viên dự cuộc họp không thuộc hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của đảng, những người không thể quyết định được chính sách của đất nước bằng ý kiến của mình, mà mà những người chịu trách nhiệm triển khai mệnh lệnh từ trên xuống trong từng lĩnh vực riêng của họ.
ở Bắc Kinh họ được ưu đãi đặc biệt, được ở trong những khách sạn sang trọng và tối nào cũng có thể tiêu khiển một cách thoải mái. Người ta cần sự ủng hộ của họ. Lưu Thiếu Kỳ chủ trì cuộc họp, còn Mao đã từ chối, không chịu đọc qua bài diễn văn của Lưu Thiếu Kỳ sẽ được đọc trước hội nghị bảy nghìn cán bộ. Hội nghị phải được diễn ra trên tinh thần dân chủ, những người dự họp phải được khuyến khích phát biểu ý kiến riêng của mình, và Lưu có thể soạn bản thảo cho bài diễn văn của ông trên tinh thần đóng góp cho việc thảo luận.
Sau đó, Mao đã sửng sốt khi nghe bài diễn văn của Lưu Thiếu Kỳ. Lưu phê Mao đã bào chữa rằng, tình trạng kinh tế tồi tệ hiện nay của đất nước là do thiên tai gây nên. Lưu tuyên bố trong Đại lễ đường nhân dân:
- Thiên tai chỉ xảy ra ở một vùng của đất nước. Ngược lại, những tai họa do con người gây nên đã tàn phá toàn bộ đất nước Trung hoa. Chúng ta không bao giờ được quên điều đó.
Lưu Thiếu Kỳ đề nghị phục chức cho những cán bộ bị sa thải vì họ đã chống lại chính sách phiêu lưu mạo hiểm tả khuynh của đại nhảy vọt, phục chức cho những cán bộ địa phương đã từng ủng hộ ý kiến của Bành Đức Hoài.
Tôi biết Mao rất tức tối. Ngay sau cuộc họp, ông phàn nàn:
- Lưu Thiếu Kỳ đã đi chệch khỏi lập trường đấu tranh giai cấp. Đồng chí ấy không quan tâm đến vấn đề là chúng ta đi theo con đường xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa. Thay vào đó, đồng chí lại so sánh thiên tai với những hỗn loạn do con người gây nên. Theo tôi thì sự nhảm nhí này mới thực là một tai họa.
Nhưng đa số những người dự họp đều đồng tình với đánh giá của Lưu Thiếu Kỳ. Một vết rạn khá sâu đã cắt ngang sự đoàn kết trong đảng. Tình hình Trung quốc lúc bấy giờ ảm đạm đến nỗi trong cả những vấn đề thuộc về chính sách quan trọng, phải chật vật lắm người ta mới đi đến được sự thống nhất về quan điểm. Vì vậy hội nghị phải kéo dài tới hơn một tháng. Các cán bộ địa phương thi nhau than phiền về những khó khăn mà đất nước đang gặp phải và về chính sách đã đưa đất nước đến tình trạng như hiện nay. Hội nghị này có tác dụng trấn an mọi người.
Như thường lệ. Mao rất ít khi tham dự các phiên họp của hội nghị. Phần lớn thời gian ông nằm trên chiếc giường ngoại cỡ của ông trong Phòng 118 của Đại lễ đường nhân dân. Ông nghỉ ngơi với các tì thiếp trẻ của ông và hàng ngày đọc các báo cáo về những phiên họp, mặc dù hội nghị diễn ra ngay trong tòa nhà ông dang ở.
Các cán bộ cấp dưới, rốt cuộc, đã có thể chôn vùi cái tham vọng quá lố của kế hoạch đại nhảy vọt và chống chọi với thực tế là tình trạng kinh tế suy sụp mà không bị Mao cản trở. Trong thời kỳ đại nhảy vọt, những cán bộ này đã phải chịu đựng một sức ép rất lớn. Khẩu hiệu: Nhanh hơn, nhiều hơn và tốt hơn đã thúc bách họ thường xuyên phải đưa ra những chỉ nêu sản xuất vô lý. Họ đứng trước nguy cơ bị quy là hữu khuynh hoặc có thể còn tệ hơn nữa, thậm chí bị mất việc nếu họ giảm chỉ tiêu sản xuất hoặc không hoàn thành định mức mà họ tự đề ra.
