Chương 7
Tác giả: Lý Chí Thỏa
Sau đêm đầu tiên nói chuyện với Mao, sáng hôm sau là ngày lễ 1-5, lúc 10 giờ tôi phải có mặt ở đội bảo vệ tư dinh Mao. Tôi mang túi thuốc theo người. Uông Đông Hưng đã có mặt ở đó và sau đó Mao Chủ tịch xuất hiện. Ông mặc bộ quần áo dạ giống bộ quần áo mà Tôn Trung Sơn mặc, chân đi giày da nâu. Ông vui mừng phấn chấn vì buổi lễ sắp khai mạc và nồng nhiệt chào chúng tôi.
Sau đó một lát bộ trưởng công an La Thụy Khanh đến và chúc mừng Mao. Theo lệnh Mao chúng tôi ngồi vào xe và tiến về quảng trường Thiên An Môn.
Sau khi trở về Trung quốc vào năm 1949 tôi không đi dự ngày lễ 1-5 hay ngày quốc khánh cộng hoà nhân dân Trung hoa 1-10, được tiến hành trên quảng trường Thiên An Môn. Tôi coi những ngày đó là niềm sung sướng của tôi. Tôi thích đám đông dân chúng hân hoan, duyệt binh, nhạc, và biển cờ. Tôi nhìn một cách ngưỡng mộ lên lễ đài có các nhà lãnh đạo đảng và nhà nước. Họ cũng thích diễu hành và vẫy chào nhân dân. Ngày lễ này đánh thức trong tôi lòng tự hào dân tộc. Nhưng hôm nay tôi cũng sẽ đứng trên lễ đài trên quảng trường cùng với các nhà lãnh đạo đất nước và cùng với họ quan sát những gì xảy ra bên dưới.
Tôi ngồi xe đầu tiên cạnh La Thụy Khanh. Khi chúng tôi đi đến cổng Thiên Bình thì La Thụy Khanh ra khỏi xe, chạy lại chiếc xe Mao ngồi, và kính cẩn mở cửa xe, nâng tay lãnh tụ. Mao liếc La, tự mình ra khỏi xe và cáu kỉnh nói: Hãy nhanh lên, không phải giúp tôi, mà là giúp phó chủ tịch Tống Khánh Linh. Ngày 1-5 là ngày lễ chính thức, và chính phủ cộng sản luôn giữ giữ chặt khẩu hiệu mặt trận thống nhất liên kết những người cộng sản và phong trào dân chủ và các đảng phái không cộng sản. Người nổi tiếng về lý tưởng thống nhất là người vợ goá của Tôn Trung Sơn, bà Tống Khánh Linh. La Thụy Khanh chạy theo xe bà, nhưng bà đã ra khỏi xe.
Tống Khánh Linh khoảng sáu mươi tuổi, nhưng bà cũng còn đẹp và duyên dáng, cũng như trong ngày quốc khánh cộng hoà nhân dân Trung hoa, khi tôi thấy bà lần đầu tiên. bà toát lên vẻ đôn hậu và dịu dàng. Đi qua mỗi người bà bắt tay thân mật.
Những người khác được gọi là nhân sĩ dân chủ lại hoàn toàn trái ngược với bà. Bọn họ tất cả tỏ vẻ cao ngạo và kiểu cách. Họ chào một cách uể oải và đi lại chậm chạp. Mao chân thành chào họ, sau đó quay về phía Tống Khánh Linh và lịch sự đi cùng bà vào gian tiếp khách, cạnh cổng Thiên Bình và giúp Tống Khánh Linh lên các bậc thềm đá.
Khi chúng tôi lên đến trên, thì một tràng vỗ tay vang lên chào khách. Tôi không ngờ lại thấy được một gian lớn đến thế. Trong đó có nhiều ghế bành êm ái xếp theo hình giẻ quạt. Khá nhiều thức ăn, đồ uống, hoa qua. Không ngạc nhiên khi các nhà lãnh đạo cao cấp có thể ngồi ở đây 5-6 giờ liền để xem đoàn người diễu hành.
Mao chào khách, sau đó tiến về ban công của lễ đài nhìn xuống quảng trường. Ban công được trang hoàng bằng biểu ngữ và cờ đỏ rực rỡ, và được ngăn với phòng bằng một tấm rèm lớn. Tôi theo Mao lên lễ đài. Với sự ngưỡng mộ, tôi quan sát những cử chỉ chào của ông với nhân dân. Chậm rãi và nghiêm trang, Mao đi dọc lễ đài, gửi lời chào tới tất cả mọi người có mặt ở quảng trường Thiên An Môn rộng lớn. Vẻ mặt của lãnh tụ bình thản, nhưng tôi biết rằng sự tự hào và vui mừng tràn trề lòng ông. Tôi cũng hoàn toàn cảm thấy thế. Quảng trường giống như một biển người rập rờn nhiều màu sắc. Trong đó có thể phân biệt được. Trong đó áo trăng của sinh viên, khăn quàng đỏ của thiếu nhi, biểu ngữ đỏ của đại diện giai cấp công nhân vàtrí thức. Khi Mao xuất hiện trên lễ đài, thì đám đông này chuyển động, cờ hoa vẫy liên tục, và hiện ra một biểu ngữ xếp bằng hàng nghìn con người, ý nghĩa ủng hộ đảng cộng sản, nước Trung hoa mới và lãnh tụ Mao.
Thị trưởng Bắc Kinh Bành Chân khai khai mạc buổi lễ. Quân nhạc cử quốc ca cộng hoà nhân dân Trung hoa. Pháo hoa bắn lên. Quân nhạc tiếp tục chơi và Đông phương hồng, sau đó Quốc tế ca và, cuối cùng, là diễu hành Giải phóng quân Trung quốc. Buổi lễ bắt đầu.
Đầu tiên diễu binh. Các đại diện cho trinh sát, hải quân và không quân diễu qua quảng trường, rồi xe tăng và pháo binh. Quân nhạc chơi những khúc quân hành. Sau đó, cuộc tuần hành trên Thiên An Môn. Dường như làn sóng người khổng lồ phủ lên là đội ngũ những người lao động, công nhân và sinh viên. Hàng đoàn người cờ hoa, biểu ngữ sặc sỡ. Quần chúng lao động chào mừng những người lãnh đạo đất nước đứng đầu với Mao.
Diễu binh và tuần hành kéo dài vài giờ, nhưng Mao rất xúc động gần như không dời lễ đài, chỉ thỉnh thoảng vào phòng uống nước cho đỡ khát.
Lúc gần kết thúc, hàng nghìn thiếu nhi sơ mi trắng, khăn quàng đỏ lên lễ đài. Chẳng có gì ngạc nhiên khi những người tuần hành tỏ lòng ngưỡng mộ Mao. Hình như người ta đã kiểm tra cẩn thận từng người.
Mao nói:
Tham dự buổi lễ, đồng chí nhận thấy bài học tuyệt vời chủ nghĩa yêu nước, và sẽ yêu đất nước mình hơn.
Ông nói đúng quá đi rồi. Trong ngày 1-5-1955 lần đầu tiên tôi đứng trên lễ đài cạnh lãnh tụ, nhìn xuống biển người mà lòng cảm thấy niềm tự hào lớn lao về đất nước vĩ đại của mình và sẵn sàng cống hiến cho nó.
