watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Zarathustra đã nói như thế-Chú thích của người dịch - tác giả Friedrich Nietzsche Friedrich Nietzsche

Friedrich Nietzsche

Chú thích của người dịch

Tác giả: Friedrich Nietzsche

“Zarathustra đã nói như thế” của Nietzsche là một tác phẩm nổi tiếng khó dịch, vì những ẩn ý, những biểu tượng, những hình ảnh hết sức cụ thể để chỉ những chân lý trừu tượng, vì những lối chơi chữ mang hai, ba nghĩa khác biệt nhau, vì tư tưởng triết học được diễn tả hết sức cô đọng và nhẹ nhàng mây khói như thi ca, vì những lối ghép chữ mới lạ tân kỳ của Nietzsche. Nietzsche không muốn làm bạn đường với những độc giả vội vàng, và bởi đó, nông cạn hời hợt.


Vì thế, trong khi biên dịch, ngoài nguyên bản Đức ngữ Also sprach Zarathustra trong bộ Friedrich Nietzsche , Werke in drei Bãnden, cuốn II , do Karl Schlecta san nhuận (Carl Hanser Verlag, Mũnchen, 1960), chúng tôi còn sử dụng kinh nghiệm dịch thuật Zarathustra trong các bản dịch Anh ngữ và Pháp ngữ hiện hành:


1) Thus Spoke Zarathustra , bản dịch của Walter Kaufmann, trong The Portable Nietzsche ; bản in lần thứ 21 (1967) của n.x.b The Viking Press - New York, từ những trang 103-439.


2) Thus Spoke Zarathustra, bản dịch với lời giới thiệu của R. J. Hollingdale ; bản in lần thứ 4 (1967) của n.x.b Penguin Books.


3) Thus Spoke Zarathustra, bản dịch của Marianne Cowan, bản in lần thứ 5 (1968) của n.x.b Henry Regnery Company: Chicago.


4) Ainsi parlait Zarathustra, bản dịch với lời tựa của Genevière Bianquis, trong tùng thư song ngữ Đức-Pháp, n.x.b Aubier.


5) Ainsi parlait Zarathustra, bản dịch của Henry Albert, n.x.b Mercure de France (1967).


6) Ainsi parlait Zarathustra, bản dịch của Maurice Betz, tựa của Henri Thomas, n.x.b Gallimard (1965).


Nói chung, có thể nhận định về các bản dịch ấy trên hai phương diện: văn từ, tức là phương tiện chuyên chở của ngôn ngữ dịch và nội dung ẩn mật mà phương tiện ấy đưa dẫn đến.
Về mặt văn từ, các bản dịch Pháp thường để lộ nhiều sơ hốt so với các bản Anh ngữ. Chẳng hạn, nơi trang 312-313, bản dịch của Bianquis, ta thấy câu “so tief der Mensch in das Leben sieht, so tief sieht er auch in das Leiden” được chuyển thành “quand l’homme plonge son regard dans la vie, c’est dans la pitié qu’il le plonge” (khi con người nhìn sâu vào đời sống thì con người càng nhìn sâu vào lòng thương xót), trong khi thực ra câu đó có nghĩa “càng nhìn sâu vào đời sống, con người càng nhìn sâu thẳm vào trong thống khổ”. Lý do chắc là vì Bianquis đọc lầm chữ Leiden (sự đau khổ, thống khổ) trong nguyên bản thành chữ Mitleiden là “lòng thương xót”. Bản của Betz (trang 182): “l’homme voit au fond de la souffrance aussi profondément qu’au fond de la vie” cũng không lột tả được nguyên ý, trừ bản của Albert (trang 146): “l’homme voit au fond de la souffrance, aussi profondément qu’il voit au fond de la vie”.


Một thí dụ nữa, trong bài Sầu ca , câu nguyên văn tiếng Đức là: “er selber dũnkt mich õfter gleich einer schõnen Heiligen-Larve” đã được Albert (trang 274) lẫn Betz (trang 339) dịch là: “il me semble le plus souvent semblable à une belle larve de saint” (và thường khi ta thấy hắn có vẻ giống với một con sâu xinh đẹp của bậc thánh nhân) thay vì phải dịch là “... à un beau masque de saint” (giống như chiếc mặt nạ xinh đẹp của bậc thánh nhân) để chuyển xuống đoạn dưới (xin đọc lại trang 606 bản Việt ngữ), dẫu rằng trong Đức ngữ, chữ Larve mang cùng lúc hai ý nghĩa “mặt nạ” và “con sâu”.