Cuộc hội nghị của bảy nghìn cán bộ đã tạo cho họ cơ hội khiếu nại về tất cả mọi vấn đề đổi với ban lãnh đạo đảng. Thật vô cùng thoải mái. Những khiếu nại đó không bao giờ trực tiếp công kích Mao, mà chống lại đường lối đại nhảy vọt. Tuy nhiên, ai cũng biết Mao là người chịu trách nhiệm về chính sách này.
Mao tức giận khi đọc những báo cáo hàng ngày. Ông nói:
- Suốt ngày họ chỉ biết than vãn, tối đến họ lại đi xem kịch. Ngày nào họ cũng ăn ba bữa mà chẳng chịu làm gì. Họ hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là thế đấy.
Chỉ vì biên bản cứ đòi tôi phải túc trực ở đây, nên tôi phải sống một tháng trời đầy chán ngán trong Đại lễ đường nhân dân.
Khi sự chỉ trích đã chấm dứt. Mao thấy đành nhận một cái lỗi nào đó đối với cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay. Theo tôi biết, chưa có ai yêu cầu Mao tự phê bình bao giờ. Việc tự phê chẳng qua chỉ là một phần trong chiến lược của Mao.
Mao rất ghét phải nhận lỗi. Nam 1960, trong một buổi nói chuyện với vị nguyên soái của quân đội Anh là Montgomery, tôi đã nghe thấy Mao nói với Montgomery rằng ông đã làm rất nhiều điều dại dột và phạm rất nhiều sai lầm, nhưng đối với các cán bộ cao cấp của đảng và nhân dân Trung quốc, về mặt tâm lý, ông không muốn thú nhận rằng tình trạng thảm hại của đất nước có liên quan đến ông. Lần này là lần đầu tiên Mao tự kiểm điểm kể từ khi ông nắm quyền hành từ năm 1949 tới nay, ông đã nói trong bài phát biểu ngày 30 tháng 1 năm 1962 rằng: Tôi phải chịu trách nhiệm về tất cả những lỗi lầm do các cơ quan trung ương trực tiếp hay gián tiếp gây ra, bởi vì tôi là Chủ tịch của các cơ quan trung ương. Nhưng Mao không bao giờ nói cụ thể là ông sai lầm ở chỗ nào, mà ông phản công lại một cách nhanh chóng bằng cách quy trách nhiệm cho những người khác. Sau đó ông chỉ trích cái cơ chế mang tính chất khoán tới hộ lao động là thành phần kinh tế tư nhân.
Tôi tin chắc rằng, thực ra Mao không hề cho ông đã phạm sai lầm. Nhưng mối lo ngại bị mất sự kiểm soát đối với bộ máy đảng trên toàn quổc của ông ngày càng lộ rõ. Ông muốn ông là trung tâm để dân chúng quây quanh, dù cho ông có lui xuống hàng thứ hai. Mao đã để cho Lưu Thiếu Kỳ đảm nhiệm chức Chủ tịch nước để kiểm tra lòng trung thành của ông ta và trong thời gian diễn ra Hội nghị bảy nghìn cán bộ, Mao đi đến kết luận rằng, tất cả những chuyện Lưu làm đều đi ngược lại với lòng trung thành đối với ông. Vậy thì ông chịu trách nhiệm đối với những khủng hoảng là để giữ vững vị trí của ông ở trung ương, chứ không phải vì ông thành khẩn nhận sai lầm.