Cuộc tuần hành kết thúc khoảng 4 giờ rưỡi, chúng tôi về Trung Nam Hải. Mao nghỉ ở gian khánh tiết, La Thụy Khanh gặp tôi và nhắc là buổi chiều chúng tôi lại tập hợp ở quảng trường Thiên An Môn để tham dự chiêu đãi.
La Thụy Khanh nói với tôi:
- Đồng chí rất mệt phải không, nhưng tôi sẽ chờ tất cả các đồng chí tại đây lúc 6 rưỡi. Đừng chậm đấy.
Tôi quay về nhà mình ở Trung Nam Hải. Vợ và con trong lúc chờ tôi, chơi cờ tướng. Hôm ấy tôi đã hứa với gia đình đi công viên, sau đó rẽ vào thăm mẹ nhưng tất cả kế hoạch bị hỏng.
Tôi sẽ nói với mẹ tôi gì đây? - Lý Liên than thở.
Vợ con tôi đến chỗ mẹ tôi, tôi nói rằng ngay lúc xong việc, tôi sẽ đến đó luôn. Nhưng nếu tôi không có mặt trước lúc 9 giờ tối, thì họ cứ về nhà. Sau đó tôi quay về phòng làm việc ở tư dinh Mao và tranh thủ ăn bát mỳ. Những người khác cũng đã tới. Các tay thư ký và bảo vệ than phiền là họ thâm chí chưa kịp ăn tối nữa.
Uông Đông Hưng an ủi họ.
- Đừng lo, ở Thiên An Môn đồ ăn thừa cho tất cả mọi người. Chỉ đừng có tụ tập nhau thành cụm quanh bàn thôi, để người ta khỏi xì xào là nhân viên của Mao có nhiệm vụ đặc biệt lại đi phá hỏng cuộc vui dành cho những người lãnh đạo.
Đến 7 giờ, nhưng Mao vẫn chưa thấy đâu. Cuối cùng Uông Đông Hưng giải thích: Mao đang sửa râu. Đến 7 rưỡi, La Thụy Khanh nhắc Uông Đông Hưng nói cho Mao là mọi người đã đến đày đủ cả rồi. Uông Đông Hưng biến vào phòng Mao. Tôi theo gót ông tới đó.
Mao ngồi ở chiếc bàn nhà ăn. Quanh người quấn khăn tắm trắng, tay cầm những tờ giấy mỏng được ghim lại. Mao mải mê đọc chú đọc chẳng hề để ý đến Vương, người phó cạo cao lớn đang xoay người theo Mao để cắt tóc. Người Vương đầm đìa mồ hôi.
Vương - cắt tóc cho Mao từ cuối những năm 30. Tên ông Vương Hoá, ông ngoài 60 tuổi. Khi đảng năm 1942 tiến hành chiến dịch thanh lọc hàng ngũ, Vương bị buộc tội thiếu lòng tin vào đảng. Vụ việc này được đem ra mổ xẻ và người ta tuyên bố là người thợ cạo Vương Hoá nằm trong số những người mưu giết Mao bằng dao cạo.
Sau này Mao cũng kể cho tôi nghe điều này. Mao nghi ngờ về tội trạng của Vương. Chả lẽ ông phó cạo này cắt tóc và cạo râu cho Mao từng ấy năm thậm chí chẳng có lần nào cắt cổ ông ta ư. Nếu như ông phó cạo được trao nhiệm vụ giết Mao, thì ông có thể làm điều này sớm hơn. Mao gọi Vương đến. Ông này quỳ xuống, nước mắt đầm đìa nhận tội rằng định giết lãnh tụ. Mao hỏi: Vì sao anh vẫn chưa giết tôi?. Vương trả lời rằng còn chờ quân Quốc dân đảng kéo tới. Mao nói Nhưng nếu họ tới được thì họ giết tôi và chẳng cần gì anh nữa đâu
Mao bắt Vương phải kể hết sự thật và ông phó cạo nói rằng trong khi hỏi cung người cán bộ điều tra không cho ông ta ngủ mấy hôm liền và bắt ông nhận tội chống Mao. Thế là vụ việc của ông phó cạo bất hạnh được khép lại.
Mao nói:
- Khi tôi tuyên bố về sự thanh lọc, tôi đã nhấn mạnh là cần làm rõ bản chất chứ không phải làm chứng cớ giả để gán cho người vô tội.
Vương, người thợ cạo to lớn trung thành với Mao như một con chó. Rất thú vị là phần đông những người phục vụ Mao tin cẩn và trung thành thời ấy đã được lãnh tụ cứu thoát khỏi sự trừng phạt trông thấy nhỡn tiền, đó là cái chết.
La Thụy Khanh đi đến và nói Uông Đông Hưng giục Mao. Tuy nhiên Uông Đông Hưng nói rằng sự hấp tấp có thể làm Chủ tịch bị thương, và từ chối làm điều này, nói với La đừng xía vô việc này.
Cuối cùng việc cắt tóc hoàn thành, và ông phó cạo mệt lử cạo râu cho Mao. Công việc này té ra lại phức tạp hơn. Mao vẫn mải đọc, và cằm của ông hạ thấp xuống Vương buộc phải quỳ xuống để đưa dao cạo vào đúng chỗ, thời gian cứ trôi dần.
Cuối cùng mọi việc kết thúc và bầu đoàn kéo tới quảng trường. Tôi ngồi cùng xe với Uông Đông Hưng và La Thụy Khanh. Họ thảo luận vấn đề cắt tóc và cạo râu của Chủ tịch. La Thụy Khanh đề nghị mang một chiếc ghế cắt tóc từ khách sạn Bắc Kinh đặt vào phòng riếng cho Mao. Uông Đông Hưng nói là ông đã gợi ý Mao điều này, nhưng Mao từ chối. Uông nói thêm:Chủ tịch làm mọi thứ theo ý mình
La Thụy Khanh tiếp tục:
- Nhưng có lẽ tay phó cạo Vương già quá rồi và tay thì run run, cái gì xảy ra nếu ông ta làm xước mặt Mao. Hơi ghê đấy!
Uông nói:
- Nhưng tìm được người thay Vương cũng chẳng đơn giản đâu. Mao không muốn điều đó và cũng không nghe đâu. Ông ta sợ đưa tới một người mới với con dao cạo sắc trong tay.
La Thụy Khanh im. Ông dĩ nhiên trung thành với Mao, nhưng ông ít khi hiểu được tính đa nghi của Chủ tịch. Tất nhiên Uông Đông Hưng rõ hơn.
Nghe họ, tôi đột nhiên sợ rằng một lúc nào đó khi tôi đến chữa cho Mao đem theo bơm tiêm và kim tiêm. Và Mao chỉ cho phép tôi làm điều này chỉ khi tin tôi hoàn toàn. Nếu tôi không xứng đáng với lòng tin cậy ngay từ bây giờ, thì tôi không thể trong là bác sĩ riêng của lãnh tụ trong tương lai. Tôi cần phải gần Mao, kể hết ý nghĩ của tôi và cố gắng làm bạn với ông ta.
Ngay lúc Mao lên ban công, pháo hoa bắt đầu bắn lên. Bầu trời được sáng lên bởi hàng nghìn ngọn lửa nhiều màu sắc chiếu sáng thành cổ. Phía dưới là quảng trường Thiên An Môn rộng lớn, hàng trăm nghìn người vui sướng, hạnh phúc và hớn hở quây quần nhảy múa.