Thêm vào đó là một số những lỗi kỹ thuật không được đính chính, nên có thể làm sai lạc tinh thần nguyên tác. Chẳng hạn “âme” in lộn thành “âne”, “esprit de lourdeur” in thành “esprit de douleur”, vân vân.
So sánh những cách dịch và những khuyết điểm trong từng bản dịch sẽ là một công việc kéo dài, vượt quá khuôn khổ bài Chú thích này, vì nhân đó, chúng tôi cũng phải đưa ra quan điểm dịch thuật của riêng mình. Nếu nhớ rằng đa số trong sáu dịch giả dẫn thượng đều là những dịch giả tài ba chuyên môn về Nietzsche , thì ta sẽ dễ dàng thông qua vấn đề văn từ để bước thẳng tới vấn đề thứ hai có tính cách căn để hơn mà ta đã nêu ra: văn từ sử dụng đưa dẫn tới nội dung tư tưởng nào?


Đối diện với câu hỏi này, ta sẽ lập tức thấy rằng tất cả mọi bản dịch đều là bất toàn , bao lâu còn chưa trả lời được câu hỏi căn bản “Zarathustra là ai?”


Đặt vào một bầu khí triết học mới, ngôn ngữ dịch Zarathustra liền thay đổi bình diện và người ta hầu như bắt buộc phải dịch trở lại Zarathustra một lần nữa. Chẳng hạn, đặt vào trong kiến giải của Heidegger về Nietzsche, thì một chữ đơn giản là Der Genesende (Kẻ bình phục, trang 441 bản Việt ngữ) cũng đã đặt thành bao nhiêu vấn đề. Nếu dịch theo nghĩa thông thường như các bản Anh và Pháp là “The Convalescent” hay “Le Convalescent”, thì ta đã vô tình đánh rơi mất ý nghĩa triết học của Zarathustra dưới khía cạnh là một “kẻ bình phục”. Theo sự phân tích của Heidegger, der Genesende , cùng ngữ tộc với động từ genesen , do ngữ căn Hy Lạp neomai, nostos , mà ý nghĩa là “quay trở về nơi cư trú”. Vậy, der Genesende , là kẻ đang lên đường bình an quay trở lại quê hương, quy hồi về với vận mệnh và tinh thể của mình. Đó là ý nghĩa Nietzsche muốn nêu lên khi gọi Zarathustra là der Genesende . Bản Việt ngữ có thể dùng chữ “kẻ bình phục” hay “kẻ hồi phục”, trong ý nghĩa thông thường là “kẻ vừa qua cơn bệnh nặng” và ý nghĩa triết học là “kẻ đang phục hồi hay quy hồi về với tinh thể của mình”. Ở đây, Việt ngữ đã có cơ hội may mắn song hành với Đức ngữ mật thiết, hơn là các ngôn ngữ khác, để khai mở những ẩn ngữ còn được che giấu trong Zarathustra .


Nhưng còn những lần nào, Việt ngữ lại che khuất thêm những ẩn ngữ ấy đi?


Đó có lẽ là lý do tại sao mãi đến bây giờ, mặc dầu đã có hàng chục bản dịch Zarathustra, tác phẩm này vẫn được dịch đi dịch lại mãi, như một cám dỗ và thách thức luôn luôn mới mẻ: “Tác phẩm dành cho tất cả và không dành cho một ai”.

Nhằm giới hạn bớt chiều dài và tính cách khúc mắc của tác phẩm, phần Chú thích sau đây hoàn toàn dựa theo R. J. Hollingdale trong bản dịch đã dẫn. Người dịch nhân đây cũng xin ngỏ lời cảm tạ Giáo sư Ngô Trọng Anh đã cho phép sử dụng bản dịch bài thơ Sầu Ca (trang 607-611) đã đăng trên tạp chí Tư Tưởng, Viện Đại học Vạn Hạnh, như một đóng góp đầy thơ mộng cho ngày sinh nhật sắp đến của Nietzsche.