Lâm Bưu là một người mồm mép, lanh lợi nhất trong đám thuộc hạ thân tín còn lại của Mao. Mao vừa dứt lời, ông ta đã lên phát biểu: Tư tưởng của Mao Chủ tịch luôn luôn đúng đắn. Nếu chúng ta gặp phải một khó khăn hay một vấn đề nào đó, điều đó có nghĩa rằng, chúng ta đã không thưc hiện đúng chỉ thị của Chủ tịch, chúng ta đã không làm theo những lời căn dặn của Chủ tịch, hoặc đã đi chệch hướng.
Trong khi Lâm Bưu nói, tôi ngồi ngay sau diễn đàn. Mao bình phẩm:
- Bài phát biểu của phó chủ tịch Lâm thật hay. Những lời nói của đồng chí Lâm Bưu lúc nào cũng rõ rằng và đầy sức thuyết phục. Tại sao các cán bộ lãnh đạo khác của đảng không thể phát biểu như vậy?
ít ra, bây giờ tôi đã có thể kết luận rằng, việc Mao tự phê bình chỉ là một tiểu xảo, ông không bao giờ nghĩ ông phạm sai lầm. Nhưng chắc chắn việc Lâm Bưu bảo vệ Mao có hàm chứa một ý đồ không sạch sẽ gì cho lắm.
Hoa Quốc Phong, cựu bí thư huyện ủy Hướng Đan, thuộc tỉnh Hồ Nam, quê Mao mà tôi quen từ năm 1959, lại có vẻ thực lòng hơn Lâm. Nhưng cũng như Lâm, Hoa không chỉ trích Mao, khiến Mao đánh giá tốt về ông. Cũng như năm ngoái. Hoa trình bày rằng: sau những nỗ lực của chúng ta trong thời gian từ năm 1958 đến nám 1960, con người cũng như trâu bò và cả đất nước đều khánh kiệt. Chúng ta không còn đủ sức cho những bước tiếp theo. Và vừa nói, Hoa vừa hướng về phía Mao: Nếu chúng ta muốn khắc phục được những khó khăn ở các vùng nông thôn, chúng ta phải cương quyết đi theo con đường xã hội chủ nghĩa và chúng ta không được phép chấp nhận cơ chế khoán tới từng nông hộ và một nền nông nghiệp không bao cấp. Nếu không, chúng ta sẽ đâm đầu vào ngõ cụt.
Sau Hội nghị tháng 1 năm 1962. Mao nói: Hoa Quốc Phong là người trung thực. Đồng chí ấy còn hơn nhiều người lãnh đạo nhà nước hiện nay của chúng ta. Sau khi Châu Tiểu Châu và các đàn em của ông ta ở Hồ Nam thất sủng, Trương Bình Hoa được bổ nhiệm làm bí thư thứ nhất của tỉnh. Một số chức vụ trong bộ máy tỉnh còn trống, thế là Hoa Quốc Phong được cử làm Trưởng ban bí thư tỉnh Hồ Nam và phụ trách các công việc thường vụ ở Hồ Nam.
Sau Hội nghị bảy nghìn cán bộ, việc bài xích kế hoạch đại nhảy vọt càng tăng lên. Cả những thế lực ly gián cũng tăng theo, làm cho đảng có nguy cơ bị chia rẽ. Đảng và nhà nước thoát khỏi sự phụ thuộc vào Mao. Các công xã nhân dân cuối cùng được cải tổ lại thành những đơn vị nhỏ hơn, dễ kiểm soát hơn như cỡ hợp tác xã của năm 1956. Định mức sản xuât công nghiệp cũng được giảm xuổng. Toàn bộ nền kinh tế đang chuyển mình và người ta vẫn nếp tục lên án thái độ thiên tả của kế hoạch đại nhảy vọt.
Vào tháng hai và tháng ba ủy han nhà nước về khoa học và công nghệ tổ chức một hội nghị lại Quảng Châu. Thậm chí người ta còn định phục hồi danh dự cho những trí thức, mặc dù người ta thừa biết Mao rất ác cảm với họ. Các nhà khoa học và các trí thức của Trung quốc vẫn chưa hoàn hồn bởi chiến dịch chống hữu khuynh hồi năm 1957. Trong chiến dịch đó, hàng trăm nghìn người bị sa thải, bị giáng chức hoặc bị đưa đi cải tạo lao động. Còn những người không bị truy bức về chính trị, thì lúc nào cũng sống trong lo sợ và không dám hé miệng.