Trong khi xem pháo hoa, Chu Ân Lai đến chỗ Mao đề nghị lãnh tụ chụp ảnh kỷ niệm với khách nước ngoài được mời đến dự lễ. Trong số khách có cả Hồ Chí Minh, lãnh tụ của nhân dân Việt nam. Ông Hồ năm ấy 65 tuổi, ông gày gò nhưng đày sinh lực. Ông nổi bật ở bộ râu màu xám, thưa và dài. Ông ăn vận như một nông dân, chân đi dép rọ bằng da. Hồ Chí Minh từng sống ở Trung quốc nhiều năm và rất thích các đồ Trung quốc như thức ăn, quần áo, nhà cửa, phương tiện đi lại. Ông biết tiếng Trung quốc do trong những năm dài sống ở Trung hoa, chủ yếu ở phương nam, tỉnh Vân Nam và Quảng Đông giáp giới Việt nam. Người ta giới thiệu tôi với ông, và tôi rất thích ông. Mao tạo ra sự ngưỡng mộ và kính trọng, còn Hồ Chí Minh thì tính tình chan hoà hơn và không gây ra sự sùng kính một cách kinh hãi như ở Mao.
Pháo hoa kết thúc lúc 10 giờ đêm. Tôi không biết phải chi hết bao nhiêu tiền cho vui chơi và phục vụ khách khứa, nhưng người ta kể cho tôi rằng chỉ riêng tiền pháo hoa cũng hết nửa triệu nhân dân tệ. Năm ấy tiền lương trung bình khoảng 30 nhân dân tệ. Về sau tôi xem tất cả những buổi lễ tương tự là chi phí điên rồ và tộ lỗi. Đặc biệt là tổ chức những ngày lễ này trong những năm khó khăn khi ở Trung quốc hàng triệu người chết đói. Từ đó trở đi ngày lễ với tôi coi như không có trên đời. Càng ngày việc tổ chức lễ hội làm Mao cáu. Ngay quốc khách cộng hoà nhân dân Trung hoa và 1-5 làm kiệt sức lãnh tụ. Ông chỉ đến lễ đài đúng giờ. Ông rất lo lắng vào đêm hôm trước ngày lễ và thường mất ngủ, đôi khi ông không ngủ được đến sáng. Nhưng quần chúng nhân dân hăng hái làm ông sôi nổi lên, nhưng không ai trong ngày ấy nhận ra sự mệt mỏi và cáu bẳn của ông. Thật ra đôi khi trong ngày lễ ông bị cảm sốt và viêm phế quản. Về sau bệnh viêm phế quản dẫn đến khó thở.
Mao không thể mặc quần áo được. Nhưng để tham dự lễ, người ta phải mặc quần áo cho ông. Ông không thích những ngày lễ trịnh trọng, đến nỗi sau này thậm chí từ chối khỏi chức vụ Chủ tịch cộng hoà nhân dân Trung hoa. Ông cũng bỏ cả các buổi tiếp mệt nhọc và các cuộc gặp chính thức. Đầu những năm 60 Mao chỉ tham dự ngày quốc khánh cộng hoà nhân dân Trung, nhưng chỉ 5 năm một lần. Ông giải thích điều này bề ngoài như là do vấn đề tiền bạc. Dù vậy trong những năm cuối Cách mạng văn hoá, lúc cao trào đấu tranh giành quyền lực, Mao xuất hiện trên quảng trường Thiên An Môn tám lần cả thảy. Ông chào mừng Hồng vệ binh từ khắp các ngõ ngách Trung quốc, và thổi vào họ những luồng kích thích mới. Đương nhiên, phí tổn cho cuộc biểu dương thích thú này lấy vượt quá tiền chi cho buổi lễ chính thức. Nhưng để giải quyết vấn đề quyền lực, Mao không ngần ngại chi phí này.
Sau âm mưu bất thành, Lâm Bưu bay sang Liên-xô tháng 9 năm 1971, Mao cũng thôi tham dự các buổi lễ chính thức.
Tuy nhiên ngày 1-5-1955 Mao vẫn còn đang hưng thịnh, còn tôi hoan hỉ bên cạnh ông và sự xót ruột do chi phí tiệc tùng dường như tan biến. Tôi đợi đến cuối buổi lễ để quay về xum họp gia đình. Nhưng điều này xảy ra. Tôi ngạc nhiên biết rằng Mao rất thích khiêu vũ một cách điên cuồng. Sau cách mạng các buổi khiêu vũ được coi là định kiến tư sản, các vũ trường bị đóng cửa. Tuy nhiên đằng sau bức tờng Trung Nam Hải, Mao hàng tuần đều bố trí khiêu vũ. Thường nhảy ở chỗ rộng rãi gian Liên Xuân, phía bắc tư dinh Mao. Ngay tối hôm ấy, sau khi pháo hoa, Mao quyết định khiêu vũ và tôi, bác sĩ riêng phải ở lại với ông.
Tôi cùng Mao vào phòng to. Tức khắc vây quanh Mao là những cô gái trẻ của nhóm khiêu vũ của bộ phận bảo vệ Mao. Họ tán tỉnh ông và mời ông nhảy. Ban kèn hơi chơi những bài nhạc nhảy điệu foxtrot, van-xơ và tăng gô, còn Mao làn lượt nhảy với hết cô này đến cô khác. Ông nhảy không đẹp, nhưng ăn nhịp tuyệt đẹp và nhảy khá tao nhã. Sau mỗi lần nhảy, ông kịp đổi bạn nhảy chỉ bằng vài câu. Những người còn lại cũng theo gương Mao vào nhảy. Giang Thanh chiều ấy không có mặt. Đêm hôm trước bà bay đi Hàng Châu. Tuy nhiên chiều ấy có mặt Chu Đức và Lưu Thiếu Kỳ. Trong gian chỉ có một vài chiếc bàn. Các nhà lãnh đạo ngồi ở đó. Hàng trăm người phục vụ và ca sĩ của ban nhạc ngồi ở ghế đặt quanh tường phòng nhảy. Đàn ông ít hơn phụ nữ, vì thế một cô gái xinh đẹp mời tôi nhảy.
Dần dần người ta thay các điệu nhạc phương tây bằng nhạc kinh kịch Trung quốc. Lúc ấy dưới con mắt người nước ngoài thì các màn nhảy này có vẻ gượng gạo, thô thiển, thậm chí còn không đứng đắn. Bản thân nhạc Trung quốc người phương tây không thể hiểu được, chỉ toàn những tiếng kèn nghe chói tai, người ta lại giải thích là do chưa hoàn thiện, khác hẳn với nhạc phương đông mà người phương tây quen nghe. Tôi ngạc nhiên là buổi chiều đó lại vang lên bản nhạc, trong đó kể về tình yêu của một cô gái điếm với chàng sinh viên trẻ. Tôi còn ngạc nhiên hơn nữa là tại thời điểm này Mao ra khỏi phòng và mô tả vở nhạc kịch bằng kiểu nhảy phương tây.