MỤC LỤC

Giới thiệu


Những bài thuyết giáo của Zarathustra
Về ba cuộc hóa thân
Về những giảng tòa về đức hạnh
Về những người nuôi ảo tưởng thế giới bên kia
Về những kẻ khinh miệt thân xác
Về những hoan lạc và đam mê
Về người tội nhân mặt mét
Về đọc và viết
Về cái cây trên đỉnh núi
Về những kẻ rao giảng sự chết
Về chiến tranh và các chiến sĩ
Về thần tượng mới
Về những con ruồi ở công trường
Về sự trinh khiết
Về bằng hữu
Về một nghìn lẻ một mục đích
Về tình yêu kẻ láng giềng
Về những con đường của kẻ sáng tạo
Về những thiếu nữ và bà già
Về vết cắn của con rắn độc
Về con cái và hôn nhân
Về cái chết tự nguyện
Về đức hạnh ban phát



Phần thứ hai
Đứa bé với tấm gương
Trên những hòn đảo Vĩnh Phúc
Về những kẻ có lòng thương xót
Về các linh mục
Về những con người đức hạnh
Về đám tiện dân
Về những con nhện độc
Về những nhà hiền triết nổi danh
Dạ khúc
Vũ khúc
Mộ khúc
Về sự chiến thắng tự thân
Về những con người cao nhã
Về xứ sở văn minh
Về tri thức băng trinh
Về những nhà học giả
Về những thi sĩ
Về những biến cố vĩ đại
Viên bốc sư tiên tri
Về sự cứu chuộc
Về sự e dè cẩn trọng của loài người
Giờ phút im lặng nhất




Phần thứ ba
Kẻ lang thang phiêu bạt
Về ảo tượng và ẩn ngữ
Về niềm lạc phúc bất đắc dĩ
Trước buổi rạng đông
Về đức hạnh làm cho ti tiện nhỏ bé
Trên núi ôliu
Về sự tha thứ bỏ qua
Về những kẻ bội giáo
Trở lại quê hương
Về ba điều xấu ác
Về tinh thần trì độn nặng nề
Về những bảng giá trị cũ và mới
Kẻ bình phục
Về nỗi khát vọng mênh mông
Vũ khúc thứ nhì
Bảy ấn tích (hay là Khúc ca thuận mệnh)



Phần thứ tư
Lễ hiến mật
Tiếng kêu thống khổ
Đàm đạo với các ông vua
Con đỉa hút máu
Viên pháp sư
Miễn dịch
Kẻ xấu xí nhất loài người
Người ăn xin tự nguyện
Chiếc bóng
Ngọ thiên
Cuộc chào mừng
Bữa ăn cuối cùng
Về con người thượng đẳng
Sầu ca
Về khoa học
Giữa những nàng gái thơ sa mạc
Thức tỉnh
Lễ trọng dành cho con lừa
Khúc hát cuồng say
Dấu hiệu



Phụ lục
Nietzsche: năm tản văn về Zarathustra
I
II
III
IV
V
Chú thích của người dịch
Zarathustra đã nói như thế
Giới thiệu
Phần một - 1
- 2 -
- 3 -
- 4 -
- 5 -
- 6 -
- 7 -
- 8 -
- 9 -
- 10 -
- 11 -
- 12 -
- 13 -
- 14 -
- 15 -
- 16 -
- 17 -
- 18 -
- 19 -
- 20 -
- 21 -
- 22 -
- 23 -
PHẦN THỨ HAI - 24 -
- 25 -
- 26 -
- 27 -
- 28 -
- 29 -
- 30 -
- 31 -
- 32 -
- 33 -
- 34 -
- 35 -
- 36 -
- 37 -
- 38 -
- 39 -
- 40 -
- 41 -
- 42 -
- 43 -
- 44 -
- 45 -
PHẦN THỨ BA - 46 -
- 47 -
- 48 -
- 49 -
- 50 -
- 51 -
- 52 -
- 53 -
- 54 -
- 55 -
- 56 -
- 57 -
- 58 -
- 59 -
- 60 -
- 61 -
PHẦN THỨ TƯ - 62 -
- 63 -
- 64 -
- 65 -
- 66 -
- 67 -
- 68 -
- 69 -
- 70 -
- 71 -
- 72 -
- 73 -
- 74 -
- 75 -
- 76 -
- 77 -
- 78 -
- 79 -
- 80 -
- 81 -
PHỤ LỤC
Chú thích của người dịch