Bây giờ phó chủ tịch Trần Nghị lại nói khác trong bài phát biểu của mình. Ông nói trước những người bị cưỡng ép tham dự Hội nghị như sau: Có một số việc mà những người khác không dám nói, nhưng tôi sẽ nói. Đất nước Trung hoa cần có những nhà khoa học, cần những người trí thức. Trong những năm qua, họ đã bị ngược đãi. Bây giờ chúng ta phải sắp xếp cho họ trở lại đúng vị trí của họ.
Lời nói của Trần Nghị là xúc phạm tới Mao, nhưng đối với giới trí thức lại là một niềm hy vọng là họ sẽ lại được trọng dụng và được người ta đánh giá đúng khả năng của họ.
Cả bài diễn văn Về vấn đề của những người trí thức cũng có chiều hướng chống lại những xu thế thù nghịch với trí thức. Chu Ân Lai tuyên bố với các thính giả của ông ta rằng ở nước Trung hoa xã hội chủ nghĩa đại đa số những người trí thức được xếp vào giai cấp công nhân và do đó họ cũng được coi là những người bạn của chủ nghĩa xã hội. Bài trừ mê tín không đồng nghĩa với bài trừ khoa học. Trái lại, để bài trừ mê tín dị đoan, người ta phải nhờ vào những nhà khoa học. Ông kêu gọi những người trí thức hãy tích cực và hết đóng đóng góp vào công cuộc phát triển đất nước. Các nhà khoa học cũng cảm thấy thỏa mãn về cuộc hội nghị này, hệt như những cán bộ địa phương đã hài lòng với Hội nghị bảy nghìn cán bộ. Những lời ngon ngọt của đã dỗ dành được họ. Tất cả những bài phát biểu của họ đều tỏ ra biết ơn những cố gắng của đảng. Đặc biệt, những người thiên hữu rất phấn khích, bởi vì họ hy vọng con dấu thiên hữu đang đóng trên mình họ sắp sửa mất đi và họ sẽ lại được thu xếp vào một vị trí nào đó.
Cũng như các thính giả của mình, Chu Ân Lai thừa biết rằng, năm 1957 Mao đã công kích tầng lóp trí thức và kêu gọi công nhân và nông dân hãy bài trừ thói mê tín dị đoan. Nếu không có sự đồng ý của Mao, Chu sẽ chẳng dám cả gan phát biểu như vậy.
Tuy vậy, khi đọc biên bản, Mao vẫn tỏ ra không hài lòng về Hội nghị này. Một buổi tối. Mao hỏi tôi với một giọng châm biếm:
- Tôi rất muốn biết tầng lóp nào đã làm nên lịch sử? Công nhân và nông dân, nhân dân lao động hay là tầng lóp nào khác?
Mao luôn cho rằng, làm nên lịch sử là công nhân và nông dân chứ không phải tầng lớp trí thức. Cuối cùng, những cuộc khởi nghĩa của nông dân là sức mạnh chủ tực của lịch sử Trung quốc.
Ngay sau Hội nghị, với thái độ tự do hơn, hòa giải hơn của Chu Ân Lai. Mao quyết định triệu tập một hội nghị tiếp theo, lần này ít công khai hơn, để xác định vị trí của tầng lớp trí thức trong xã hội Trung quốc. Bởi vì ông không thể thực hiện được ý muốn của ông qua những cửa ải quan liêu được nữa, nên từ sau hậu trường, ông cố gắng tập hợp vây cánh triển khai chiến thuật của ông và tìm kiếm sự ủng hộ củu những cuộc phản công trong tương lai, âm thầm và bí mật. Ông bắt đầu quy tụ các tay chân của ông. Một trong số họ là Trần Bá Đạt, người đứng đầu các thư ký chính trị của Mao và đồng thòi là chủ bút từ báo Cờ đỏ, cơ quan tuyên truyền của đảng. Theo đánh giá của Mao, Trần Bá Đạt là nhà lý luận xuất sắc nhất của đảng về chủ nghĩa Mác-Lênin. Ông thường nói: Không có lý luận thì cuộc cách mạng nào thành công được. Trần Bá Đạt là một lý luận gia rất hiếm hoi của đảng.