Khuya rồi, tôi cho là là nhiệm vụ của tôi đã xong. Tôi gặp Lý ẩm Kiều nói là tôi phải về nhà, nhưng anh ta nói:
- Đồng chí cần ở lại. Chủ tịch, tất nhiên, đang vui nhảy, nhưng ông vẫn quan sát tất cả chúng ta đấy. Nếu bây giờ đồng chí đi khỏi phòng, thì Mao đánh giá điều này như là thiếu tôn trọng ông. Phía đồng chí, là sự bỏ đi, phía tôi là sự cho phép đồng chí đi.
Tôi ngạc nhiên:
- Nhưng thế này là thế nào? Chúng ta hình như không làm điều gì đáng trách cả.
Lý trả lời:
- Thế đấy, đồng chí chưa hiểu rõ Chủ tịch. Hãy nghe tôi và đồng chí sẽ hiểu tất cả.
Lý hoàn toàn đúng. Thậm chí khi Mao nghỉ ngơi, ông ta cũng biết người của ông ở nơi nào và bắt tất cả mọi người phải ở bên cạnh ông. Một năm sau, ở Hàng Châu, tôi mệt đến mức quyết định không đến khiêu vũ. Tôi quay về vào buồng mình và quyết định nghỉ một lát, nhưng tôi nghe thấy tiếng gõ cửa. Tôi mở cửa và thấy tay vệ sĩ của Mao đứng ngay ngưỡng cửa:
- Có thật là người ta không báo cho đồng chí về buổi dạ hội không?
Anh ta nói thêm:
- Đồng chí nên đi đi!
Sau này vào năm 1958 ở Hồ Nam, tôi quyết định phớt lờ cuộc vui ban đêm do mưa to. Tuy nhiên sau một giờ một tay phụ trách công an tỉnh Hồ Nam xuất hiện trước mặt tôi và nói là Mao trao cho anh ta đón tôi đến cuộc vui đó. Sau đấy, tôi hiểu là mình phải luôn có mặt bên Mao.
Phải cần đến 7 năm tôi mới hiểu rằng Mao thu xếp các buổi khiêu vũ ban tối để làm gì. Các nhóm khiêu vũ thuộc bộ phận bảo vệ do Uông Đông Hưng xây dựng. Té ra là đội ngũ các cô gái nhẩy ấy không chỉ tiêu khiển các tay vệ sĩ và lính tráng, mà còn cho cả lãnh tụ. Trong nhóm có nhiều cô gái nhảy duyên dáng, thành thạo được trải qua thử thách lòng trung thành về mặt chính trị.
Năm 1961, người ta mang một trong những chiếc giường của lãnh tụ sang buồng bên cạnh phòng nhảy. Trong thời gian khiêu vũ, Mao không ít lần vào đó thư dãn cùng với các bạn nhảy xinh đẹp của mình.
Phó Chủ tịch ủy ban quân sự Bành Đức Hoài hai lần phê bình Mao về chuyện phiêu lưu tình ái với gái nhảy trong các cuộc họp Bộ chính trị. Bành là một ủy viên Bộ chính trị trung thực và thẳng thắn, và là người duy nhất thường phê bình Mao. Bành cũng tuyên bố rằng Mao sống như vua và chứa chấp khoảng ba nghìn tì thiếp. Ngoài ra, Bành buộc tội La Thụy Khanh và Uông Đông Hưng đã thỏa mãn mọi ý thích của lãnh tụ. Kết quả nhóm gái nhảy bị giải tán, nhưng Mao chẳng thay đổi gì, tiếp tục kéo các cô gái trẻ vào giường mình. Ông tìm những cô gái này chủ yếu ở các đoàn văn công thuộc Giải phóng quân Trung quốc, trong quân khu Bắc Kinh, trong các đơn vị không quân, đường sắt, pháo binh, cuối cùng là ở các tỉnh Triết Giang, Giang Tây và Hà Bắc. Nhưng lãnh tụ cũng chẳng từ cả các nhân viên bộ máy Ban chấp hành trung ương. Nhưng năm 1955 tôi vẫn còn chưa biết điều đó.
Tôi rất muốn về nhà, nhưng phải chờ đến cuối buổi. Chỉ mãi đến hai giờ sáng cuối cùng tôi mới được về nhà với vợ con.
Lý Liên đưa tôi bát cháo và rất đau khổ nói rằng ngày lễ của gia đình vắng tôi. Mẹ tôi chuẩn bị bữa cỗ ngon lành. Cả nhà chờ tôi đến 10 giờ tối và không ngồi vào bàn. Thằng con trai nhỏ của tôi mệt đến nỗi phải ngủ ở nhà bà và Lý Liên cũng phải ở lại chăm nó đến sáng sớm.
Sau vài tuần kể từ buổi gặp Mao hôm đầu, cuộc sống của tôi đã ra khỏi tầm tay. Chế độ sinh hoạt hàng ngày thay đổi hẳn, và Lý Liên nhận xét là tôi đã theo thói quen của Mao. Từ lúc nhận việc bác sĩ riêng của lãnh tu, cuộc ssóng của tôi và gia đình tôi trong suốt hai chục năm liền luôn luôn trong tình trạng bất ổn và lạ lùng. Tôi rất yêu Lý Liên, nhưng hiếm khi có mặt ở nhà. Các buổi giỗ chạp ở nhà mẹ tôi thường vắng mặt tôi. Trong những năm làm việc với Mao tôi chỉ có hai tuần nghỉ phép.
Đoi khi tôi phải thức với Mao suốt đêm. Tôi trở lại nhà khi trời sáng. Lý Liên luôn luôn chờ tôi và rất lo.
Mao thường xuyên du lịch, và tôi phải tháp tùng ông. Tôi có thể vắng nhà vài tháng, có một lần gia đình không nhìn thấy tôi cả năm. Lý Liên luôn trong tình trạng lo lắng cho tôi. Cô ta bị mất ngủ. Thằng con thứ hai của tôi, Erward sinh năm 1956, và ngày sinh nó tôi cũng không có mặt ở nhà.
Lý Liên cho rằng thật lạ lùng người ta buộc tôi phải sống trong một môi trường như thế. Vợ tôi không vào đảng. Người ta đánh giá vợ tôi là không tin cậy về chính trị do thành phần xuất thân và vài năm làm sở Mỹ và Anh. Chỉ có chức vụ của tôi mới bảo vệ được cô ta những cuộc bão táp chính trị mà nạn nhân lên đến con số hàng triệu người.
Tất cả sức lực vợ tôi dành cho gia đình, nuôi nấng con cái và chăm sóc mẹ già của tôi. Lý Liên cố gắng xây dựng trong nhà một góc con bầu không khí hạnh phúc và sung sướng để trong những giờ hiếm hoi khi tôi ở nhà để tôi cảm thấy hạnh phúc và yên tâm. Lý Liên trở về Trung quốc khi là một phụ nữ trẻ, hiền lành và đầy sinh lực. Trong máu vợ tôi sôi lên nhiệt huyết, và rất yêu đất nước. Nhưng năm tháng đã làm vợ tôi thay đổi đến mức làm tôi đau lòng và thất vọng triền miên. Sự sợ hãi vì tôi, không công việc ổn định và sự rời rạc cuộc sống mới ở Trung quốc - khiến vợ tôi buồn rầu và chán nản. Chúng tôi không sống mà là bơi theo dòng. Khó mà gọi gia đình chúng tôi là gia đình - Vợ tôi nói thế.
Những hy vọng trong mắt vợ tôi đã héo dần.
Sau đêm đầu tiên nói chuyện với Mao, sáng hôm sau là ngày lễ 1-5, lúc 10 giờ tôi phải có mặt ở đội bảo vệ tư dinh Mao. Tôi mang túi thuốc theo người. Uông Đông Hưng đã có mặt ở đó và sau đó Mao Chủ tịch xuất hiện. Ông mặc bộ quần áo dạ giống bộ quần áo mà Tôn Trung Sơn mặc, chân đi giày da nâu. Ông vui mừng phấn chấn vì buổi lễ sắp khai mạc và nồng nhiệt chào chúng tôi.
Sau đó một lát bộ trưởng công an La Thụy Khanh đến và chúc mừng Mao. Theo lệnh Mao chúng tôi ngồi vào xe và tiến về quảng trường Thiên An Môn.
Sau khi trở về Trung quốc vào năm 1949 tôi không đi dự ngày lễ 1-5 hay ngày quốc khánh cộng hoà nhân dân Trung hoa 1-10, được tiến hành trên quảng trường Thiên An Môn. Tôi coi những ngày đó là niềm sung sướng của tôi. Tôi thích đám đông dân chúng hân hoan, duyệt binh, nhạc, và biển cờ. Tôi nhìn một cách ngưỡng mộ lên lễ đài có các nhà lãnh đạo đảng và nhà nước. Họ cũng thích diễu hành và vẫy chào nhân dân. Ngày lễ này đánh thức trong tôi lòng tự hào dân tộc. Nhưng hôm nay tôi cũng sẽ đứng trên lễ đài trên quảng trường cùng với các nhà lãnh đạo đất nước và cùng với họ quan sát những gì xảy ra bên dưới.
Tôi ngồi xe đầu tiên cạnh La Thụy Khanh. Khi chúng tôi đi đến cổng Thiên Bình thì La Thụy Khanh ra khỏi xe, chạy lại chiếc xe Mao ngồi, và kính cẩn mở cửa xe, nâng tay lãnh tụ. Mao liếc La, tự mình ra khỏi xe và cáu kỉnh nói: Hãy nhanh lên, không phải giúp tôi, mà là giúp phó chủ tịch Tống Khánh Linh. Ngày 1-5 là ngày lễ chính thức, và chính phủ cộng sản luôn giữ giữ chặt khẩu hiệu mặt trận thống nhất liên kết những người cộng sản và phong trào dân chủ và các đảng phái không cộng sản. Người nổi tiếng về lý tưởng thống nhất là người vợ goá của Tôn Trung Sơn, bà Tống Khánh Linh. La Thụy Khanh chạy theo xe bà, nhưng bà đã ra khỏi xe.
Tống Khánh Linh khoảng sáu mươi tuổi, nhưng bà cũng còn đẹp và duyên dáng, cũng như trong ngày quốc khánh cộng hoà nhân dân Trung hoa, khi tôi thấy bà lần đầu tiên. bà toát lên vẻ đôn hậu và dịu dàng. Đi qua mỗi người bà bắt tay thân mật.
Những người khác được gọi là nhân sĩ dân chủ lại hoàn toàn trái ngược với bà. Bọn họ tất cả tỏ vẻ cao ngạo và kiểu cách. Họ chào một cách uể oải và đi lại chậm chạp. Mao chân thành chào họ, sau đó quay về phía Tống Khánh Linh và lịch sự đi cùng bà vào gian tiếp khách, cạnh cổng Thiên Bình và giúp Tống Khánh Linh lên các bậc thềm đá.
Khi chúng tôi lên đến trên, thì một tràng vỗ tay vang lên chào khách. Tôi không ngờ lại thấy được một gian lớn đến thế. Trong đó có nhiều ghế bành êm ái xếp theo hình giẻ quạt. Khá nhiều thức ăn, đồ uống, hoa qua. Không ngạc nhiên khi các nhà lãnh đạo cao cấp có thể ngồi ở đây 5-6 giờ liền để xem đoàn người diễu hành.
Mao chào khách, sau đó tiến về ban công của lễ đài nhìn xuống quảng trường. Ban công được trang hoàng bằng biểu ngữ và cờ đỏ rực rỡ, và được ngăn với phòng bằng một tấm rèm lớn. Tôi theo Mao lên lễ đài. Với sự ngưỡng mộ, tôi quan sát những cử chỉ chào của ông với nhân dân. Chậm rãi và nghiêm trang, Mao đi dọc lễ đài, gửi lời chào tới tất cả mọi người có mặt ở quảng trường Thiên An Môn rộng lớn. Vẻ mặt của lãnh tụ bình thản, nhưng tôi biết rằng sự tự hào và vui mừng tràn trề lòng ông. Tôi cũng hoàn toàn cảm thấy thế. Quảng trường giống như một biển người rập rờn nhiều màu sắc. Trong đó có thể phân biệt được. Trong đó áo trăng của sinh viên, khăn quàng đỏ của thiếu nhi, biểu ngữ đỏ của đại diện giai cấp công nhân vàtrí thức. Khi Mao xuất hiện trên lễ đài, thì đám đông này chuyển động, cờ hoa vẫy liên tục, và hiện ra một biểu ngữ xếp bằng hàng nghìn con người, ý nghĩa ủng hộ đảng cộng sản, nước Trung hoa mới và lãnh tụ Mao.
Thị trưởng Bắc Kinh Bành Chân khai khai mạc buổi lễ. Quân nhạc cử quốc ca cộng hoà nhân dân Trung hoa. Pháo hoa bắn lên. Quân nhạc tiếp tục chơi và Đông phương hồng, sau đó Quốc tế ca và, cuối cùng, là diễu hành Giải phóng quân Trung quốc. Buổi lễ bắt đầu.
Đầu tiên diễu binh. Các đại diện cho trinh sát, hải quân và không quân diễu qua quảng trường, rồi xe tăng và pháo binh. Quân nhạc chơi những khúc quân hành. Sau đó, cuộc tuần hành trên Thiên An Môn. Dường như làn sóng người khổng lồ phủ lên là đội ngũ những người lao động, công nhân và sinh viên. Hàng đoàn người cờ hoa, biểu ngữ sặc sỡ. Quần chúng lao động chào mừng những người lãnh đạo đất nước đứng đầu với Mao.
Diễu binh và tuần hành kéo dài vài giờ, nhưng Mao rất xúc động gần như không dời lễ đài, chỉ thỉnh thoảng vào phòng uống nước cho đỡ khát.
Lúc gần kết thúc, hàng nghìn thiếu nhi sơ mi trắng, khăn quàng đỏ lên lễ đài. Chẳng có gì ngạc nhiên khi những người tuần hành tỏ lòng ngưỡng mộ Mao. Hình như người ta đã kiểm tra cẩn thận từng người.
Mao nói:
Tham dự buổi lễ, đồng chí nhận thấy bài học tuyệt vời chủ nghĩa yêu nước, và sẽ yêu đất nước mình hơn.
Ông nói đúng quá đi rồi. Trong ngày 1-5-1955 lần đầu tiên tôi đứng trên lễ đài cạnh lãnh tụ, nhìn xuống biển người mà lòng cảm thấy niềm tự hào lớn lao về đất nước vĩ đại của mình và sẵn sàng cống hiến cho nó.