Trần Bá Đạt đã sáng tác những bài hát ca ngợi kế hoạch đại nhảy vọt một cách rất tỉ mỉ và tâng bốc. Trích dẫn lời của Mác rằng, một ngày sống trong chủ nghĩa cộng sản bằng 20 năm sống dưới chủ nghĩa tư bản, ông ta đã mô tả bình minh của chủ nghĩa cộng sản ở Trung quốc. Hai năm sau, khi phải đối đầu với nạn đói do kế hoạch đại nhảy vọt gây ra, Trần Bá Đạt lại thản nhiên đối với hàng triệu người đã chết, ông quả quyết: Đó là một hiện tượng phụ tất yếu trên cuộc hành trình của chúng ta.
Cũng chẳng có gì lạ, khi Mao đánh giá cao Trần Bá Đạt, con người đểu giả, nhỏ mọn và tham vọng một cách bệnh hoạn của ông ta. Chỉ bằng một câu nói duy nhất mà ông ta đã làm cho Mao được trắng án, thoát khỏi trách nhiệm đối với một thảm họa lớn nhất trong lịch sử Trung quốc.
Năm 1962, Mao đến nhờ Trần Bá Đạt giúp một tay để chuyển hướng tình hình chính trị sang phía tả. Trần Bá Đạt đã tổ chức hội nghị, trong đó sự đánh giá của chủ nghĩa Mao về tầng lớp trí thức được nhấn mạnh. Bài phát biểu của Mao khác hẳn với thái độ trước đây của Chu Ân Lai:
- Tầng lớp trí thức làm việc trong các văn phòng. Họ sống sung sướng, ăn ngon, mặc đẹp. Họ thường ít khi ra ngoài. Bởi vậy họ hay bị cảm lạnh.
Mao muốn rằng những sinh viên, giảng viên đại học và những nhân viên hành chính phải lao động chân tay năm tháng liền ở các nhà máy hoặc ở đồng ruộng - một yêu câu mà nhất định sẽ được giới trí thức xem như một hình thức trừng phạt mới. Theo Mao, họ phải tham gia đấu tranh giai cấp và làm quen với cuộc cách mạng. Mao tiếp:
- Tình hình hiện nay càng trở nên phức tạp. Một số người hô hào cho cơ chế kinh tế tư nhân, nhưng trong thực tế chính là sự phục hồi lại chủ nghĩa tư bản. Chúng ta đã lãnh đạo đất nước từ nhiều năm nay, tuy nhiên chúng ta mới chỉ kiểm soát được hai phần ba xã hội của chúng ta. Một phần ba còn lại nằm trong tay kẻ thù của chúng ta hoặc trong tay của bè lũ theo chúng. Kẻ thù có thể mua chuộc người của chúng ta cưới con gái của các đại địa chủ.
Tôi không biết Mao nói gì, nhưng qua đó người ta cảm thấy sự thù hằn của ông đối với giới trí thức cũng như đối với các cán bộ lãnh đạo cao cấp khác của đảng. Mấy năm sau, trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa. Giang Thanh đánh giá Hội nghị dưới sự chủ tọa của Chu Ân Lai và Trần Nghị là một Hội nghị đen và lên án một số cán bộ lãnh đạo đảng - có nghĩa là Chu Ân Lại và Trần Nghị - là họ đã quì mọp dưới chân giới trí thức, khi họ nhấc cái mũ tư sản của trí thức ra và thay bằng chiếc mũ giai cấp lao động.