Cuộc tuần hành kết thúc khoảng 4 giờ rưỡi, chúng tôi về Trung Nam Hải. Mao nghỉ ở gian khánh tiết, La Thụy Khanh gặp tôi và nhắc là buổi chiều chúng tôi lại tập hợp ở quảng trường Thiên An Môn để tham dự chiêu đãi.
La Thụy Khanh nói với tôi:
- Đồng chí rất mệt phải không, nhưng tôi sẽ chờ tất cả các đồng chí tại đây lúc 6 rưỡi. Đừng chậm đấy.
Tôi quay về nhà mình ở Trung Nam Hải. Vợ và con trong lúc chờ tôi, chơi cờ tướng. Hôm ấy tôi đã hứa với gia đình đi công viên, sau đó rẽ vào thăm mẹ nhưng tất cả kế hoạch bị hỏng.
Tôi sẽ nói với mẹ tôi gì đây? - Lý Liên than thở.
Vợ con tôi đến chỗ mẹ tôi, tôi nói rằng ngay lúc xong việc, tôi sẽ đến đó luôn. Nhưng nếu tôi không có mặt trước lúc 9 giờ tối, thì họ cứ về nhà. Sau đó tôi quay về phòng làm việc ở tư dinh Mao và tranh thủ ăn bát mỳ. Những người khác cũng đã tới. Các tay thư ký và bảo vệ than phiền là họ thâm chí chưa kịp ăn tối nữa.
Uông Đông Hưng an ủi họ.
- Đừng lo, ở Thiên An Môn đồ ăn thừa cho tất cả mọi người. Chỉ đừng có tụ tập nhau thành cụm quanh bàn thôi, để người ta khỏi xì xào là nhân viên của Mao có nhiệm vụ đặc biệt lại đi phá hỏng cuộc vui dành cho những người lãnh đạo.
Đến 7 giờ, nhưng Mao vẫn chưa thấy đâu. Cuối cùng Uông Đông Hưng giải thích: Mao đang sửa râu. Đến 7 rưỡi, La Thụy Khanh nhắc Uông Đông Hưng nói cho Mao là mọi người đã đến đày đủ cả rồi. Uông Đông Hưng biến vào phòng Mao. Tôi theo gót ông tới đó.
Mao ngồi ở chiếc bàn nhà ăn. Quanh người quấn khăn tắm trắng, tay cầm những tờ giấy mỏng được ghim lại. Mao mải mê đọc chú đọc chẳng hề để ý đến Vương, người phó cạo cao lớn đang xoay người theo Mao để cắt tóc. Người Vương đầm đìa mồ hôi.
Vương - cắt tóc cho Mao từ cuối những năm 30. Tên ông Vương Hoá, ông ngoài 60 tuổi. Khi đảng năm 1942 tiến hành chiến dịch thanh lọc hàng ngũ, Vương bị buộc tội thiếu lòng tin vào đảng. Vụ việc này được đem ra mổ xẻ và người ta tuyên bố là người thợ cạo Vương Hoá nằm trong số những người mưu giết Mao bằng dao cạo.
Sau này Mao cũng kể cho tôi nghe điều này. Mao nghi ngờ về tội trạng của Vương. Chả lẽ ông phó cạo này cắt tóc và cạo râu cho Mao từng ấy năm thậm chí chẳng có lần nào cắt cổ ông ta ư. Nếu như ông phó cạo được trao nhiệm vụ giết Mao, thì ông có thể làm điều này sớm hơn. Mao gọi Vương đến. Ông này quỳ xuống, nước mắt đầm đìa nhận tội rằng định giết lãnh tụ. Mao hỏi: Vì sao anh vẫn chưa giết tôi?. Vương trả lời rằng còn chờ quân Quốc dân đảng kéo tới. Mao nói Nhưng nếu họ tới được thì họ giết tôi và chẳng cần gì anh nữa đâu
Mao bắt Vương phải kể hết sự thật và ông phó cạo nói rằng trong khi hỏi cung người cán bộ điều tra không cho ông ta ngủ mấy hôm liền và bắt ông nhận tội chống Mao. Thế là vụ việc của ông phó cạo bất hạnh được khép lại.
Mao nói:
- Khi tôi tuyên bố về sự thanh lọc, tôi đã nhấn mạnh là cần làm rõ bản chất chứ không phải làm chứng cớ giả để gán cho người vô tội.
Vương, người thợ cạo to lớn trung thành với Mao như một con chó. Rất thú vị là phần đông những người phục vụ Mao tin cẩn và trung thành thời ấy đã được lãnh tụ cứu thoát khỏi sự trừng phạt trông thấy nhỡn tiền, đó là cái chết.
La Thụy Khanh đi đến và nói Uông Đông Hưng giục Mao. Tuy nhiên Uông Đông Hưng nói rằng sự hấp tấp có thể làm Chủ tịch bị thương, và từ chối làm điều này, nói với La đừng xía vô việc này.
Cuối cùng việc cắt tóc hoàn thành, và ông phó cạo mệt lử cạo râu cho Mao. Công việc này té ra lại phức tạp hơn. Mao vẫn mải đọc, và cằm của ông hạ thấp xuống Vương buộc phải quỳ xuống để đưa dao cạo vào đúng chỗ, thời gian cứ trôi dần.
Cuối cùng mọi việc kết thúc và bầu đoàn kéo tới quảng trường. Tôi ngồi cùng xe với Uông Đông Hưng và La Thụy Khanh. Họ thảo luận vấn đề cắt tóc và cạo râu của Chủ tịch. La Thụy Khanh đề nghị mang một chiếc ghế cắt tóc từ khách sạn Bắc Kinh đặt vào phòng riếng cho Mao. Uông Đông Hưng nói là ông đã gợi ý Mao điều này, nhưng Mao từ chối. Uông nói thêm:Chủ tịch làm mọi thứ theo ý mình
La Thụy Khanh tiếp tục:
- Nhưng có lẽ tay phó cạo Vương già quá rồi và tay thì run run, cái gì xảy ra nếu ông ta làm xước mặt Mao. Hơi ghê đấy!
Uông nói:
- Nhưng tìm được người thay Vương cũng chẳng đơn giản đâu. Mao không muốn điều đó và cũng không nghe đâu. Ông ta sợ đưa tới một người mới với con dao cạo sắc trong tay.
La Thụy Khanh im. Ông dĩ nhiên trung thành với Mao, nhưng ông ít khi hiểu được tính đa nghi của Chủ tịch. Tất nhiên Uông Đông Hưng rõ hơn.
Nghe họ, tôi đột nhiên sợ rằng một lúc nào đó khi tôi đến chữa cho Mao đem theo bơm tiêm và kim tiêm. Và Mao chỉ cho phép tôi làm điều này chỉ khi tin tôi hoàn toàn. Nếu tôi không xứng đáng với lòng tin cậy ngay từ bây giờ, thì tôi không thể trong là bác sĩ riêng của lãnh tụ trong tương lai. Tôi cần phải gần Mao, kể hết ý nghĩ của tôi và cố gắng làm bạn với ông ta.
Ngay lúc Mao lên ban công, pháo hoa bắt đầu bắn lên. Bầu trời được sáng lên bởi hàng nghìn ngọn lửa nhiều màu sắc chiếu sáng thành cổ. Phía dưới là quảng trường Thiên An Môn rộng lớn, hàng trăm nghìn người vui sướng, hạnh phúc và hớn hở quây quần nhảy múa.