Công việc của Lưu Thiếu Kỳ khiến cho ông luôn luôn gặp xung đột với Mao. Lưu đòi phục hồi danh dự cho những nạn nhân của các cuộc thanh trừng năm 1959. ý kiến này được hầu hết mọi người trong đảng tán thành. Trong thời gian cuộc Hội nghị bảy nghìn cán bộ, người ta đã thận trọng và kín đáo thảo luận về vụ Bành Đức Hoài. Người ta bắt đầu so sánh Bành Đức Hoài với Hải Thụy, một trung thần đời nhà Minh, người đã bị vua cách chức chỉ vì những lời góp ý thẳng thắn và những lời phê bình xác đáng, và cũng là một nhân vật được Mao rất khâm phục.
Đến tháng 4, dưới sự chỉ đạo của Lưu Thiếu Kỳ, ban thư ký trung ương đã bắt tay vào việc phục hồi cho những người theo Bành, hoặc những người phê phán kế hoạch đại nhảy vọt. Dưới khẩu hiệu Đánh giá lại công việc của cán bộ và đảng viên, người ta đã ủng hộ việc tha thứ cho ít nhất 70% cán bộ đang bị coi là có tội. Chỉ có việc thanh trừng nội bộ chống Bành Đức Hoài là không được xét lại, bởi vì ngay đến Luu Thiếu Kỳ cũng không dám qua mặt Mao trong vấn đề này. Lưu Thiếu Kỳ không hề xin phép Mao trong việc phục hồi cho các cán bộ, cả An Tử Văn, trưởng ban tổ chức của đảng cũng vậy. Đến lúc Mao nhận được một bản sao của văn bản phục hồi nói trên, Mao nói:
- An Tử Văn có lẽ chẳng bao giờ báo cáo trung ương về những việc làm của đồng chí ấy. Vì vậy, các đồng chí ở trung ương chẳng biết gì về các hoạt động trong ban tổ chức của đảng cả. Đồng chí ấy chẳng cho chúng ta biết những thông tin quan trọng và còn làm việc như một ông vua nữa.
Điền Gia Anh cho tôi biết. An Tử Văn rất bực khi biết Mao đã nói như vậy. An Tử Văn hỏi: Trung ương à? Thế trung ương là ai? Có rất nhiều các đồng chí lãnh đạo cao cấp ở Bắc Kinh - Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Bành Chân. Họ là những người chịu trách nhiệm về các công việc hành chính hàng ngày của đảng. Tôi báo cáo cho họ không phải là đã báo cáo cho trung ương hay sao?
Cả Trần Vân cũng xung khắc với Mao. Hồi đó ông ta là phó chủ tịch đảng, một chức vụ rất có thế lực, nhưng từ lâu, mối quan hệ của ông ta với Mao rất căng thẳng và ảnh hưởng của ông cũng rất ít. Sau những biến cố đầu thập kỷ 60, Trần Vân nhận ra rằng chỉ bằng cách giải tán các công xã nhân dân và trả lại ruộng đất cho nông dân thì mới có thể cải thiện tình hình được. Sau cuộc Hội nghị của bảy nghìn cán bộ, ông được ủy nhiệm phụ trách các công việc về kinh tế và tài chính của đảng. Khi ông trình lên bản báo cáo với những đề nghị cụ thể cho con đường thoát khỏi khủng hoảng và trả lại ruộng đất cho nông dân, thì Mao từ chối không chịu phê chuẩn. Mao ghi ngoài lề: Bức tranh được vẽ một cách đen tối này chẳng thấy một tia sáng nào. Đồng Trần Vân vốn xuất thân từ một gia đình buôn bán nhỏ và đồng chí ấy đã không dứt bỏ được đặc tính tư sản của mình. Đồng chí luôn luôn có chiều hướng hữu khuynh.
Trong thực tế, Chủ tịch đảng công kích phó chủ tịch đảng, chuyên gia kinh tế của đảng, theo kiểu này, lên án ông ta có đặc tính tư sản và thiên hữu sẽ là một tai họa. Trong cấp bậc của đảng, Trần Vân cao hơn hẳn so với Bành Đức Hoài và một sự kết luận kiểu như vậy từ phía Mao có thể dẫn đến việc đảng bị tan vỡ. Những lời của Mao đã xúc phạm Trần Vân đến nỗi Điền Gia Anh phải xử sự một cách bất thường: Điền ra lệnh cho Lâm Khắc, vừa mới trở về sau khi bị đi đày, không được gửi tài liệu có phụ chú của Mao lên trung ương. Nếu như tài liệu này được gửi lên có thể nó sẽ được người ta sử dụng trong tương lại để chống lại Trần Vân.
Điền Gia Anh không được phép gỉữ lại một tài liệu quan trọng như vậy nhưng ông ta ngưỡng mộ Trần Vân và đồng ý với những đánh giá của Trần Vân. Hơn nữa Điền Gia Anh không muốn để cho giới lãnh đạo cao cấp của đảng phải đi đến chỗ bị chia rẽ. Thay vì gửi lên trung ương, thì Điền Gia Anh đưa tài liệu đó cho Lâm Khắc, thư ký của Mao, còn Lâm Khắc thì giấu nó dưới đệm. Tài liệu đó không bao giờ được trình lên ban lãnh đạo đảng.
Phải có một ai đó đã báo cho Trần Vân biết về những lời bình của Mao. Bởi vậy, Trần Vân lập tức về Tô Châu lấy có là để dưỡng bệnh. Đó chẳng qua chỉ là một lý do chính trị. Ông không bao giờ bị cách chức hoặc bị công kích đích danh, nhưng trong thời gian Mao còn sống, ông không giữ một vai trò nào tích cực. Mãi đến năm 1980, sau cuộc Cách mang Văn hóa và Mao chết, Trần Vân lại bước lên diễn đàn chính trị. Sự trớ trêu của số phận muốn rằng, qua sự rút lui của ông, ông được bảo toàn trước những cuộc săn lùng của cuộc Cách mạng Văn hóa.
Cái tài liệu bị yểm đi với những lời phê phán Trần Vân đã bị phát hiện vào năm 1964. Hứa Diệp Phụ, người sau khi các hệ thống nghe trộm bị phát hiện, lại được cử làm thư ký riêng cho Mao và coi Lâm Khắc là một đối thủ, đã biết được vụ này và ra lệnh khám nhà Lâm Khắc trong khi Lâm Khắc đang đi công du với Mao. Người ta đã tìm được tài liệu này. Hứa Diệp Phụ gửi nó cho ban thư ký trung ương và viết báo cáo cho Mao và Uông Đông Hưng. Sau đó Lâm Khắc bị đuổi ra khỏi nhóm Một và Hứa Diệp Phụ được bổ nhiệm vào vị trí của địch thủ của mình.
Tuy vậy Điền Gia Anh vẫn thoát khỏi sự trừng phạt, nhưng cho đến khi cuộc Cách mạng Văn hóa bắt đầu, ông là một nhân viên đầu tiên của Mao bị công kích. Khi nhìn thấy tình trạng khốn khổ của Lâm Khắc bạn tôi, tôi vui sướng gấp bội vì tôi đã khước từ Mao khi ông yêu cầu tôi làm thư ký riêng cho ông. Nếu không hồi đó tôi cũng sẽ phải vạ.
Uông Đông Hưng cho tôi là một kẻ hoang đường khi tôi thổ lộ với ông về mối nghi ngờ của tôi là hình như Mao ngày càng thất vọng đối với hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của đảng. Ông nói: Đảng ta không phải là đảng cộng sản Liên-xô. Trong đảng cộng sản Trung quốc chỉ có sự thống nhất mà thôi. Thế nhưng, mỗi lời nói của Mao tôi đều giỏng tai lên nghe. Tình hình quả là khó lường.