Trong khi xem pháo hoa, Chu Ân Lai đến chỗ Mao đề nghị lãnh tụ chụp ảnh kỷ niệm với khách nước ngoài được mời đến dự lễ. Trong số khách có cả Hồ Chí Minh, lãnh tụ của nhân dân Việt nam. Ông Hồ năm ấy 65 tuổi, ông gày gò nhưng đày sinh lực. Ông nổi bật ở bộ râu màu xám, thưa và dài. Ông ăn vận như một nông dân, chân đi dép rọ bằng da. Hồ Chí Minh từng sống ở Trung quốc nhiều năm và rất thích các đồ Trung quốc như thức ăn, quần áo, nhà cửa, phương tiện đi lại. Ông biết tiếng Trung quốc do trong những năm dài sống ở Trung hoa, chủ yếu ở phương nam, tỉnh Vân Nam và Quảng Đông giáp giới Việt nam. Người ta giới thiệu tôi với ông, và tôi rất thích ông. Mao tạo ra sự ngưỡng mộ và kính trọng, còn Hồ Chí Minh thì tính tình chan hoà hơn và không gây ra sự sùng kính một cách kinh hãi như ở Mao.
Pháo hoa kết thúc lúc 10 giờ đêm. Tôi không biết phải chi hết bao nhiêu tiền cho vui chơi và phục vụ khách khứa, nhưng người ta kể cho tôi rằng chỉ riêng tiền pháo hoa cũng hết nửa triệu nhân dân tệ. Năm ấy tiền lương trung bình khoảng 30 nhân dân tệ. Về sau tôi xem tất cả những buổi lễ tương tự là chi phí điên rồ và tộ lỗi. Đặc biệt là tổ chức những ngày lễ này trong những năm khó khăn khi ở Trung quốc hàng triệu người chết đói. Từ đó trở đi ngày lễ với tôi coi như không có trên đời. Càng ngày việc tổ chức lễ hội làm Mao cáu. Ngay quốc khách cộng hoà nhân dân Trung hoa và 1-5 làm kiệt sức lãnh tụ. Ông chỉ đến lễ đài đúng giờ. Ông rất lo lắng vào đêm hôm trước ngày lễ và thường mất ngủ, đôi khi ông không ngủ được đến sáng. Nhưng quần chúng nhân dân hăng hái làm ông sôi nổi lên, nhưng không ai trong ngày ấy nhận ra sự mệt mỏi và cáu bẳn của ông. Thật ra đôi khi trong ngày lễ ông bị cảm sốt và viêm phế quản. Về sau bệnh viêm phế quản dẫn đến khó thở.
Mao không thể mặc quần áo được. Nhưng để tham dự lễ, người ta phải mặc quần áo cho ông. Ông không thích những ngày lễ trịnh trọng, đến nỗi sau này thậm chí từ chối khỏi chức vụ Chủ tịch cộng hoà nhân dân Trung hoa. Ông cũng bỏ cả các buổi tiếp mệt nhọc và các cuộc gặp chính thức. Đầu những năm 60 Mao chỉ tham dự ngày quốc khánh cộng hoà nhân dân Trung, nhưng chỉ 5 năm một lần. Ông giải thích điều này bề ngoài như là do vấn đề tiền bạc. Dù vậy trong những năm cuối Cách mạng văn hoá, lúc cao trào đấu tranh giành quyền lực, Mao xuất hiện trên quảng trường Thiên An Môn tám lần cả thảy. Ông chào mừng Hồng vệ binh từ khắp các ngõ ngách Trung quốc, và thổi vào họ những luồng kích thích mới. Đương nhiên, phí tổn cho cuộc biểu dương thích thú này lấy vượt quá tiền chi cho buổi lễ chính thức. Nhưng để giải quyết vấn đề quyền lực, Mao không ngần ngại chi phí này.
Sau âm mưu bất thành, Lâm Bưu bay sang Liên-xô tháng 9 năm 1971, Mao cũng thôi tham dự các buổi lễ chính thức.
Tuy nhiên ngày 1-5-1955 Mao vẫn còn đang hưng thịnh, còn tôi hoan hỉ bên cạnh ông và sự xót ruột do chi phí tiệc tùng dường như tan biến. Tôi đợi đến cuối buổi lễ để quay về xum họp gia đình. Nhưng điều này xảy ra. Tôi ngạc nhiên biết rằng Mao rất thích khiêu vũ một cách điên cuồng. Sau cách mạng các buổi khiêu vũ được coi là định kiến tư sản, các vũ trường bị đóng cửa. Tuy nhiên đằng sau bức tờng Trung Nam Hải, Mao hàng tuần đều bố trí khiêu vũ. Thường nhảy ở chỗ rộng rãi gian Liên Xuân, phía bắc tư dinh Mao. Ngay tối hôm ấy, sau khi pháo hoa, Mao quyết định khiêu vũ và tôi, bác sĩ riêng phải ở lại với ông.
Tôi cùng Mao vào phòng to. Tức khắc vây quanh Mao là những cô gái trẻ của nhóm khiêu vũ của bộ phận bảo vệ Mao. Họ tán tỉnh ông và mời ông nhảy. Ban kèn hơi chơi những bài nhạc nhảy điệu foxtrot, van-xơ và tăng gô, còn Mao làn lượt nhảy với hết cô này đến cô khác. Ông nhảy không đẹp, nhưng ăn nhịp tuyệt đẹp và nhảy khá tao nhã. Sau mỗi lần nhảy, ông kịp đổi bạn nhảy chỉ bằng vài câu. Những người còn lại cũng theo gương Mao vào nhảy. Giang Thanh chiều ấy không có mặt. Đêm hôm trước bà bay đi Hàng Châu. Tuy nhiên chiều ấy có mặt Chu Đức và Lưu Thiếu Kỳ. Trong gian chỉ có một vài chiếc bàn. Các nhà lãnh đạo ngồi ở đó. Hàng trăm người phục vụ và ca sĩ của ban nhạc ngồi ở ghế đặt quanh tường phòng nhảy. Đàn ông ít hơn phụ nữ, vì thế một cô gái xinh đẹp mời tôi nhảy.
Dần dần người ta thay các điệu nhạc phương tây bằng nhạc kinh kịch Trung quốc. Lúc ấy dưới con mắt người nước ngoài thì các màn nhảy này có vẻ gượng gạo, thô thiển, thậm chí còn không đứng đắn. Bản thân nhạc Trung quốc người phương tây không thể hiểu được, chỉ toàn những tiếng kèn nghe chói tai, người ta lại giải thích là do chưa hoàn thiện, khác hẳn với nhạc phương đông mà người phương tây quen nghe. Tôi ngạc nhiên là buổi chiều đó lại vang lên bản nhạc, trong đó kể về tình yêu của một cô gái điếm với chàng sinh viên trẻ. Tôi còn ngạc nhiên hơn nữa là tại thời điểm này Mao ra khỏi phòng và mô tả vở nhạc kịch bằng kiểu nhảy phương tây.
Khuya rồi, tôi cho là là nhiệm vụ của tôi đã xong. Tôi gặp Lý ẩm Kiều nói là tôi phải về nhà, nhưng anh ta nói:
- Đồng chí cần ở lại. Chủ tịch, tất nhiên, đang vui nhảy, nhưng ông vẫn quan sát tất cả chúng ta đấy. Nếu bây giờ đồng chí đi khỏi phòng, thì Mao đánh giá điều này như là thiếu tôn trọng ông. Phía đồng chí, là sự bỏ đi, phía tôi là sự cho phép đồng chí đi.
Tôi ngạc nhiên:
- Nhưng thế này là thế nào? Chúng ta hình như không làm điều gì đáng trách cả.
Lý trả lời:
- Thế đấy, đồng chí chưa hiểu rõ Chủ tịch. Hãy nghe tôi và đồng chí sẽ hiểu tất cả.
Lý hoàn toàn đúng. Thậm chí khi Mao nghỉ ngơi, ông ta cũng biết người của ông ở nơi nào và bắt tất cả mọi người phải ở bên cạnh ông. Một năm sau, ở Hàng Châu, tôi mệt đến mức quyết định không đến khiêu vũ. Tôi quay về vào buồng mình và quyết định nghỉ một lát, nhưng tôi nghe thấy tiếng gõ cửa. Tôi mở cửa và thấy tay vệ sĩ của Mao đứng ngay ngưỡng cửa:
- Có thật là người ta không báo cho đồng chí về buổi dạ hội không?
Anh ta nói thêm:
- Đồng chí nên đi đi!
Sau này vào năm 1958 ở Hồ Nam, tôi quyết định phớt lờ cuộc vui ban đêm do mưa to. Tuy nhiên sau một giờ một tay phụ trách công an tỉnh Hồ Nam xuất hiện trước mặt tôi và nói là Mao trao cho anh ta đón tôi đến cuộc vui đó. Sau đấy, tôi hiểu là mình phải luôn có mặt bên Mao.
Phải cần đến 7 năm tôi mới hiểu rằng Mao thu xếp các buổi khiêu vũ ban tối để làm gì. Các nhóm khiêu vũ thuộc bộ phận bảo vệ do Uông Đông Hưng xây dựng. Té ra là đội ngũ các cô gái nhẩy ấy không chỉ tiêu khiển các tay vệ sĩ và lính tráng, mà còn cho cả lãnh tụ. Trong nhóm có nhiều cô gái nhảy duyên dáng, thành thạo được trải qua thử thách lòng trung thành về mặt chính trị.
Năm 1961, người ta mang một trong những chiếc giường của lãnh tụ sang buồng bên cạnh phòng nhảy. Trong thời gian khiêu vũ, Mao không ít lần vào đó thư dãn cùng với các bạn nhảy xinh đẹp của mình.
Phó Chủ tịch ủy ban quân sự Bành Đức Hoài hai lần phê bình Mao về chuyện phiêu lưu tình ái với gái nhảy trong các cuộc họp Bộ chính trị. Bành là một ủy viên Bộ chính trị trung thực và thẳng thắn, và là người duy nhất thường phê bình Mao. Bành cũng tuyên bố rằng Mao sống như vua và chứa chấp khoảng ba nghìn tì thiếp. Ngoài ra, Bành buộc tội La Thụy Khanh và Uông Đông Hưng đã thỏa mãn mọi ý thích của lãnh tụ. Kết quả nhóm gái nhảy bị giải tán, nhưng Mao chẳng thay đổi gì, tiếp tục kéo các cô gái trẻ vào giường mình. Ông tìm những cô gái này chủ yếu ở các đoàn văn công thuộc Giải phóng quân Trung quốc, trong quân khu Bắc Kinh, trong các đơn vị không quân, đường sắt, pháo binh, cuối cùng là ở các tỉnh Triết Giang, Giang Tây và Hà Bắc. Nhưng lãnh tụ cũng chẳng từ cả các nhân viên bộ máy Ban chấp hành trung ương. Nhưng năm 1955 tôi vẫn còn chưa biết điều đó.
Tôi rất muốn về nhà, nhưng phải chờ đến cuối buổi. Chỉ mãi đến hai giờ sáng cuối cùng tôi mới được về nhà với vợ con.
Lý Liên đưa tôi bát cháo và rất đau khổ nói rằng ngày lễ của gia đình vắng tôi. Mẹ tôi chuẩn bị bữa cỗ ngon lành. Cả nhà chờ tôi đến 10 giờ tối và không ngồi vào bàn. Thằng con trai nhỏ của tôi mệt đến nỗi phải ngủ ở nhà bà và Lý Liên cũng phải ở lại chăm nó đến sáng sớm.
Sau vài tuần kể từ buổi gặp Mao hôm đầu, cuộc sống của tôi đã ra khỏi tầm tay. Chế độ sinh hoạt hàng ngày thay đổi hẳn, và Lý Liên nhận xét là tôi đã theo thói quen của Mao. Từ lúc nhận việc bác sĩ riêng của lãnh tu, cuộc ssóng của tôi và gia đình tôi trong suốt hai chục năm liền luôn luôn trong tình trạng bất ổn và lạ lùng. Tôi rất yêu Lý Liên, nhưng hiếm khi có mặt ở nhà. Các buổi giỗ chạp ở nhà mẹ tôi thường vắng mặt tôi. Trong những năm làm việc với Mao tôi chỉ có hai tuần nghỉ phép.
Đoi khi tôi phải thức với Mao suốt đêm. Tôi trở lại nhà khi trời sáng. Lý Liên luôn luôn chờ tôi và rất lo.
Mao thường xuyên du lịch, và tôi phải tháp tùng ông. Tôi có thể vắng nhà vài tháng, có một lần gia đình không nhìn thấy tôi cả năm. Lý Liên luôn trong tình trạng lo lắng cho tôi. Cô ta bị mất ngủ. Thằng con thứ hai của tôi, Erward sinh năm 1956, và ngày sinh nó tôi cũng không có mặt ở nhà.
Lý Liên cho rằng thật lạ lùng người ta buộc tôi phải sống trong một môi trường như thế. Vợ tôi không vào đảng. Người ta đánh giá vợ tôi là không tin cậy về chính trị do thành phần xuất thân và vài năm làm sở Mỹ và Anh. Chỉ có chức vụ của tôi mới bảo vệ được cô ta những cuộc bão táp chính trị mà nạn nhân lên đến con số hàng triệu người.
Tất cả sức lực vợ tôi dành cho gia đình, nuôi nấng con cái và chăm sóc mẹ già của tôi. Lý Liên cố gắng xây dựng trong nhà một góc con bầu không khí hạnh phúc và sung sướng để trong những giờ hiếm hoi khi tôi ở nhà để tôi cảm thấy hạnh phúc và yên tâm. Lý Liên trở về Trung quốc khi là một phụ nữ trẻ, hiền lành và đầy sinh lực. Trong máu vợ tôi sôi lên nhiệt huyết, và rất yêu đất nước. Nhưng năm tháng đã làm vợ tôi thay đổi đến mức làm tôi đau lòng và thất vọng triền miên. Sự sợ hãi vì tôi, không công việc ổn định và sự rời rạc cuộc sống mới ở Trung quốc - khiến vợ tôi buồn rầu và chán nản. Chúng tôi không sống mà là bơi theo dòng. Khó mà gọi gia đình chúng tôi là gia đình - Vợ tôi nói thế.
Những hy vọng trong mắt vợ tôi đã héo dần.